ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MẠNH DŨNG
QUỐC HỘI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG NHẤT
CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MẠNH DŨNG
QUỐC HỘI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG NHẤT
CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Chuyên ngành:
Mã số:
Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
60.38.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Ngô Đức Mạnh
Hà Nội - 2008
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 4
1.
Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................... 4
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nƣớc .............................................. 6
3.
Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 7
4.
Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ....................................... 8
5.
Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 8
6.
Những đóng góp mới của Luận văn ....................................................... 9
7.
Cấu trúc của Luận văn ............................................................................ 9
NỘI DUNG ...................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘ I TRONG
VIỆC ĐẢM BẢO TÍNH THỐNG NHẤT CỦA HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT….. ......................................................................................................... 11
1.1. Khái niệm và ý nghiã về tính thống nhất của hệ thống pháp luật ........ 11
1.2. Vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật……….. ......................................................................................... 16
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI TRONG
VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG NHẤT CỦA HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT ............................................................................................................... 20
2.1. Khuôn khổ pháp luâ ̣t về sƣ̣ tham gia của Quố c hô ̣i trong bảo đảm tiń h
thố ng nhấ t của hê ̣ thố ng pháp luật ............................................................... 20
2.1.1. Quyết định Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh .................... 21
2.1.2. Tham gia và thúc đẩy quá trình soạn thảo .................................. 25
2.1.3. Thẩm tra các dự án luật ............................................................... 27
2.1.4. Xem xét, thảo luận và thông qua các dự án luật ......................... 30
2.1.5. Thiết lập các thiết chế bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật ................................................................................................... 32
1
2.2. Sƣ̣ tham gia của Quốc hội trong viê ̣c bảo đảm tiń h thố ng nhấ t của hê ̣
thố ng pháp luâ ̣t ............................................................................................. 35
2.2.1. Trong hoạt động xây dựng pháp luật........................................... 35
2.2.2. Trong hoạt động giải thích pháp luật .......................................... 37
2.2.3. Trong việc thiết lập các thiết chế ................................................. 38
2.2.4. Trong hoạt động xem xét, rà soát các văn bản quy phạm pháp
luật……..................................................................................................... 39
2.3. Đánh giá về sƣ̣ tham gia của Quố c hô ̣i trong bảo đảm tiń h thố ng nhấ t
của hệ thống pháp luật.................................................................................. 40
2.3.1. Trong hoạt động xây dựng pháp luật........................................... 40
2.3.2. Trong hoạt động giải thích pháp luật .......................................... 45
2.3.3. Trong hoạt động thiết lập các thiết chế bảo đảm tính thống nhất
của hệ thống pháp luật ............................................................................. 46
2.3.4. Trong hoạt động xem xét, rà soát các văn bản quy phạm pháp
luật……….. ............................................................................................... 48
2.4. Các yếu tố , nguyên nhân ảnh hƣởng đế n sƣ̣ tham gia của Quố c hô ̣i
trong bảo đảm tin
́ h thố ng nhấ t của hê ̣ thố ng pháp luâ ̣t ................................ 48
2.4.1. Quan niệm chưa hợp lý về vai trò của Quốc hội trong hoạt động
lập pháp .................................................................................................... 49
2.4.2. Quy trình lập pháp chưa hợp lý ................................................... 53
2.4.3. Năng lực thể chế của Quốc hội chưa được đảm bảo ................... 66
2.4.4. Chưa gắn kết được hoạt động giám sát việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật với việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành
luật……………. ......................................................................................... 68
CHƢƠNG 3 TĂNG CƢỜNG VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI TRONG VIỆC
BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG NHẤT CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ........... 70
3.1. Đổi mới nhận thức về vai trò, thẩm quyền lập pháp của Quốc hội ...... 70
3.2. Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp ............................................ 72
3.2.1. Cải tiến việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh ........... 72
2
3.2.2. Đề cao vai trò của hoạt động xây dựng chính sách lập pháp
thống nhất ................................................................................................. 73
3.2.3. Tăng cường hiệu quả của công tác thẩm tra ............................... 76
3.2.4. Cải tiến thủ tục tại các kỳ họp Quốc hội ..................................... 79
3.2.5. Đổi mới phương thức hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc
hội............... .............................................................................................. 80
3.2.6. Quy trình mở để thu thập ý kiến công chúng ............................... 81
3.3. Tăng cƣờng năng lực của cá nhân đại biểu Quốc hội ........................... 81
3.4. Áp dụng các kỹ thuật lập pháp thống nhất và hiện đại ......................... 84
3.4.1. Áp dụng kỹ thuật dùng một luật sửa nhiều luật ........................... 84
3.4.2. Áp dụng kỹ thuật pháp điển hóa .................................................. 86
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 94
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình thực hiện chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta về công
tác xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật là một yếu tố quan trọng. Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến lƣợc phát triển
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020 đã
xác định mục tiêu “xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch”. Mục tiêu này tiếp tục đƣợc nhấn mạnh
trong Nghị quyết số 56/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của Quốc hội
khóa XI về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 của Việt
Nam. Theo đó, “khẩn trƣơng hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Tiếp tục đổi mới, tăng cƣờng chất lƣợng công tác xây dựng pháp luật,
bảo đảm các quy định của pháp luật phải cụ thể, rõ ràng và minh bạch để
giảm dần việc ban hành văn bản quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành. Tổ
chức thực hiện thƣờng xuyên và có hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát việc ban hành văn bản quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành luật,
pháp lệnh, nghị quyết; việc tuân theo pháp luật trong mọi hoạt động của đời
sống xã hội” là một trong mƣời lăm nhiệm vụ, giải pháp lớn đƣợc xác định
trong Kế hoạch.
Với vị trí, vai trò là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nƣớc cao nhất, Quốc hội có 3 chức năng cơ bản là lập hiến và
lập pháp, giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nƣớc và quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nƣớc. Do đó, Quốc hội có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
4
Thực hiện các chức năng của mình, trong thời gian gần đây, Quốc hội
nƣớc ta đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Quốc hội trong
việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Tuy vậy, bên cạnh
những thành tựu đạt đƣợc, trong việc thực hiện vai trò bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật, hoạt động của Quốc hội vẫn còn nhiều hạn chế.
Trong hoạt động lập pháp, Ủy ban pháp luật của Quốc hội vẫn chƣa thực hiện
đầy đủ nhiệm vụ của mình trong việc thẩm tra, bảo đảm tính thống nhất của
các dự án luật, pháp lệnh đƣợc Quốc hội và Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem
xét, thông qua. Một số văn bản luật đƣợc ban hành vẫn còn những điều khoản
không phù hợp với các văn bản luật, pháp lệnh khác trong hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật. Ví dụ gần đây nhất là Luật tổ chức Quốc hội đƣợc sửa
đổi, bổ sung nhƣng một số văn bản luật khác có liên quan lại không đƣợc xem
xét, sửa đổi cùng lúc, dẫn tới việc có một số điều khoản của một số đạo luật
có liên quan chƣa phù hợp với các quy định mới của Luật này nhƣ Luật Kiểm
toán Nhà nƣớc, Luật về hoạt động giám sát, Luật ngân sách nhà nƣớc. Hơn
thế nữa, hoạt động giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn
chƣa đƣợc Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tiến hành một cách thƣờng
xuyên.
Thêm vào đó, tình trạng “luật ống”, “luật khung” vẫn còn tồn tại khá
phổ biến, làm cho luật chậm đi vào cuộc sống cũng dẫn tới cách hiểu không
thống nhất về nội dung luật do Quốc hội ban hành. Từ đó, đáp ứng yêu cầu
của công cuộc hội nhập nền kinh tế quốc tế, với chủ trƣơng xây dựng một nhà
nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân thì
nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong thời gian tới là Quốc hội cần ban hành số
lƣợng văn bản lớn có chất lƣợng và tính đồng bộ, thống nhất cao. Do vậy,
việc nghiên cứu và đánh giá nhằm nâng cao vai trò của Quốc hội trong việc
bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật vào thời điểm hiện nay là một
5
việc làm hết sức cần thiết, nhất là khi mà cho đến nay vẫn chƣa có một báo
cáo nghiên cứu nào đề câp toàn diện đến các vấn đề lý luận và thực tiễn về vai
trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của Quốc hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nƣớc
Có thể thấy rằng, lý luận và thực tiễn về hệ thống pháp luật, tính thống
nhất của hệ thống pháp luật, cũng nhƣ vai trò của các cơ quan nhà nƣớc hữu
quan, trong đó có các cơ quan của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật, là những nội dung đƣợc sự quan tâm của các vị
đại biểu Quốc hội, các nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn. Tuy
vậy, đến thời điểm hiện nay, chƣa có công trình nghiên cứu khoa học nào tập
trung lý giải một cách toàn diện, có hệ thống và chuyên sâu những vấn đề về
lý luận và thực tiễn về vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật.
Một số nghiên cứu có đề cập đến hệ thống pháp luật và một số khía
cạnh khác có liên quan đến đề tài nhƣ nâng cao chất lƣợng công tác lập pháp
gắn với quy trình, thủ tục lập pháp, sự tham gia và phối hợp của các chủ thể
trong hoạt động lập pháp,… nhƣng chƣa đề cập, lý giải vấn đề gắn với tăng
cƣờng vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật. Những nghiên cứu này đƣợc một số tác giả thể hiện dƣới dạng các
bài viết, tham luận đăng tải trên một số báo, tạp chí hoặc đƣợc trao đổi tại một
số cuộc hội thảo, tọa đàm ở trong nƣớc:
1. Nguyễn Văn Thuận, „Thực trạng bảo đảm tính hợp hiến và tính
thống nhất trong hệ thống pháp luật của các văn bản quy phạm pháp luật‟, tài
liệu Hội thảo về Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam do Ban công tác lập pháp và Dự
án SIDA tổ chức tại Thành phố Vinh tháng 3/2005;
2. Phạm Văn Hùng, „Đổi mới quan niệm về pháp luật - Khởi điểm của
6
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật‟, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5,
năm 2006;
3. Nguyễn Đình Lộc, „Kế thừa, phát huy truyền thống pháp điển hóa
Việt Nam ngàn năm tuổi để xây dựng một hệ thống các đạo luật Việt Nam
thời kỳ đổi mới‟, bài viết tại Hội thảo về pháp điển hóa do Ban Công tác lập
pháp tổ chức tại Đà Lạt, 2/2007;
4. Nguyễn Cửu Việt, „Khái niêm văn bản quy phạm pháp luật và hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật‟ Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4 và số
5, năm 2007;
5. Nguyễn Bá Chiến, „Rà soát để hoàn thiện hệ thống pháp luật: Tình
trạng thừa quy định pháp luật‟, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24, năm
2007;
6. Đặng Văn Chiến, „Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất của hệ thống pháp luật‟, Báo Ngƣời đại biểu nhân dân, số ngày 7 và 8
tháng 02 năm 2008;
7. Đặng Văn Chiến, „Vai trò của Ủy ban pháp luật trong việc bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật‟, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 115, tháng 1/2008.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là xác định vai trò của Quốc hội
trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật; xem xét thực
trạng, phân tích và xác định các nguyên nhân, từ đó đề xuất các kiến nghị về
việc nâng cao vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật và kiến nghị về các công việc Quốc hội cần thực hiện nhằm
nâng cao năng lực của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ
7
thống pháp luật.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nhƣ đã nêu trên, đối tƣợng nghiên cứu của
bản Luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận, thực tiễn khuôn khổ pháp lý về
vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp
luật; thực trạng các hoạt động của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật ở nƣớc ta.
Do tính phức tạp và đa dạng của hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật: Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản dƣới luật, Luận văn chủ yếu
tập trung nghiên cứu về vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong
việc bảo đảm tính thống nhất của các văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội
(sau đây gọi chung là văn bản luật) mà không phân tích vấn đề bảo đảm tính
thống nhất của các văn bản dƣới luật với Hiến pháp, luật và pháp lệnh. Một số
trƣờng hợp cụ thể đƣợc đề cập trong bản Luận văn là những ví dụ cụ thể để
làm rõ mối liên hệ giữa các văn bản pháp luật mà thôi.
Đồng thời, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, hệ thống pháp luật
đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp là “hệ thống các văn bản luật” vì “hệ thống pháp
luật” theo nghĩa rộng không chỉ gồm các văn bản, mà còn các thiết chế thực
thi văn bản pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài, luận văn dựa trên cơ sở phƣơng
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nƣớc Việt Nam về hoạt động lập pháp và vai trò, chức năng của
Quốc hội trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Các phƣơng pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, nghiên cứu trƣờng hợp
điển hình, thống kê đã đƣợc sử dụng để thực hiện bản Luận văn này.
8
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Phân tích một số vấn đề lý luận về tính thống nhất của hệ thống pháp
luật, đƣa ra khái niệm về tính thống nhất của hệ thống pháp luật, ý nghĩa và
những biểu hiện của tính thống nhất của hệ thống pháp luật, từ đó làm rõ lý
luận về vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Đƣa ra một bức tranh tổng quát các quy định của pháp luật về sự tham
gia và vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật và thực tiễn sự tham gia của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
trong việc thúc đẩy và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật ở nƣớc
ta thời gian vừa qua.
Đề xuất các giải pháp chủ quan và khách quan của vấn đề, những giải
pháp mang tính kỹ thuật và những giải pháp cụ thể khác trong việc tổ chức
thực hiện và tiến hành các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
trong các hoạt động gắn với việc nâng cao vai trò của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Từ
đó góp phần tạo nên giá trị tham khảo quan trọng cho việc hoàn thiện các quy
định pháp luật nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
7. Cấu trúc của Luận văn
Phần mở đầu: Giới thiệu khái quát bối cảnh nghiên cứu, mục đích, đối
tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu, một số đóng góp mới của Luận văn
và cấu trúc của Luận văn
Phần nội dung: Đƣợc bố cục thành 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Quốc hội trong việc đảm bảo
9
tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Chƣơng 2: Thực trạng về vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống pháp luật
Chƣơng 3: Tăng cƣờng vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống pháp luật
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
10
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI TRONG VIỆC ĐẢM
BẢO TÍNH THỐNG NHẤT CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm và ý nghĩa về tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Pháp luật của Nhà nƣớc ta đƣợc cấu thành từ những văn bản quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành. Mỗi văn bản quy
phạm pháp luật là một tập hợp nhiều quy phạm pháp luật, thƣờng đƣợc gọi là
điều luật, với chức năng điều chỉnh một quan hệ xã hội nhất định,thuộc một
lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Nếu tính theo số lƣợng các điều luật,
pháp luật của Nhà nƣớc ta có thể lên đến hàng ngàn, hàng vạn điều, hàng
ngàn, hàng vạn quy phạm pháp luật.
Nét đặc trƣng cơ bản của các quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc là dù
nhiều đến bao nhiêu, nội dung, hình thức văn bản pháp luật đƣợc ban hành
khác nhau nhƣ thế nào và do các các cơ quan Nhà nƣớc nào ban hành thì cũng
đều đƣợc tập hợp lại và đó không phải là một tập hợp các điều luật tồn tại một
cách rời rạc, không có liên quan gì với nhau mà hợp thành một chỉnh thể, kết
thành hệ thống và là một hệ thống có sự thống nhất bên trong, nội bộ, hay nói
một cách chặt chẽ là sự thống nhất nội tại của các điều luật, các văn bản quy
phạm pháp luật.
Ở nƣớc ta, sự đa dạng và những yêu cầu về tính thống nhất nội tại của
hệ thống pháp luật đƣợc thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật về
trình tự, thủ tục, phƣơng thức và cách thức thực hiện việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật, mà trƣớc hết, đƣợc thể hiện tập trung và rõ nét nhất
trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật [5, 6].
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định nhiều
11
hình thức văn bản quy phạm pháp luật với hiệu lực pháp lý và thẩm quyền
ban hành khác nhau. Theo quy định của Luật, văn bản quy phạm pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp, tiếp đó là luật, nghị quyết của Quốc
hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội; nghị định, nghị
quyết của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tƣớng chính phủ;… Chính
sự đa dạng về các loại hình văn bản, cấp độ hiệu lực cũng nhƣ chủ thể ban
hành đòi hỏi phải có “trật tự, quy tắc” trong việc ban hành để đảm bảo hệ
thống các văn bản đó không xung đột, không mâu thuẫn mà ngƣợc lại phối
hợp, hỗ trợ nhau để đảm bảo hiệu quả điều chỉnh pháp luật. Nói cách khác,
một yêu cầu đặt ra là bảo đảm tính thống nhất của tổng thể các văn bản quy
phạm pháp luật đó. Trên phƣơng diện này, tính thống nhất của hệ thống pháp
luật thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính đồng bộ của các văn bản quy phạm pháp luật. Đây là
việc ban hành các văn bản một cách kịp thời, đồng bộ để tạo nên tính thổng
thể của nội dung, vấn đề hoặc nhóm các vấn đề cần đƣợc pháp luật điều
chỉnh. Trong thực tế, với cấp độ các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau,
mỗi văn bản có vai trò và mục đích riêng. Thông thƣờng, ứng với mỗi đạo
luật do Quốc hội ban hành kèm theo đó là các văn bản có thể là pháp lệnh,
nghị định, thông tƣ,… hƣớng dẫn chi tiết thực hiện đạo luật đó. Trong trƣờng
hợp văn bản hƣớng dẫn chƣa đƣợc ban hành thì những nội dung trong văn
bản luật còn quy định chung chung, chƣa cụ thể hoặc chƣa quy định rõ về quy
trình, thủ tục và cách thức áp dụng các quy phạm pháp luật,… nên chƣa thể
thực hiện trong cuộc sống một cách thống nhất. Trong trƣờng hợp này, việc
giải thích các đạo luật cụ thể, rõ ràng hoặc ban hành kịp thời hệ thống các văn
bản hƣớng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện các quy định của đạo luật có vai
trò quan trọng để thống nhất cách hiểu, cách áp dụng các quy định của đạo
luật đó trong thực tiễn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với thực trạng luật
12
của chúng ta còn quy định chung chung, không cụ thể để có thể thực hiện
đƣợc ngay. Một văn bản luật đƣợc ban hành với những quy định không cụ thể
đồng nghĩa với việc văn bản luật đó chứa đựng những quy định có thể hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau và cũng có nghĩa là hàm chứa trong đó sự mâu
thuẫn trong cách hiểu và áp dụng, nếu nhƣ không đƣợc giải thích hoặc hƣớng
dẫn thi hành cụ thể bởi các văn bản dƣới luật hƣớng dẫn thi hành.
Thứ hai là, tính nhất quán giữa các văn bản pháp luật. Việc ban hành
đồng bộ, kịp thời các văn bản có liên quan để điều chỉnh một hoặc một nhóm
quan hệ pháp luật có chung một đặc điểm nào đó là chƣa đủ hoặc chƣa đạt
yêu cầu, nếu nhƣ những văn bản đó có sự mâu thuẫn, chồng chéo về nội dung
hoặc thậm chí là mâu thuẫn về chính sách pháp luật. Đối với cùng một vấn đề
có thể đƣợc quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, ở
các hình thức, cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau và do những chủ thể có
thẩm quyền khác nhau ban hành. Do đó, luôn tiềm ẩn khả năng quy định khác
nhau về cùng một nội dung giữa các văn bản đó. Việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật muốn bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
phải đáp ứng đƣợc 2 tiêu chí cơ bản sau:
(i) Đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, theo đó không có đạo luật nào,
văn bản quy phạm hay áp dụng pháp luật nào trái với nội dung và tinh thần
của Hiến pháp. Trong hệ thống pháp luật, các văn bản pháp luật của cơ quan
nhà nƣớc cấp dƣới không trái với văn bản pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp
trên, các văn bản dƣới luật không trái với văn bản luật (thống nhất theo chiều
dọc);
(ii) Đảm bảo sự phù hợp giữa các văn bản ở cùng cấp độ hiệu lực. Nói
cách khác, văn bản do các chủ thể ở cùng cấp về địa vị pháp lý ban hành
không có các quy định mâu thuẫn, xung đột, trái chiều về cùng một nội dung
(thống nhất theo chiều ngang).
13
Thứ ba là, tính ổn định của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Đây
là khả năng tƣơng tác của văn bản với hệ thống các văn bản khác và với chính
bản thân văn bản đó. Tính ổn định thực chất là đảm bảo cho nhiều văn bản
cùng điều chỉnh về một vấn đề đƣợc thống nhất trong cách thể hiện, trình bày
văn bản. Nói cách khác, một văn bản đƣợc ban hành phải đủ ổn định, “sống”
đƣợc trong một khoảng thời gian nhất định và các văn bản khác ban hành sau
đó có sự bổ sung, tƣơng hỗ trong tổng thể mối quan hệ với văn bản đó.
Nội dung quan trọng về tính ổn định của hệ thống văn bản luật là yêu
cầu về việc không hồi tố theo hƣớng hạn chế quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể trong quan hệ pháp luật. Đây là yêu cầu cơ bản về bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mỗi quy phạm pháp luật đều có thời gian tồn tại
hợp lý, sau một khoảng thời gian đƣợc thực hiện, do sự thay đổi của tình hình,
cần có sự điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế. Do đó, trong trƣờng hợp một
quan hệ pháp luật đƣợc điều chỉnh bởi một quy phạm pháp luật nào đó và
đƣợc xác định hiệu lực theo một khoảng thời gian nhất định, thì khi có sự điều
chỉnh, bổ sung, hủy bỏ quy định pháp luật đó, hoặc ban hành quy định mới để
thay thế, thì quan hệ xã hội đƣợc điều chỉnh theo quy định cũ vẫn còn có giá
trị thi hành, nếu việc áp dụng quy định có lợi cho các chủ thể có liên quan.
Điều này thể hiện hiệu lực không hồi tố của các quy phạm pháp luật đƣợc ban
hành.
Nhƣ vậy, một cách khái quát có thể định nghĩa tính thống nhất của hệ
thống pháp luật là sự đồng bộ về số lượng các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành dưới các hình thức pháp lý khác nhau, theo thứ bậc về hiệu
lực pháp lý, thống nhất về nội dung thể hiện và phù hợp về cấu trúc nội tại
của văn bản quy phạm pháp luật và giữa văn bản đó với hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật khác cùng điều chỉnh một lĩnh vực hoặc một nhóm quan
14
hệ có cùng tính chất hoặc một quan hệ pháp luật cụ thể nào đó.
Nhƣ vậy, tính thống nhất của hệ thống pháp luật có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, có thể xem là một trong những thƣớc đo của sự phát triển bền
vững và là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật là điều kiện quan trọng
để đảm bảo cho pháp luật đƣợc thực thi bởi nếu pháp luật đƣợc quy định thiếu
thống nhất thì việc thực thi pháp luật đó có thể tạo ra sự bất hoà, sự xung đột
trong xã hội, xói mòn sự tin tƣởng của ngƣời dân vào pháp luật.
Có thể nêu lên ý nghĩa và tầm quan trọng của tính thống nhất của hệ
thống pháp luật đƣợc thể hiện nhƣ sau:
(i) Tạo nên sự ổn định của pháp luật và do đó gây dựng đƣợc lòng tin
của nhân dân vào pháp luật. Đó chính là cơ sở quan trọng để xây dựng nền
pháp chế xã hội chủ nghĩa và trật tự pháp luật;
(ii) Tạo nên sự dễ hiểu, dễ áp dụng của hệ thống các văn bản pháp luật
đƣợc ban hành, từ đó hạn chế khả năng sai sót, nhầm lẫn trong quá trình áp
dụng các văn bản quy phạm pháp luật;
(iii) Thể hiện rõ chủ trƣơng, đƣờng lối, quan điểm của Đảng và Nhà
nƣớc về chính sách nhất quán trong quan hệ đối nội, đƣờng lối đối ngoại
trong các quy định pháp luật;
(iv) Tạo nên sự công khai, minh bạch, khả năng dự đoán trƣớc của các
quy định pháp luật, từ đó giúp các chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan dự
liệu khả năng để thực hiện các quy định pháp luật một cách chủ động, tự giác
và tự nguyện.
Hệ thống pháp luật với tổng thể các quy phạm pháp luật đƣợc ban hành
thể hiện ý chí của Nhà nƣớc, bảo đảm tính thống nhất nội tại giữa các văn bản
quy phạm pháp luật đƣợc thể hiện bởi các dấu hiệu, đặc điểm sau đây:
15
(i) Chính sách pháp luật rõ ràng, thông suốt từ văn bản có hiệu lực cao
nhất đến văn bản có hiệu lực thấp nhất;
(ii) Không có sự xung đột pháp luật giữa các ngành luật, các chế định
pháp luật, các quy phạm pháp luật;
(iii) Các văn bản dƣới luật không trái với văn bản luật, các văn bản luật
không trái với Hiến pháp, các văn bản của cơ quan cấp dƣới không trái với
văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên;
(iv) Các ngành luật, các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật có
sự liên kết tƣơng hỗ lẫn nhau trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội;
(v) Có sự gắn kết chặt chẽ giữa luật nội dung với luật hình thức, các
quy phạm, các chế định của luật hình thức (luật tố tụng hình sự, tố tụng dân
sự, tố tụng hành chính) không vô hiệu hoá, hay bóp méo luật vật chất;
(vi) Sự giải thích pháp luật chính thức của các cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền đáp ứng yêu cầu của việc áp dụng pháp luật khi có quy định pháp
luật chƣa rõ ràng.
1.2. Vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật
Hiến pháp hiện hành xác định vị trí, vai trò của Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nƣớc cao nhất của nƣớc
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp khẳng định, Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những chính sách cơ
bản về đối nội và đối ngoại, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nƣớc; và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của Nhà nƣớc (Điều 83, Hiến pháp năm 1992).
Tiếp đó, cụ thể hóa quy định trên, Điều 84 của Hiến pháp và Điều 2 của
Luật tổ chức Quốc hội quy định Quốc hội 14 nhiệm vụ quyền hạn đặc biệt
16
quan trọng, trong đó có một số nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật là:
“1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao;
…..
Nhƣ vậy, xét về mặt lý thuyết, với các quy định hiện hành của pháp
luật, trên phƣơng diện thiết lập các thiết chế bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật, Quốc hội có thể thể hiện vai trò ở 3 nội dung lớn:
Thứ nhất, với quyền năng lập pháp, trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn
của mình, Quốc hội có thể chủ động ban hành các đạo luật về “làm luật” và
“giám sát việc làm luật”. Nói cách khác, Quốc hội định ra quy trình, thủ tục,
chức năng nhiệm vụ của các chủ thể tham gia vào quy trình lập pháp bằng
cách ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm các đạo
luật ban hành một cách khoa học mạch lạc, đồng bộ và thống nhất. Quốc hội
ban hành Luật hoạt động giám sát của Quốc hội để bảo đảm quyền giám sát
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc rà soát, phát hiện các đạo
luật, hoặc những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,… Trong quá trình đó, vai
trò của Quốc hội đƣợc thể hiện rõ ở nhiều khâu, nhiều công đoạn của quy
trình xây dựng luật. Đây có thể xem là những hoạt động trực tiếp nhất thể
hiện vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Thứ hai, với quyền năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất
17
nƣớc, Quốc hội thành lập ra các cơ quan quan trọng nhất của bộ máy nhà
nƣớc nhƣ bầu Chủ tịch nƣớc, Thủ tƣớng chính phủ, Chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao… Điều đó cũng có
nghĩa rằng, Quốc hội có thể thành lập các thiết chế cần thiết giúp Quốc hội
thực hiện giám sát tối cao việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nói
chung, trong đó có các đạo luật của Quốc hội và các điều ƣớc quốc tế khác do
các chủ thể có thẩm quyền ký kết, phê chuẩn.
Thứ ba, trong trƣờng hợp cần thiết, để bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật, Quốc hội có thể sử dụng quyền năng lập hiến của mình bằng
cách tiến hành xem xét, sửa đổi Hiến pháp.
Thứ tư, với chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nƣớc, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội có
quyền giám sát hoạt động của các chủ thể chịu sự giám sát của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, trong đó đáng chú ý là giám sát
việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể này. Trƣờng hợp
phát hiện các vấn đề không phù hợp, mâu thuẫn trong các quy định của văn
bản quy phạm pháp luật dƣới luật ban hành, Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội có quyền đình chỉ thực hiện, hoặc kiến nghị đình chỉ thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật thiếu thống nhất hoặc sai trái đó. Đồng thời, các
cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đề xuất, sáng kiến sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới các đạo luật nhằm bảo đảm sự thống nhất và phù hợp
chung trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nƣớc và
xã hội.
Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng các đạo luật, các cơ quan của
Quốc hội chỉ đạo thực hiện kế hoạch lập pháp (Chƣơng trình xây dựng luật
pháp lệnh hàng năm và trong các nhiệm kỳ Quốc hội) do Quốc hội đề ra,
giám sát và thẩm tra kết quả thực hiện trƣớc khi trình Quốc hội xem xét và
18
- Xem thêm -