TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
TRẦN THIÊN DOANH
QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI CÁC CHỦ THỂ THỰC HIỆN GIAO DỊCH TRÊN
MẠNG XÃ HỘI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI
CÁC CHỦ THỂ THỰC HIỆN GIAO DỊCH TRÊN MẠNG XÃ HỘI
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN THIÊN DOANH
Khóa: 42
MSSV: 1751101030014
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. NGUYỄN HƯƠNG LY
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Hương Ly, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Sinh viên thực hiện
Trần Thiên Doanh
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Quý Thầy Cô Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời
gian qua và đặc biệt là Thạc sĩ Nguyễn Hương Ly – Giảng viên Khoa Thương Mại vì đã
tận tình định hướng, hướng dẫn, giải đáp thắc mắc và sửa chữa những sai sót trong suốt
quá trình nghiên cứu để tác giả có thể hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Trân trọng./.
Sinh viên thực hiện
Trần Thiên Doanh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁC CHỦ THỂ THỰC HIỆN GIAO DỊCH TRÊN
MẠNG XÃ HỘI.............................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thu nhập từ các giao dịch được thực hiện trên mạng xã
hội ................................................................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm giao dịch được thực hiện trên mạng xã hội và thu nhập từ các
giao dịch trên mạng xã hội ........................................................................................ 6
1.1.2. Đặc điểm thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội .................................... 8
1.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ
thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội và những yêu cầu đặt ra .............................. 9
1.2.1. Nội dung điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với chủ
thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội .................................................................. 9
1.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân đối
với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ............................................. 12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 14
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN
LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁC CHỦ THỂ THỰC HIỆN GIAO
DỊCH TRÊN MẠNG XÃ HỘI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ........................... 15
2.1 Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối
với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ................................................ 15
2.1.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế ........................................................................ 15
2.1.2. Kê khai thuế ..................................................................................................... 19
2.1.3. Nộp thuế ........................................................................................................... 22
2.1.4. Quản lý thông tin về người nộp thuế ................................................................ 25
2.1.5. Thanh tra, kiểm tra thuế thu nhập cá nhân ....................................................... 27
2.1.6. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên
mạng xã hội phát sinh nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân ....................................... 29
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ
thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội .................................................................... 33
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ
thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội của một số quốc gia trên thế giới .............. 36
2.3.1. Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Trung Quốc đối với các chủ thể
thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ...................................................................... 36
2.3.2. Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Hàn Quốc đối với các chủ thể
thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ...................................................................... 39
2.3.3. Kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối
với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ............................................. 41
2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối
với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ................................................ 42
2.4.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về quản lý thuế thu nhập
cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ......................... 42
2.4.2. Các cơ chế để đảm bảo thực hiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân
đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội ....................................... 45
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 48
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, con người có thể giao lưu
với bất kỳ ai thông qua công nghệ số, đặc biệt là qua mạng xã hội. Theo số liệu thống kê
của Công ty NapoleonCat, một công ty về thu hút và hỗ trợ khách hàng trên mạng xã
hội, vào tháng 4/2022, số người dùng mạng xã hội Facebook đạt 80.439.200 người,
Instagram đạt 10.229.700 người dùng. Đối với các mạng xã hội mới như Zalo và Tiktok
cũng đạt được số người dùng khủng, lần lượt là 62 triệu người và 19,69 triệu người vào
năm 2021. Không chỉ dừng lại ở mục đích giao lưu, kết bạn, chia sẻ thông tin, mạng xã
hội ngày càng được mở rộng thêm các chức năng, hiện nay, mua bán, giao dịch trên
mạng xã hội đang dần trở thành xu hướng bởi sự đa dạng, tiện dụng mà nó mang lại.
Mạng xã hội trở thành một công cụ để các bên thực hiện các giao dịch, mua bán, nhất là
sau đại dịch Covid 19, giao dịch, mua bán trên nền tảng mạng xã hội trở nên phổ biến
hơn bao giờ hết, vì các bên dễ tiếp cận, nhiều lựa chọn và thực hiện dễ dàng.
Trước tình hình phát triển cực kỳ nhanh chóng của các giao dịch trên mạng xã
hội, đặt ra yêu cầu về quản lý thuế thu nhập cá nhân của các chủ thể thực hiện giao dịch
trên mạng xã hội. Vấn đề quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể thực hiện
giao dịch trên mạng xã hội đã được quan tâm từ khá lâu ở các nước có nền thương mại
điện tử phát triển, tuy nhiên, ở Việt Nam đây còn là vấn đề khá mới mẻ đối với người
dân do pháp luật Việt Nam quy định còn khá ít, chỉ tập trung vào những vấn đề chung
nhất, chưa đi sâu vào khía cạnh này và vẫn còn tồn tại một số lỗ hổng, bất cập như: chưa
có quy định cụ thể về lĩnh vực này, các quy định chung chồng chéo, không đồng nhất
trong một số quy định pháp luật, chưa quản lý được toàn diện các chủ thể phát sinh giao
dịch trên mạng xã hội, pháp luật thu thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể phát sinh
thu nhập trên mạng xã hội chưa được phần lớn nhân dân biết đến dẫn đến các tình trạng
không nộp thuế, trốn tránh nghĩa vụ thuế còn xảy ra nhiều, nguồn thu ngân sách Nhà
nước từ các chủ thể này vẫn còn khá thấp, không tương xứng với khối lượng giao dịch
được thực hiện hằng ngày. Chính vì vậy, đã đặt ra vấn đề là các quy định về thuế thu
nhập cá nhân của các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội được pháp luật Việt
Nam quy định thế nào, trình tự, thủ tục ra sao và cần xây dựng một hệ thống các quy
phạm pháp luật và các công cụ quản lý hiệu quả và có tính thực tiễn cao để có thể quản
lý thuế thu nhập cá nhân hiệu quả đối với nhóm chủ thể đang chiếm một phần khá lớn
và ngày càng đông đảo này.
1
Vì tính lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài “Quản lý thuế thu nhập cá
nhân đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội” để nghiên cứu, đánh giá
toàn diện về các quy định pháp luật và thực tiễn từ đó đề xuất các giải pháp để góp phần
hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể phát sinh giao
dịch trên mạng xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, còn khá ít các bài nghiên cứu trực tiếp về đề tài “Quản lý thuế thu nhập
cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội”, chỉ có một số đề tài
liên quan như:
- Nguyễn Thị Huệ (2017), “Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử Kinh nghiệm của một số nước và đề xuất giải pháp áp dụng tại Việt Nam”, luận văn Thạc
sĩ, Trường Đại học Ngoại Thương. Trong luận văn của mình, tác giả đã chỉ ra kinh
nghiệm quản lý trong lĩnh vực thương mại điện tử của một số nước, từ đó nhìn lại Việt
Nam và đưa ra một số các giải pháp để tăng cường quản lý thuế.
- Phạm Nữ Mai Anh (2019), “Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
ở Việt Nam”, luận án Tiến sĩ, Học Viện Tài Chính. Trong luận văn của mình, tác giả đã
trình bày về pháp luật quản lý thuế trong thương mại điện tử và đưa ra một số các giải
pháp để hoàn thiện pháp luật quản lý thuế hiện nay.
- Nguyễn Thị Mai Dung (2018), “Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam hiện nay”, luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội. Trong luận văn,
tác giả đã trình bày các quy định về thuế thu nhập cá nhân hiện hành và đề xuất các giải
pháp để hoàn thiện hơn pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân.
- Phạm Kim Chi (2021), “Quản lý thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động kinh doanh
qua mạng xã hội”, khóa luận cử nhân, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Trong
luận văn, tác giả đã trình bày các vấn đề lý luận về kinh doanh trên mạng xã hội, các quy
định pháp luật và đề xuất các giải pháp để quản lý thuế hiệu quả đối với các chủ thể kinh
doanh trên mạng xã hội.
- Đặng Thái Khang (2021), “Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với
Youtuber tại Việt Nam”, Khóa luận cử nhân, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Trong khóa luận, tác giả đã chỉ ra những vấn đề lý luận về quản lý thu nhập của Youtuber,
2
thực trạng pháp luật của Việt Nam hiện nay, chỉ ra một số bất cập trong quản lý thuế thu
nhập cá nhân và đề xuất những giải pháp khắc phục bất cập trên.
- Lê Phan Hiếu (trưởng nhóm) (2019), “Pháp luật về thu thuế đối với kinh doanh
trên mạng xã hội”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã nghiên cứu và trình bày pháp luật nước ngoài và Việt
Nam đối với vấn đề thu thuế giá trị gia tăng và đưa ra những giải pháp Việt Nam có thể
áp dụng để giải quyết các khó khăn phát sinh trên thực tế.
Bên cạnh các bài luận văn, cũng có một số bài báo, tạp chí đề cập đến nội dung
về quản lý thuế đối với các giao dịch trên mạng xã hội như: “Quản lý thuế giao dịch trên
môi trường mạng” (2021) báo Nhân Dân; Lưu Đức Huy (2018) – “Quản lý thuế đối với
hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội” – Tạp chí Tài chính; Nguyễn Thị Hồng Nhung
(2019) – “Bàn về quản lý thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã
hội” – Tạp chí Kiểm sát Online…
Các nghiên cứu trên đã cập nhật các quy định pháp luật về quản lý thuế thu nhập
cá nhân nói chung và quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động thương mại điện
tử nói riêng, chỉ ra được những bất cập trong các quy định pháp luật, đề nghị hướng giải
quyết cho những bất cập đó. Tuy nhiên, do Luật Quản lý thuế 2019 vừa được ban hành
và có hiệu lực từ ngày 01/7/2020 và sự ra đời của hàng loạt Nghị định, Thông tư mới
dẫn đến các thay đổi trong các quy định quản lý thuế. Hiện nay, còn rất ít các nghiên cứu
đánh giá các quy phạm pháp luật mới này, do đó, trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước
đây và vận dụng vào các quy phạm pháp luật hiện hành, luận văn tiếp tục làm rõ các quy
định pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định mới, đưa ra hướng giải quyết phù hợp cho
những bất cập vẫn còn trên thực tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Đối với đề tài “Quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao
dịch trên mạng xã hội”, tác giả hướng đến mục đích hoàn thiện quy định pháp luật quản
lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội, nâng
cao tính áp dụng trên thực tế của các quy định trên.
Để đạt được mục đích trên, bài viết sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu các lý luận chung về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể
thực hiện giao dịch trên mạng xã hội.
3
- Nghiên cứu các quy định Pháp luật Việt Nam về quản lý thuế thu nhập cá nhân
đối với các chủ thể phát sinh giao dịch trên mạng xã hội và đối chiếu với các quy định
của pháp luật nước ngoài.
- Từ những quy định pháp luật, nghiên cứu thực trạng áp dụng và đề nghị các biện
pháp để cải thiện tình trạng nộp thuế thu nhập cá nhân của những chủ thể phát sinh giao
dịch trên mạng xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, quy định pháp luật về hoạt
động quản lý thuế thu nhập cá nhân của của chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã
hội và thực trạng khi áp dụng các quy định trên.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Nghiên cứu pháp luật Việt Nam và một phần pháp luật Quốc tế
trong lĩnh vực quản lý thuế thu nhập cá nhân trong mối tương quan so sánh với pháp luật
nước ngoài, cụ thể là Pháp luật Trung Quốc và Hàn Quốc.
- Về thời gian: Các văn bản pháp luật hiện đang có hiệu lực và sắp có hiệu lực
trong thời gian tới của pháp luật Việt Nam, Trung Quốc và Hàn Quốc.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trong bài viết này, tác giả kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, nhưng chủ yếu
sử dụng các phương pháp phân tích – đối chiếu, phân tích – tổng hợp, thống kê, so sánh,
cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích – đối chiếu được sử dụng ở Chương 1, để làm rõ các quy
định chung về các giao dịch trên mạng xã hội, phân tích các quy định quốc tế từ đó đối
chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng trong phần các yêu cầu đặt ra
đối với pháp luật quản lý thuế Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật quản
lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội.
- Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng ở nội dung nghiên cứu pháp luật
nước ngoài và thực trạng quy định pháp luật Việt Nam, đối với những nghiên cứu đầy
4
đủ và sâu sắc, tác giả sẽ học hỏi, tiếp thu và tiếp tục bổ sung thêm đối với những nghiên
cứu còn bỏ ngỏ.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục của
khóa luận được chia làm 2 phần như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với
các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối
với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội và kiến nghị hoàn thiện.
5
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁC CHỦ THỂ THỰC HIỆN GIAO DỊCH TRÊN
MẠNG XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thu nhập từ các giao dịch được thực hiện trên
mạng xã hội
1.1.1. Khái niệm giao dịch được thực hiện trên mạng xã hội và thu nhập từ các
giao dịch trên mạng xã hội
Trên thế giới, có rất nhiều định nghĩa về thế nào là mạng xã hội, trang
Investopedia cho rằng mạng xã hội là “thuật ngữ đề cập đến việc sử dụng các trang điện
tử truyền thông, xã hội để duy trì kết nối bạn bè, gia đình, đồng nghiệp, khách hàng.
Mạng xã hội có mục đích là giao lưu và kinh doanh”, trang Techtarget lại định nghĩa
rằng “mạng xã hội là nền tảng trực tuyến chuyên dụng để duy trì liên lạc và cộng tác với
những cá nhân có cùng chí hướng”. Tổng hợp các định nghĩa trên, có thể định nghĩa
mạng xã hội là “hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các
dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao
gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn, trò chuyện trực tuyến, thông
tin và các hình thức dịch vụ tương tự khác.” Từ các định nghĩa trên, có thể rút ra một số
đặc điểm chung của mạng xã hội như sau:
- Thứ nhất, mạng xã hội là các ứng dụng hoặc website được sử dụng thông qua
nền tảng Internet. Người dùng cần phải sử dụng các thiết bị có thể truy cập internet như
điện thoại, máy tính để có thể truy cập các mạng xã hội.
- Thứ hai, mỗi người dùng trên mạng xã hội cần phải tạo hồ sơ và trang thông tin
cá nhân. Hiện nay, một số nền tảng mạng xã hội lớn trên thế giới đều yêu cầu người có
nhu cầu sử dụng phải tạo một tài khoản cá nhân thì mới có thể truy cập các thông tin trên
nền tảng mạng xã hội của nhà sản xuất.
- Thứ ba, mạng xã hội kết nối các tài khoản của những người dùng lại với nhau.
Dựa theo các nhu cầu của bản thân, người dùng có thể kết nối với những tài khoản khác
để cung cấp, tìm kiếm, sử dụng, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau.
6
Các trang mạng xã hội hàng đầu thế giới hiện nay là Facebook với hơn 2 tỷ người
dùng tích cực, Youtube với hơn 2 tỷ người dùng hàng tháng, Instagram với hơn 2 tỷ
người dùng hàng tháng, Tiktok với hơn 1.2 tỷ người dùng1…
“Thu nhập” thường được định nghĩa khác nhau tùy theo từng bối cảnh, trường
hợp cụ thể, đối với các cá nhân, thu nhập có thể được hiểu là giá trị hoặc số tiền mà họ
nhận được cho lao động và sản phẩm của họ2. “Thu nhập” còn được hiểu là các khoản
thu được trong một khoản thời gian nhất định, thường tính theo tháng, năm3. Thu nhập
có thể là tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó.
“Giao dịch” là sự thỏa thuận, trao đổi với nhau về một vấn đề, đối tượng cụ thể,
đối tượng của giao dịch rất rộng và phức tạp, tuy nhiên, trong bài nghiên cứu này, tác
giả tập trung phân tích về các giao dịch có thể làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế thu nhập
cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội. Từ các định nghĩa trên,
có thể hiểu rằng “thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội” là khoản thu được từ các
hoạt động thỏa thuận, trao đổi, mua bán về các đối tượng và các hoạt động này được tiến
hành trên các nền tảng mạng xã hội.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu đặc điểm các giao dịch hiện có trên thực tế, các giao
dịch trên mạng xã hội mang lại thu nhập chủ yếu là các giao dịch mua bán sản phẩm và
dịch vụ, sau đây gọi chung là kinh doanh trên mạng xã hội. Kết luận này xuất phát từ các
nguyên nhân sau đây:
- Thứ nhất, do tính chất của giao dịch. Giao dịch là phải được thực hiện bởi từ hai
chủ thể trở lên, các bên có quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận. Giao dịch trên mạng xã hội
chịu thuế thu nhập cá nhân phải là giao dịch mang lại thu nhập cho ít nhất một bên tham
gia giao dịch.
- Thứ hai, do chức năng của mạng xã hội. Do chức năng chính của mạng xã hội
là để liên lạc và kinh doanh, nên các giao dịch được thực hiện trên mạng xã hội mang lại
thu nhập cho người thực hiện giao dịch chỉ có thể là những giao dịch thực hiện hoạt động
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Hiện nay, các quốc gia chủ yếu vẫn chưa quy định cụ thể như thế nào là “kinh
doanh trên mạng xã hội” mà chỉ quy định chung về định nghĩa của “thương mại điện tử”,
“Social networking”, https://www.techtarget.com/whatis/definition/social-networking, truy cập ngày 12/5/2022
“Income”, https://www.investopedia.com/terms/i/income.asp, truy cập ngày 12/5/2022
3
Hoàng Phê (2003), “Từ điển Tiếng Việt”, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.958
1
2
7
ví dụ như pháp luật Trung Quốc định nghĩa hoạt động thương mại điện tử là hoạt động
kinh doanh bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thông qua mạng thông tin Internet4 và từ
định nghĩa chung đó, người đọc có thể hiểu được thế nào là kinh doanh qua mạng xã hội.
Tổng kết lại, hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn
bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng
Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác, có thể hiểu hoạt động có yếu
tố thương mại điện tử trên mạng xã hội là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình
của hoạt động thương mại trên nền tảng mạng xã hội5, là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trên nền tảng mạng xã hội.
1.1.2. Đặc điểm thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội
Thứ nhất, thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội gắn liền với nền tảng công
nghệ số. Để thực hiện giao dịch trên mạng xã hội, các chủ thể giao dịch đầu tiên phải có
tài khoản cá nhân hoặc các trang website trên một nền tảng mạng xã hội nhất định và
được kết nối với mạng viễn thông, một bên tiến hành đăng tải các thông tin về hàng hóa,
dịch vụ trên tài khoản của mình và có được thu nhập nhờ mua bán, cung cấp các hàng
hóa, dịch vụ đó. Do đó, thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội hình thành từ nền
tảng các trang mạng xã hội, đây cũng là đặc điểm để phân biệt thu nhập từ giao dịch trên
mạng xã hội với thu nhập từ các giao dịch mua bán, cung cấp hàng hóa, dịch vụ truyền
thống.
Thứ hai, thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội không bị giới hạn trong một
không gian, thời gian nhất định. Do phạm vi của các mạng xã hội là không có biên giới,
nên việc thực hiện các giao dịch để có được thu nhập có thể tiến hành ở bất kỳ đâu và
bất kỳ thời gian nào, không chịu sự giới hạn về không gian giữa các quốc gia với nhau
và cũng loại bỏ được sự chênh lệch giữa các múi giờ trên thế giới. Việc phát triển hệ
thống ngân hàng giao dịch quốc tế và các ví điện tử cũng xóa nhòa đi khoảng cách địa
lý và khác biệt về đồng tiền chính thức của các quốc gia. Do đó, dù đang ở bất kỳ đâu và
bất kỳ thời gian nào, thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội cũng có thể được hình
thành.
Điều 2 Luật Thương mại điện tử của Trung Quốc (2018)
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2021), Báo cáo nghiên cứu Thương mại điện tử trên mạng xã
hội tại Việt Nam: Một số vấn đề pháp lý, tr.21
4
5
8
Thứ ba, thu nhập từ các giao dịch trên mạng xã hội rất khó kiểm soát. Điều này
xuất phát từ các lý do là phạm vi giao dịch của mạng xã hội là vô cùng rộng lớn và phi
biên giới. Các giao dịch này không chỉ được thực hiện giữa những chủ thể trong cùng
một quốc gia mà còn giữa nhiều quốc gia với nhau, do đó, các quốc gia chỉ có thể kiểm
soát được một phần thu nhập từ các giao dịch được thực hiện trong nước, còn đối với
thu nhập từ các giao dịch quốc tế thì rất khó kiểm soát do chính sách của các quốc gia là
khác nhau. Một số nền tảng mạng xã hội không yêu cầu chủ tài khoản sử dụng các thông
tin cá nhân chính thức mà có thể dùng các thông tin không chính thức nên thu thập thông
tin chủ tài khoản là rất khó khăn. Bên cạnh đó, do các giao dịch được thực hiện trên nền
công nghệ số, nên các số liệu có thể dễ dàng bị che giấu, thay đổi nên việc kiểm soát
nguồn thu nhập từ các giao dịch này là khó.
1.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với
các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội và những yêu cầu đặt ra
1.2.1. Nội dung điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với
chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội
Thuế là hiện tượng gắn liền, tồn tại song song với nhà nước, qua nghiên cứu lịch
sử pháp luật thuế cho thấy trong một nhà nước dân chủ, thuế và các nghĩa vụ tài chính
của công dân đối với nhà nước phải do cơ quan đại diện của dân quyết định6. Chỉ có Nhà
nước mới có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật về thuế, cũng đặt ra quyền hạn
và nghĩa vụ của Nhà nước trong công tác quản lý thuế. Nhà nước luôn là chủ thể bắt
buộc trong quan hệ pháp luật thuế, chính vì vậy, sự quản lý của Nhà nước luôn là yếu tố
đặc biệt quan trọng trong công tác thuế của một quốc gia. Pháp luật quản lý thuế giữ một
vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế ở mỗi quốc gia, có vai trò quan trọng
trong việc điều hành, kiểm tra, giám sát các hoạt động liên quan đến thuế. Tùy theo mỗi
quốc gia, pháp luật quản lý thuế được quy định gộp vào một đạo luật chung hay tách ra
quy định ở từng các đạo luật cụ thể.
Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ các giao dịch được
thực hiện trên mạng xã hội là tổng hợp các quy phạm pháp luật được quy định trong các
điều ước quốc tế và Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội xã hội
phát sinh trong hoạt động quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ các giao
6
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (6), tr. 19
9
dịch được thực hiện trên mạng xã hội. Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân trên thế
giới bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
(i) Xây dựng cơ chế quản lý và xác định các chủ thể có thẩm quyền và trách nhiệm
quản lý thuế;
(ii) Xác định quyền và nghĩa vụ của các đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế,
và các căn cứ tính thuế;
(iii) Quy định các thủ tục về thuế như: đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, quyết
toán thuế…
- Đăng ký thuế và cấp mã số thuế: Đăng ký thuế là việc người nộp thuế kê khai
những thông tin của bản thân cho cơ quan quản lý thuế để bắt đầu thực hiện nghĩa vụ về
thuế cho Nhà nước7, đăng ký thuế là hoạt động đầu tiên và là tiền đề cho các nghĩa vụ
khác phía sau. Từng quốc gia sẽ có những trình tự thủ tục, thời gian cấp giấy chứng nhận
đăng ký thuế khác nhau. Đi kèm với giấy chứng nhận đăng ký thuế là mã số thuế, mã số
thuế bao gồm một dãy các ký tự được mã hóa theo một nguyên tắc nhất định, dùng để
xác định cá chủ thể nộp thuế. Đối với các chủ thể kinh doanh trực tuyến trên mạng xã
hội, pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân của các nước quy định không khác với các
chủ thể nộp thuế còn lại. Với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay, hầu hết các quốc gia
đều quy định ít nhất hai cách thức đăng ký thuế là đăng ký trực tiếp tại cơ quan thuế và
qua mạng Internet.
- Kê khai thuế: Kê khai thuế là việc người nộp thuế kê khai các thông tin nhằm
xác định số thuế có nghĩa vụ phải nộp8. Tùy theo mỗi quốc gia mà kê khai thuế được quy
định khác nhau, cơ quan thuế vừa có thể dựa trên số tiền thuế mà người nộp thuế tự kê
khai vừa có thể ấn định thuế trong những trường hợp nhất định. Xu hướng của thế giới
hiện nay là tiến hành khai thuế qua Internet thay vì nộp hồ sơ tại các cơ quan thuế để
giảm tải số lượng người đến cơ quan thuế, giảm thời gian chờ đợi, dễ dàng quản lý thông
qua các hệ thống thông tin quản lý.
- Nộp thuế: Nộp thuế là việc người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ về thuế đối với
nhà nước. Hiện nay, tiền thuế có thể nộp tại kho bạc nhà nước, tại các cơ quan quản lý
thuế, thông qua các tổ chức được cơ quan thuế ủy nhiệm, thông qua các ngân hàng
7
8
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (6), tr. 446
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (6), tr. 452
10
thương mại, tổ chức tín dụng. Hiện nay, các quốc gia khuyến khích các chủ thể nộp thuế
thông qua các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng vì tránh được những tiêu cực khi
nộp thuế cho nhân viên thu thuế, dễ dàng quản lý và tiết kiệm được thời gian xử lý các
hồ sơ.
- Quản lý thông tin người nộp thuế: Hệ thống thông tin người nộp thuế bao gồm
những thông tin, tài liệu liên quan đến người nộp thuế và nghĩa vụ nộp thuế của họ.
Thông tin người nộp thuế là cơ sở để thực hiện quản lý thuế, đánh giá mức độ chấp hành
pháp luật của người nộp thuế, ngăn ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật về thuế9. Trách
nhiệm chính trong việc xây dựng, quản lý thông tin người nộp thuế thuộc về các cơ quan
thuế, cơ quan thuế sẽ áp dụng những quyền hạn mà pháp luật trao cho để tiến hành thu
thập thông tin về người nộp thuế, kiểm tra độ chính xác của các thông tin thu thập được.
Đối với công tác quản lý thuế đối với các giao dịch trên mạng xã hội, quản lý tốt thông
tin người nộp thuế là rất cần thiết, các quốc gia hiện đang tập trung xây dựng thông tin
về người nộp thuế từ nhiều nguồn khác nhau do đặc thù của các hoạt động này rất khó
thu thập, nắm bắt thông tin.
- Thanh tra thuế, kiểm tra thuế: Thanh tra thuế, kiểm tra thuế là hoạt động kiểm
soát của cơ quan thuế đối với tình hình thực hiện thủ tục thuế, chấp hành các quy định
pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ về thuế. Thanh tra thuế, kiểm tra thuế phát hiện ra các
vi phạm và tiến hành xử lý giúp thực hiện công bằng trong nghĩa vụ thuế giữa các chủ
thể với nhau. Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên mang tính nghiệp vụ và được tiến
hành với bất kỳ người nộp thuế nào trong khi thanh tra thuế được tiến hành theo kế hoạch
và chủ yếu tiến hành đối với doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi
kinh doanh rộng, khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo…
10
Đối với các hoạt động giao dịch trên mạng xã hội với phạm vi giao dịch rất rộng, khó
kiểm tra hóa đơn, chứng từ thì hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế là rất quan trọng để
phát hiện ra những hành vi vi phạm.
- Xử lý vi phạm: Pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể thực hiện
giao dịch trên mạng xã hội luôn đặt ra nghĩa vụ các thuế đối với người nộp thuế, trên
thực tế, không phải người nộp thuế nào cũng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình do nộp
thuế sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cá nhân của người nộp thuế. Do đó, người
Nguyễn Thị Huệ (2017), Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử - Kinh nghiệm của một số nước và
đề xuất giải pháp áp dụng tại Việt Nam, luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Ngoại Thương, tr. 19
10
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (6), tr.487
9
11
nộp thuế sẽ thực hiện một số các hành động, hành vi để trốn tránh hoặc làm giảm bớt
nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân của mình. Chính vì vậy, pháp luật quản lý thuế thu
nhập cá nhân đã đặt ra những quy định để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật thuế,
bảo đảm sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các chủ thể. Tùy theo mức độ, tính
chất của hành vi vi phạm mà pháp luật quản lý thuế quy định những chế tài khác nhau,
nhưng phổ biến nhất là xử lý hành chính đối với những vụ việc, hành vi vi phạm nhưng
chưa đến mức độ xử lý hình sự và xử lý hình sự đối với những hành vi vi phạm nghiêm
trọng gây nên những hậu quả xấu cho xã hội, có tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các quan hệ xã hội mà pháp luật thuế điều chỉnh.
1.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân
đối với các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội
Thứ nhất, yêu cầu pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân phải phù hợp với điều
kiện kinh tế từng thời kỳ của quốc gia.
Cơ sở hạ tầng là tổng hòa các mối quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái cơ cấu xã hội nhất định. Kiến trúc thượng tầng là những quan điểm được
hình thành dựa trên cơ sở hạ tầng bao gồm chính trị, pháp luật, tư tưởng, tôn giáo… Cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng cũng tác động
ngược lại cơ sở hạ tầng. Vì mối quan hệ trên, pháp luật phải được quy định phù hợp với
đặc điểm kinh tế của quốc gia, nếu pháp luật quản lý thuế đi chậm hơn so với sự phát
triển kinh tế xã hội, sẽ gây ra các thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước, từ đó tác động
trở ngược lại nền kinh tế, cản trở kinh tế xã hội phát triển, nhưng nếu pháp luật đi quá
nhanh so với kinh tế xã hội thì sẽ gây khó khăn cho người dân trong hoạt động nộp thuế
thu nhập cá nhân.
Vì vậy, pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao
dịch trên mạng xã hội phải phát triển đồng bộ với sự phát triển của kinh tế, để tạo một
môi trường phát triển bền vững, vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, vừa bảo
vệ được quyền và lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, yêu cầu một hệ thống pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân rõ ràng,
dễ hiểu, minh bạch, công bằng.
Trình độ lập pháp hiện nay của Việt Nam còn chưa cao, chưa bao quát, dự tính
được các quan hệ xã hội mới xảy ra ở tương lai, dẫn đến tình trạng phải liên tục sửa đổi,
12
bổ sung các đạo luật, nghị định, thông tư về lĩnh vực quản lý thuế gây ra tình trạng pháp
luật chồng chéo lên nhau, gây khó khăn cho người nộp thuế khi muốn tìm hiểu đầy đủ
các quy định, trình tự thủ tục về quản lý thuế. Vì vậy, cần xây dựng một hệ thống quy
phạm pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các chủ thể thực hiện giao dịch
trên mạng xã hội rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu để người dân dễ dàng tìm hiểu và thực hiện
nghĩa vụ của mình, lại giảm bớt được những sai sót trong các khâu đăng ký thuế, khai
thuế và nộp thuế.
Thứ ba, yêu cầu sự chính xác trong công tác xác định các đối tượng nộp thuế thu
nhập cá nhân và doanh thu tính thuế.
Để đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với
các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội, yêu cầu cơ quan quản lý thuế cần phải
xác định đúng đắn các đối tượng cần phải thu thuế, xác định đúng doanh thu tính thuế
của các chủ thể kinh doanh qua mạng xã hội để hạn chế xảy ra hiện tượng trốn thuế, gây
thất thoát nguồn thu ngân sách và thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, việc xác định
các đối tượng đủ điều kiện nộp thuế và doanh thu tính thuế của cơ quan thuế còn nhiều
khó khăn, bởi một số lý do sau:
- Các chủ thể kinh doanh có phát sinh giao dịch trên mạng xã hội thường không
có địa điểm đăng ký kinh doanh, kho hàng cũng đặt ở nhiều địa điểm khác nhau, gây khó
khăn cho công tác quản lý.
- Bên cạnh đó, việc giao dịch trên mạng xã hội được bảo mật bởi chính các trang
mạng xã hội, liên quan đến vấn đề quyền riêng tư của mỗi cá nhân nên rất khó để cơ
quan thuế biết được nội dung giao dịch, giá trị giao dịch để xác định đúng doanh thu
kinh doanh của các chủ thể bán hàng.
- Hiện nay, các tài khoản bán hàng chủ yếu tập trung ở các nền tảng mạng xã hội
nước ngoài như Facebook, Instagram, Tiktok… máy chủ của các trang mạng này có thể
không đặt ở Việt Nam, vì vậy, rất khó khăn cho cơ quan quản lý thuế khi yêu cầu các
trang mạng xã hội này cung cấp một số lượng rất lớn thông tin người dùng.
Thứ tư, yêu cầu cần nâng cao, cải tiến khoa học, công nghệ trong công tác quản
lý thuế thu nhập cá nhân đối các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội.
Do chủ thể nộp thuế là những cá nhân, tổ chức phát sinh giao dịch trên mạng xã
hội, là một nền tảng công nghệ số hiện đại, nên cơ quan quản lý thuế cần phải nâng cao,
13
cải tiến khoa học công nghệ để có thể dễ dàng hơn trong kiểm soát, quản lý các hoạt
động giao dịch trên nền tảng mạng xã hội.
Việc áp dụng nhiều khoa học kỹ thuật trong quá trình quản lý thuế sẽ giúp công
việc của các cán bộ quản lý thuế dễ dàng hơn, giảm bớt các thao tác thừa, giảm thời gian
xử lý từng hồ sơ thuế, tăng độ chính xác trong việc xác định doanh thu, dễ dàng kiểm tra
giám sát việc nộp thuế, thu thuế qua một hệ thống thông tin thống nhất.
Đi kèm với việc cải tiến khoa học công nghệ cũng cần phải nâng cao năng lực cá
nhân của các cán bộ thuế, tổ chức các buổi tập huấn, để tránh trường hợp các cán bộ thuế
không theo kịp tốc độ đổi mới của khoa học công nghệ, như vậy dù có cải tiến khoa học
công nghệ đến mức nào vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ năm, yêu cầu cần nâng cao ý thức người dân trong nghĩa vụ nộp thuế thu
nhập cá nhân.
Để đạt được hiệu quả cao, ngoài cải tiến bộ máy quản lý thuế, hơn hết cần nâng
cao ý thức người nộp thuế. Hiện nay, việc kinh doanh trên mạng xã hội ngày càng phát
triển, gần như trở thành xu hướng kinh doanh do ít tốn chi phí nhưng lại tiếp cận được
rất nhiều đối tượng khách hàng, hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Việc để thống kê, quản lý
toàn bộ các chủ thể này là rất khó và hầu như là không thể. Chính vì vậy, cách tốt nhất
và mang lại hiệu quả lâu dài chính là tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức của người
dân.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, tác giả đã tập trung làm rõ các vấn đề về lý luận của đề tài như
khái niệm về các giao dịch trên mạng xã hội, cơ sở hình thành, đặc điểm từ đó chỉ ra
những ảnh hưởng của các giao dịch trên đối với hoạt động thu thuế thu nhập cá nhân.
Qua những vấn đề lý luận chung đó, tác giả đã trả lời được những câu hỏi như vì sao
phải quản lý các chủ thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội, quản lý như thuế nào và
những yêu cầu đặt ra cho cơ quan quản lý thuế để có thể quản lý hiệu quả, đúng đắn các
chủ thể này. Từ những vấn đề lý luận chung ở Chương 1, tác giả sẽ tiến hành phân tích
thực trạng các quy định pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với những chủ
thể thực hiện giao dịch trên mạng xã hội.
14
- Xem thêm -