TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: Quản lý nhà nước đối với sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng
hóa của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (National office of intellectual
property of Viêt Nam) tại địa bàn Hà Nội
Họ và tên sinh viên: Phan Văn Hùng
Chuyên ngành: Marketing
Lớp: Quảng Cáo
Khóa: 46
Hệ: Chính quy
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Lưu Văn Nghiêm
HÀ NỘI
Phụ lục
1
Lời mở
đầu ............................................................................................................................1
Chương I....................................................................................................................................2
Quản lý Nhà nước đối với sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa.............................2
1/ Lịch sử hình thành và phát triển nhãn hiệu hàng hóa........................................................2
1.1/ Trên thế giới.................................................................................................................2
1.2/ Ở Việt Nam..................................................................................................................8
2/ Quản lý Nhà nước sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa........................................14
2.1/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa.........................................................................................14
2.2/ Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam..................................16
Chương II............................................................................................................................ 17
Thực trạng quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa trong giai đoạn
2005-2007............................................................................................................................. 17
1/ Thực trạng về SHTT nhãn hiệu hàng hóa........................................................................17
1.1/ Thực trạng chung.......................................................................................................17
1.2/ Tại địa bàn Hà Nội.....................................................................................................19
1.3/ Đánh giá, kết luận......................................................................................................22
2/ Thực trạng quản lý nhà nước đối với SHTT nhãn hiệu trong Cục sở hữu trí tuệ
Việt Nam giai đoạn 2005-2007 tại địa bàn Hà Nội..............................................................23
2.1/ Hệ thống các văn bản Luật và dưới luật liên quan đến quản lý SHTT nhãn
hiệu hàng hóa....................................................................................................................23
2.2/ Quy trình xét duyệt và cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa............................34
2.3/ Hệ thống quản lý thông tin về nhãn hiệu hàng hóa...................................................48
2.4/ Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Cục......................................................................51
2.5/ Đánh giá, kết luận......................................................................................................52
Chương III........................................................................................................................... 56
Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về SHTT
nhãn hiệu hàng hóa.............................................................................................................56
1/ Hệ thống luật pháp............................................................................................................56
2/ Quy trình xét duyệt...........................................................................................................56
3/ Quản lý hệ thống thông tin nhãn hiệu..............................................................................57
4/ Thanh tra, kiểm tra về nhãn hiệu hàng hóa......................................................................57
5/ Sự phối hợp giữa các cơ quan..........................................................................................58
Kết luận................................................................................................................................ 59
Các tài liệu sử dụng trong chuyên đề.................................................................................60
Phụ lục................................................................................................................................. 61
2
Lời mở đầu
Trong quá trình hô iô nhâ pô nền kinh tế toàn cầu hóa, mỗi sản phẩm hóa/ dịch vụ
không mang nhãn đều cung ứng cho người tiêu dùng mô ôt số giá trị vâ ôt chất và phi
vâ ôt chất nào đó và thông thường, luôn có nhiều nhà sản xuất khác nhau cùng đưa ra
thị trường mô ôt loại sản phẩm tương tự nhau về cấu tạo, chức năng và thẩm mỹ. Vâ ôy
làm cách nào để có thể phân biê ôt được đâu là hàng hóa chúng ta cần? Các DN nên
làm gì để người tiêu dùng có thể dễ dàng nhâ nô ra sản phẩm nào là do DN đó sản
xuất? Cách duy nhất là tạo dựng mô ôt nhãn hiê ôu riêng, dễ nhâ nô biết, từ đó xác lâ pô
quyền sở hữu nhãn hiê ôu bằng cách đăng ký đô ôc quyền nhãn hiê ôu hàng hóa.
Bảo hô ô quyền sở hữu công nghiê ôp nói chung và bảo hô ô nhãn hiê ôu nói riêng
đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hô ôi và hô ôi nhâ pô kinh tế quốc tế.
BHNH tạo điều kiê ôn thuâ nô lợi cho các DN quảng bá, lưu đô nô g, bảo vê ô, phát triển
các sản phẩm của mình trên thị trường nô ôi địa và quốc tế, đồng thời bảo đảm mô ôt
môi trường cạnh tranh lành mạnh để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
BHNH - bảo hô ô tài sản trí tuê ô là viê ôc làm không thể thiếu đối với các DN trong
viê ôc xây dựng và phát triển thị trường, bảo hô ô có hiê ôu quả đối với nhãn hiê ôu góp
phần khuyến khích đầu tư và tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong hoạt đô ông kinh
doanh của mình. Và trong khuôn khổ của đề tài này em xin được đi sâu vào phân
tích một số khía cạnh chính của lĩnh vực tuy đã được nhiều doanh nghiệp cũng như
người dân biết đến khá lâu nhưng lại không phải được mọi người hiểu rõ,chính xác
và đầy đủ của vấn đề SHTT nhãn hiệu hàng hóa thông qua việc tìm hiểu hoạt động
quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa của Cục SHTT Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Lưu Văn Nghiêm đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên
đề tốt nghiệp và các cô chú trong Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã chỉ bảo và giúp đỡ
em trong thời gian thực tập tại Cục.
3
Chương I
Quản lý Nhà nước đối với sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa
1/ Lịch sử hình thành và phát triển nhãn hiệu hàng hóa
1.1/ Trên thế giới
a/ Nhãn hiệu là gì?
Thuật ngữ tiếng Anh “brand"(nhãn hiệu) bắt nguồn từ chữ "burning" (đốt cháy),
một từ thông dụng theo nghĩa kinh doanh có nghĩa là đốt cháy lên da hoặc lông của
các con thú nuôi, gỗ, kim loại đúc hoặc các hàng hóa khác thời xưa để in ký hiệu
riêng lên đó. Đến thế kỷ XIX, theo từ điển Oxford, từ này đã mang nghĩa là dấu hiệu
của nhãn hiệu thương mại. Vào giữa thế kỷ XX, từ '"branơ" phát triển rộng ra để bao
gồm cả những hình ảnh về một sản phẩm được ghi lại trong tâm trí người tiêu dùng
tiềm năng hoặc cụ thể hơn là quan niệm về một người hay vật nào đó.
Ngày nay, thuật ngữ brand được thay thế và sử dụng phổ biến bằng cụm từ
“trade mark” nghĩa là nhãn hiệu thương mại; trong khi đó brand được nhiều người
coi là thương hiệu. Trên thực tế thương hiệu hoàn toàn không có gì khác biệt so vơi
nhãn hiệu - được hiểu là tổng hòa tất cả các thông tin về một sản phẩm, dịch vụ hay
một Công ty được truyền đạt tới đối tượng mục tiêu bằng tên gọi hoặc các dấu hiệu
nhận biết khác, như logo hoặc hình tượng. Nhãn hiệu không phải là cái tên: một tên
Công ty nào đó mà không truyền đạt tới đối tượng mục tiêu thông điệp hay thuộc
tính gì thì không thể gọi là một nhãn hiệu. Các thuộc tính của nhãn hiệu tồn tại trong
mắt của người sở hữu và phản ánh sự tích luỹ các thông điệp truyền thông mà đối
tượng mục tiêu đã nhận được liên quan đến sản phẩm, dịch vụ hay Công ty và
những “kinh nghiệm" mà người tiêu dùng đó đã trải qua với sản phẩm, dịch vụ hay
Công ty đó.
b/ Lịch sử của quản trị nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử. Những người cổ đại thời kỳ đồ đá
vẫn thường trao đổi với nhau những vũ khí được thiết kế khác biệt với vẻ ngoài đem
4
lại cảm tưởng sẽ giúp họ thành công hơn trong săn bắn. Những người đóng tàu
Viking cũng có những "nhãn hiệu” tàu biển khác nhau. Về sau này, khi loài người
biết đúc kim loại, nhiều người đã đúc lên sản phẩm tên họ của mình như một chứng
tích khẳng định chất lượng của sản phẩm.
Trên thực tế, định nhãn, hay việc sử dụng các biểu tượng để truyền đạt các thông
tin về một sản phẩm hay dịch vụ có thể được coi là một hoạt động chỉ riêng gặp ở
con người. Đây cũng là nền tảng của thương mại: nếu không có thông tin về danh
tiếng của một người sản xuất hay người bán, hoạt động thương mại hẳn nhiên sẽ bị
ngừng trệ. Tuy nhiên, quyền lực thực sự của các nhãn hiệu lại có từ khi dấu hiệu này
được truyền từ một cá nhân nào đó sang một cộng đồng kinh doanh lớn hơn. Quá
trình chuyển đổi này tăng cường giá trị nhãn hiệu, mở rộng mức độ ảnh hưởng của
nó và kết quả là nó tạo ra của cải vật chất cho người sở hữu.
Josiah Wedgood thường được coi là cha đẻ của quản lý nhãn hiệu hiện đại Từ những
năm 1760, Wedgwood đã đặt tên của ông lên các bình gốm sứ để chỉ rõ nguồn gốc
và chất lượng của chúng. Tuy nhiên, ông này không chỉ dừng lại ở đó. Gần 200 năm
trước khi các phương tiện truyền thông đại chúng được phát minh, Wedgwood đã
biết sử dụng chiêu "tiếp thị truyền khẩu”, ông dùng các sản phẩm tinh xảo của mình
tặng cho Hoàng gia, rồi dùng các hình ảnh Hoàng gia làm công cụ để tạo ra lối
truyền miệng về giá trị của các sản phẩm gốm sứ do ông sáng tạo từ đó tăng thêm
giá trị nhãn hiệu của mình.
Về sau, quản trị nhãn hiệu đã thoát thai từ cách làm của Wedgwood để du hành
vào thế kỷ XX. Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc
biệt là tivi và nền kinh tế phục hồi với tốc độ tăng trưởng mạnh tại nhiều nước tư
bản sau Thế chiến II, một thị trường quy mô lớn dần dần hình thành. Nhu cầu và tiêu
chuẩn sống gia tăng khiến marketing lên ngôi trong thời kỳ này.
Các Công ty quảng cáo (ad agency) tranh thủ cơ hội này đã phát triển nhanh
chóng, tạo ra các chiến dịch truyền thông để thu hút người tiêu dùng đến với các
5
nhãn hiệu. Lúc đâu các quảng cáo truyền hình và báo chí rất đơn giản, nhưng đến
thời điểm hiện tại, quảng cáo đã phát triển rất mạnh để trở thành những tác phẩm
đích thực. Tại Mỹ, giải bóng chày quốc gia Super Bowl thu hút số lượng khán giả
đông nhất nước không chỉ vì tính hấp dẫn của giải này mà còn một phần là vì các
nhãn hiệu lớn nhất và nổi tiếng nhất ở Mỹ sẽ tung ra các chiến dịch quảng cáo mới
vào dịp Super Bowl để khai thác sự tập trung đông đảo khán giả vào "thời khắc
vàng" này.
Trong khi mô hình an agency đã thống trị hoạt động quản tri nhãn hiệu từ nhiều
năm nay và vẫn đang có ảnh hưởng to lớn tới việc xây dựng nhãn hiệu của các tập
đoàn, đang có những thay đổi lớn lao đặt ra nhiều thử thách cho các an agency.
Trong suốt 2 thập kỷ qua, cái gọi là "lợi thế thị phần lớn" đã đần dần giảm tác dụng.
Lợi thế thị phần được hiểu là quan điểm coi trọng thị phần của các nhãn hiệu sản
phẩm hoặc dịch vụ: thị phần càng cao thì càng tốt. Ngày nay, các doanh nghiệp coi
trọng lợi nhuận và tăng trưởng thị giá cổ phiếu hơn, hay nói chung là giá trị đem lại
cho cổ đông và người đầu tư. Những tập đoàn có thị phần lớn nhưng thua lỗ và
không đem lại giá trị tăng thêm đã không còn được ưa chuộng. Thị trường quy mô
lớn cũng dần dần biến mất và thay vào đó, nó bị phân hoá thành nhiều thị trường
nhỏ hẹp được định hình bởi các nhu cầu tập trung hơn và do đó các chiến dịch
quảng cáo siêu lớn không còn thích hợp. Ngành truyền thông đại chúng cũng đang
chuyển mình nhanh chóng trước sự xuất hiện của nhiều phương tiện truyền thông
mới có thể tác động vào các phân mảng thị trường hẹp hơn nhiều.
Thêm vào đó, nền kinh tế dịch vụ hình thành đã làm thay đổi các quan niệm
truyền thống trong quản trị nhãn hiệu: trước đây, quản trị nhãn hiệu chỉ giới hạn
trong khoảng từ nhận thức của người tiêu dùng tới quyết định mua hàng. Nay, quá
trình này mở rộng ra thành mối quan bệ lâu đài giữa người tiêu dùng với nhãn hiệu
và sự tương tác qua lại giữa hai chủ thể này.
6
Kết quả của các quá trình trên là có nhiều quan niệm sai lầm về nhãn hiệu đã tồn
tại trong bối cảnh hiện nay. Việc hiểu rõ các quan niệm sai lầm này có tác dụng lớn
tới việc xem xét lại chiến lược nhãn hiệu của mỗi tập đoàn.
Các quan niệm sai lầm khác:
* Nhãn hiệu chủ yếu được xây dựng thông qua quảng cáo trên các phương tiện
thông tin đại chúng
Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, có một yếu tố đang dần thay thế vai trò chủ
đạo của quảng cáo đại chúng đối với quá trình xây dựng nhãn hiệu: kinh nghiệm của
người tiêu dùng. Yếu tố này bao gồm tổng hoà các tương tác của một người tiêu
dùng đối với một Công ty mà theo các mức độ khác nhau, các tương tác này có thể
làm mạnh lên hoặc suy yếu nhãn hiệu. Một "kinh nghiệm" tích cực mà người tiêu
dùng cảm nhận được khi sử dụng sản phẩm hay nhãn hiệu của Công ty sẽ có vai trò
rất quan trọng đối với việc xây dựng nhãn hiệu của tập đoàn và duy trì lòng trung
thành của người tiêu dùng đó. Hành động mua hàng, trước đây được xem là kết thúc
của mô hình marketing truyền thống vẫn thường được giảng dạy trong các rường đại
học, giờ trở thành sự khởi đầu của một mối quan hệ giữa công ty-khách hàng và sự
hình thành của các yếu tố vô hình của sản phẩm (dịch vụ hậu mãi và nhu cầu thoả
mãn của người tiêu dùng).
Do có sự xuất hiện của yếu tố "kinh nghiệm của người tiêu dùng", nhiều nhãn
hiệu lớn ngày nay đang được xây dựng nhờ kích thích kinh nghiệm của người tiêu
dùng thay cho quảng cáo truyền thống. Trước khi quảng cáo ồ ạt, nhà cung cấp dịch
vụ Internet lớn nhất thế giới American Online đã gửi Email đến để khách hàng có
thể thử nghiệm dịch vụ ngay trên Email rồi từ đó quyết định đăng ký thuê bao AOL.
Harley Davidson xây fựng một trong những nhãn hiệu mạnh nhất bằng cách tăng
cường kinh nghiệm của người tiêu dùng mục tiêu như thành lập các câu lạc bộ chủ
xe Harley và tổ chức các cuộc đua. Yếu tố "kinh nghiệm người tiêu dùng" rõ ràng
đang trở thành một công cụ chiến lược quan trọng bên cạnh quảng cáo truyền thống
7
trong xây dựng nhãn hiệu.
* Nhãn hiệu được sử dụng chủ yếu để gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Mặc dù các chiến lược nhãn hiệu vẫn tiếp tục được phát triển lấy trung tâm là
người tiêu dùng, song chúng sẽ thất bại nếu không chú ý đưa cả các nhà đầu tư và
các nhân viên tương lai vào chiến lược này. General Electric, tập đoàn lớn nhất thế
giới xét về giá trị thị trường, đã rất thành công trong việc quản lý nhãn hiệu của
mình trong giới đầu tư tài chính và thị trường chứng khoán. Nhờ đó, GE có thể dễ
dàng tăng vốn trên thị trường tài chính từ các nhà đầu tư. Còn trong bối cảnh hiện
nay, khi chất xám trở thành năng lực cạnh tranh cốt lõi, việc hấp dẫn và thụ hút nhân
tài là điều không thể thiếu đối với các tập đoàn muốn gặt hái thành công.
Mô hình "3 chiều” trong quản trị nhãn hiệu hiện đại: người tiêu dùng, nhà đầu tư
và người làm thuê thực ra vẫn còn thiếu một chiều thứ 4: các phương tiện truyền
thông, các nhà lập pháp và các tổ chức khác quan tâm tới tập đoàn. Đây là những tổ
chức có tiềm lực to lớn có thể tác động mạnh đến sinh mệnh của mỗi tập đoàn.
* Chìa khoá đối với quản trị nhãn hiệu thành công là hiểu rõ hiệu quả của nhãn
hiệu trên thị trường.
Mặc dù đạt được kết quả hiện thời là thống trị thị trường hiện tại, điều quan
trọng hơn đối với các nhà quản trị nhãn hiệu hiện đại là có tầm nhìn rộng để nhìn
thấy những xu hướng mời ở chân trời xa. Diều này là vì kinh tế tri thức đã làm cho
vòng đời của các nhãn hiệu biến động lớn và nhiều nhãn hiệu rất phổ biến đã mau
chóng rơi vào quên lãng. Các nhãn hiệu xe hơi Cadillac và đồ điện tử Zenith từng
một thời là niềm tự hào của nước Mỹ nay đã không còn bóng dáng bởi vì chúng trở
nên lỗi thời trước một thế hệ người tiêu dùng mới. Vì thế, các nhà quản trị nhãn hiệu
phải biết nhìn xa trông rộng và dự tính trước các biến cố có thể xảy ra.
* Nhãn hiệu là biểu tượng và mang tính cảm xúc nên vì thế, nó được xây dựng
chủ yếu nhờ sự sáng tạo chứ không phải phân tích.
Chúng ta biết rằng nhãn hiệu có sức thu hút đối với cả trái tim và khối óc, song
8
các chiến lược nhãn hiệu đây đủ có thể lượng hoá và phân tích bằng các mô hình
kinh tế. Một trong những khái niệm được sử dụng lâu nay là “vốn nhãn hiệu” (hay
còn gọi là giá trị nhãn hiệu - brand equity) hiện đang được sử dụng ngày càng rộng
rãi. Việc tăng giá trị của "vốn nhãn hiệu” được coi là một trong những mục tiêu chủ
đạo của các nhà quản lý nhãn hiệu ngày nay.
* Nhãn hiệu là trách nhiệm của phòng marketing.
Cũng như việc nhiều người cho rằng quảng cáo là công cụ duy nhất để xây dựng
nhãn hiệu, đây là một hiểu lầm khá phổ biến. Bởi vì nhãn hiệu được coi như một lời
cam kết ngầm định giữa Công ty và người tiêu dùng, nên lời cam kết này có vai trò
rất quan trọng. Lâu nay không ai phủ nhận chính sản phẩm là yếu tố để thực hiện
“lời cam kết ngầm" của Công ty với khách hàng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế mới,
khi vai trò của ngành dịch vụ tăng lên nhanh chóng, không chỉ sản phẩm mà chính là
toàn bộ các nhân viên của một tập đoàn mới là người thực hiện "lời cam kết ngầm"
với khách hàng. Vì thế, nhiệm vụ của các nhà quản trị cao cấp là làm sao phải cung
cấp phương tiện cho nhân viên thoả mãn toàn bộ các "kinh nghiệm" của khách hàng
khi tiếp cận với sản phẩm của mình. Do đó, thực hiện "lời cam kết ngầm" hàm chứa
trong nhãn hiệu, toàn bộ các nhân viên của một tổ chức kinh doanh đều phải có
trách nhiệm đối với nhãn hiệu của mình chứ không chỉ riêng phòng marketing.
Hiện nay, nhãn hiệu chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong thương mại. Nhãn
hiệu có thể được mua bán hoặc có thể cho thuê quyền sử dụng. Nhãn hiệu có thể
được bảo hộ trong nước hoặc trên quốc tế.
1.2/ Ở Việt Nam
Nhãn hiệu là những dấu hiệu để phân biệt hàng hoá,dịch vụ cùng loại của các cơ
sở sản xuất,kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ,hình ảnh hoặc sự kết
hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. ( Định nghĩa nhãn
hiệu trong luật sở hữu trí tuệ)
Các loại nhãn hiệu
9
Nhãn hiệu hàng hóa : là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa nhất định cùng loại
do một doanh nghiệp cụ thể sản xuất với các sản phẩm cùng loại của các doanh
nghiệp khác.
Nhãn hiệu dịch vụ : Là nhãn hiệu dùng để phân biệt một số dịch vụ do một doanh
nghiệp cụ thể cung cấp. Về bản chất nó giống với nhãn hiệu hàng hóa, cả hai loại
đều có tinh phân biệt. Dịch vụ có thể là bất kì loại hình nào như tài chính, ngân
hàng, du lịch, quảng cáo hoặc vận tải…Nhãn hiệu dịch vụ có thể đăng kí, gia hạn,
đình chỉ, chuyển nhượng và cấp phép sử dụng theo các điều kiện tương tự nhãn hiệu
hàng hóa.
Nhãn hiệu tập thể : Là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ được
sản xuất hoặc cung cấp bởi các thành viên của một hiệp hội. Nhãn hiệu tập thể
thường thuộc sở hữu của một hiệp hội hoặc hợp tác xã mà các thành viên có thể sử
dụng nhãn hiệu tập thể để tiếp thị các sản phẩm của mình. Hiệp hội đó thường xây
dựng tập hợp các tiêu chuẩn về sử dụng nhãn hiệu tập thể (chẳng hạn tiêu chuẩn chất
lượng) và cho phép các thành viên sử dụng nhãn hiệu đó nếu họ đáp ứng các tiêu
chuẩn đó. Nhãn hiệu tập thể có thể xem là một hình thức liên kết hiệu qur trong hiệp
tiếp thị sản phẩm của một nhóm các doanh nghiệp khi từng thành viên sẽ gặp khó
khăn trong việc quảng cáo, tiếp thị để người tiêu dùng thừa nhận và/ hoặc được chấp
nhận phân phối theo các kênh chính thống. VD: nhãn hiệu tập thể Melinda được sử
dụng bởi các thành viên của 16 hợp tác xã sản xuất táo tại Valle di Non và Valle di
Sole (Italia), những người đã thành lập Cong-xoc-xiom Melinda năm 1989.
Nhãn hiệu chứng nhận : Là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ
đáp ứng một tập hợp tiêu chuẩn và được chứng nhận bởi một cơ quan có thẩm
quyền. Nhãn hiệu chứng nhận được cấp khi đáp ứng các tiêu chuẩn định sẵn nhưng
không giới hạn đối với thành viên. Nhãn hiệu có thể được sử dụng bởi bất kì người
nào có sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn định sẵn. Tại nhiều quốc gia, điểm khác
biệt chính giữa các nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận đó là nhãn hiệu tập
10
thêr chỉ có thể được sử dụng bởi một nhóm các doanh nghiệp, như thành viên của
một hiệp hội trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử dụng bởi bất kì một ai
đáp ứng các tiêu chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận quy định. Một yêu cầu
quan trọng đói với nhãn hiệu chứng nhận là chủ thể nộp đơn đăng kí được coi là có
thẩm quyền chứng nhận các sản phẩm liên quan. Ví dụ : Biểu tượng Woolmark là
một nhãn hiệu chứng nhân đã đăng kí của công ti woolmark, đây là biểu tượng bảo
đảm chất lượng xác nhận rằng các sản phẩm mang biểu tượng đó. Được làm từ 100
% len mới và tuân thủ các chỉ tiêu kĩ thuật nghiêm ngặt do công ty quy định. Nhãn
hiệu này được đăng kí tại hơn 140 nước và được cấp Li-xăng cho các nhà sản xuất
có đủ khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kĩ thuật tại 67 nước.
Nhãn hiệu nổi tiếng : Là nhãn hiệu được coi là nổi tiếng trên thị trường và được cơ
quan có thẩm quyền của quốc gia mà nhãn hiệu đó chứng nhận và bảo hộ. Nhãn
hiệu nổi tiếng có thể được bảo hộ thậm chí khi nhãn hiệu đó không được đăng kí
(hoặc chưa bao giờ được sử dụng) trên một lãnh thổ cụ thể. Hơn nữa, trong khi nhãn
hiệu được bảo hộ nhằm chống lại các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn chỉ khi
chúng được dùng cho các sản phẩm trùng hoặc tương tự , còn nhãn hiệu nổi tiếng
được bảo hộ nhằm chống lại các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn ngay cả khi
chúng được dùng cho sản phẩm không cùng loại nếu thỏa mãn một số điều kiện cụ
thể. Mục đích chính của việc bảo hộ mạnh hơn này là ngăn chặn việc các công ty lơi
dụng danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng và/hoặc gây thiệt hại cho uy tín và danh
tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng đó. VD: Giả sử nhãn hiệu Wondercola là một nhãn
hiệu nổi tiếng dùng cho nước ngọt. Sau đó công ty được hưởng lợi từ việc bảo hộ tự
động ở các nước dành sự bảo hộ mạnh hơn cho các nhãn hiệu nổi tiếng và ở các
nước mà nhãn hiệu của họ là nổt tiếng cho sản phẩm nước ngọt. Sự bảo hộ đó cũng
sẽ được áp dụng cho các hàng hóa dịch vụ không liên quan. Điều này có nghĩa là
nếu một công ty khác quyết định đưa ra thị trường các sản phẩm khác từ áo phông
11
cho đến kính mát sử dụng nhãn hiệu wondercola thì công ty đó phải xin phép công
ty hoặc có thể bị kiện ra tòa vì vi phạm quyền đối với nhãn hiệu.
* Nhãn hiệu trên internet
Việc sử dụng nhãn hiệu trên internet làm phát sinh một loạt vấn đề pháp lý gây
nhiều tranh cãi cùng với các giải pháp không hề dễ dàng và thống nhất. Một vấn đề
quan trọng phát sinh từ thực tê rằng quyền đối với nhãn hiệu có tính lãnh thổ (có
nghĩa là các quyền đó chỉ được bảo hộ trong lãnh thổ của quốc gia hoặc khu vực mà
nhãn hiệu đó đã được đăng kí hoặc sử dụng), trong khi sự tiếp cận với internet lại
mang tính chất toàn cầu. Điều này gây nên khó khăn khi giải quyết tranh chấp giữa
các cá nhân hoặc các công ty sở hữu hợp pháp nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến
mức gây nhầm lẫn dùng cho các hàng hóa hoặc dịch vụ giống hoặc tương tự tại các
nước khác nhau. Luật pháp trong lĩnh vực này đang trong quá trình xây dưng và
cách giải quyết có thể là khác nhau giữa nước này với nước khác.
Một vấn đề quan trọng liên quan đến sự xung đột giữa các nhãn hiệu và tên miền.
Tên miền là địa chỉ internet và thường được sử dụng để tra cứu các trang web. VD,
tên miền “wipo.int” được sử dụng để xác định trang web của WIPO tại địa chỉ này.
Theo thời gian tên miền đó trở thành yếu tố nhận biết doanh nghiệp, do đó thường
trở thành xung đột với nhãn hiệu. Vì thế điều quan trọng là chúng ta phải chon một
tên miên không phải là nhãn hiệu của một nhãn hiệu công ty khác, đặc biệt là nhãn
hiệu nổi tiếng. Lý do là vì pháp luật quốc gia, hoặc tòa án của nhiều nước coi việc
đăng kí tên miên là nhãn hiệu của một công ty hoặc của một cá nhân khác là vi
phạm nhãn hiệu, thường được gọi là chiếm dụng trái phép trên mạng. Nếu việc đó
xảy ra thì những doanh nghiệp của bản phải chuyển giao hoặc hủy bỏ tên miền đó,
và còn có thể phải nộp một khoản bồi thường thiệt hại hoặc một khoản tiện phạt rất
nặng. Để xác định một nhãn hiệu cụ thể nào đó đã được bảo hộ hay chưa, bạn phải
liên hệ trực tiếp với các cơ quan nhãn hiệu quốc gia hoặc khu vực, trong đó nhiêu cơ
quan có cơ sở dữ liệu nhãn hiệu tra cứu được qua internet. Mặt khác, nếu nhãn hiệu
12
của một công ty đang được sử dụng dưới hình thức một tên miên hoặc đang bị một
cá nhân hoặc công ty khác chiếm dụng trái phép trên mạng thì ta có thể tiến hành
các biện pháp để chấm dứt hành vi vi phạm và lạm dụng quyền đó của các công ty
mình. Trong trường hợp này có thể lựa chọn thủ tục hành chính trực tuyến rất phổ
biến của WIPO để giải quyết tranh chấp về tên miền trên địa chỉ
:arbiter.wipo.int/doimans/. Trang web này cung cấp mẫu đơn cũng như bản mục lục
để tiếp cận hàng ngàn vụ tranh chấp liên quan đến tên miền
* Chức năng của nhãn hiệu
Chức năng chính của một nhãn hiệu giúp người tiêu dùng xác định một sản phẩm
(là một hàng hóa dịch vụ) của một công ty cụ thể nhăm phân biệt sản phẩm giống
hoặc tương tự do các công ty khác cung cấp. Khi người tiêu dùng hài lòng với sản
phẩm đó, có khả năng họ sẽ mua hoặc sử dụng sản phẩm đó trong tương lai. Vì vậy
nhãn hiệu cần phân biệt được dễ dàng trong số các sản phẩm giống hoặc tương tự.
Bằng việc giúp các công ty phân biệt sản phẩm của họ với sản phẩm của các công ty
khác, nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong chiến lược nhãn hiệu và tiếp thị của
các công ty, góp phần xây dựng hình ảnh và danh tiếng sản phẩm của các công ty
trong con mắt người tiêu dung. Hình ảnh và danh tiếng của sản phẩm tạo niềm tin,
làm cơ sở để hình thành những khách hàng trung thành và nâng cao danh tiếng của
công ty. Người tiêu dùng thường hình thành một sự gắn kết tình cảm với một số
nhãn hiệu nhất định, dựa trên một số phẩm chất hoặc đặc điểm mà họ mong muốn từ
sản phẩm mang những nhãn hiệu đó. Một ví dụ điển hình về giá trị mạng lại từ nhãn
hiệu đối với một công ty là Coca-cola hoặc IBM, giá trị của những nhãn hiệu nổi
tiếng này lên tới hơn 50 tỉ đô la Mĩ. Hơn nữa nhãn hiệu cũng tạo ra một động lực
khuyến khích các công ty đầu tư vào việc duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm
của mình nhằm đảm bảo rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu của họ một danh tiếng
tốt. Bởi thế sở hữu một nhãn hiệu với một hình ảnh và danh tiếng tốt tạo cho công ty
một lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác.
13
Phân biệt nhãn hiệu với một số thuật ngữ dễ hiểu lầm
- Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
- Nhãn hàng hóa là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh
được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của
hàng hóa dùng để thể hiện các nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hóa. (Nhãn hàng
hóa được qui định tại NĐ số 89/2006/NĐ-CP ngày 30.8.2006 của Chính phủ).
* Nhãn hiệu và thương hiệu
Nhãn hiệu
• Nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để
Thương hiệu
• Thương hiệu là sự kỳ vọng của khách
phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại
hàng về sản phẩm/dịch vụ bất kỳ
của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác
• Nhìn nhận dưới góc độ quản trị tiếp thị
nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ
của doanh nghiệp
ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp các yếu tố
• Do doanh nghiệp xây dựng và công
đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều
nhận bởi khách hàng
màu sắc. (Điều 785 Bộ Luật Dân sự
• Chức năng của phòng tiếp thị, kinh
1995)
doanh trong công ty
• Nhìn nhận dưới góc độ pháp lý
• Có tính vô hình: tình cảm, lòng trung
• Được bảo hộ bởi pháp luật
thành của khách hàng
• Do luật sư, bộ phận pháp chế của công
ty phụ trách
• Có tính hữu hình: giấy chứng nhận,
đăng ký
2/ Quản lý Nhà nước sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa
14
2.1/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa
a/ Khái niệm SHTT
Mặc dù có rất nhiều các hiệp định và công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ nhưng
không một văn kiện nào đề cập đến một định nghĩa về cụm từ này, có chăng thì cũng
chỉ liệt kê ra các phạm trù của sở hữu trí tuệ một cách khái quát. Công ước thành lập
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) được kí tại Stockholm vào ngày 14/7/1967
điều 2 (viii) quy định rằng sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền đối với :
(1) Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;
(2) Chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và chương
trình phát thanh, truyền hình
(3) Sáng chế và giải pháp hữu ích trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người
(4) Các phát minh khoa học
(5) Kiều dáng công nghiệp;
(6) Nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn thương mại và tên thương
mại
(7) Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh
Kể từ khi thông qua công ước này, quyền sở hữu trí tuệ còn được mở rộng thêm,
bao gồm đối với giống cây trồng, mạch dẫn tích hợp bán dẫn, bí mật thương mại và
thông tin bí mật và thể hiện nghệ thuật truyền thống dân gian. Một danh mục đầy đủ
hơn về các quyền sở hữu trí tuệ được liệt kê trong phần II của hiệp định TRIPS với
danh nghĩa là các đối tượng của hiệp định nay, cụ thể là quyền tác giả và quyền liên
quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn và thông tin bí mật
Sở hữu trí tuệ được chia thành hai nhánh: Sở hữu công nghiệp và quyền tác giả
và quyền liên quan đến tác giả.
Tuy nhiên đứng trên góc độ người nghiên cứu xin mạnh dạn đưa ra một số ý hiểu
về lĩnh vực SHTT:
15
Sở hữu: là thuật ngữ dùng để chỉ quyền của mỗi người đối với tài sản mà người
đó hay còn gọi là quyền sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng: quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản tương ứng.
Tài sản: là đối tượng của sở hữu, bao gồm: tài sản vật chất và tài sản trí tuệ.
Tài sản vật chất: bao gồm vật có thực, tiền, các giấy tờ trị giá bằng tiền và các
quyền về tài sản; chúng được chia thành bất động sản (đất đai, nhà ở, công trình xây
dựng...) và động sản (những tài sản không phải là bất động sản: đồ dùng cá nhân,
các phương tiện đi lại, trang thiết bị gia đình....).
Tài sản trí tuệ: là sản phẩm do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng
tạo, bao gồm các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật (tiểu thuyết thơ ca, các tác
phẩm điêu khắc, hội họa...) và các thành quả sáng tạo khoa học kỹ thuật (sáng chế,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp....).
Sở hữu trí tuệ: là khái niệm dùng để chỉ quyền của chủ thể đối với tài sản trí
tuệ tương ứng. Sở hữu trí tuệ được chia thành hai lĩnh vực chủ yếu bao gồm sở hữu
công nghiệp và bản quyền.
b/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa
Từ khái quát về SHTT ở phần trên ta có thể hiểu một cách khái quát về sở hữu trí
tuệ nhãn hiệu hàng hóa : Nhãn hiệu hàng hóa một mặt là sản phẩm trí tuệ và sáng
tạo của cá nhân , tập thể để phân biệt hàng hóa của mình với các doanh nghiệp khác
vì vậy các cá nhân, tập thể đó có quyền sở hữu nó và được quyền yêu cầu bảo hộ nó
vì nó là sản phẩm phải tốn chất xám, công sức và vật chất để tạo ra, mặt khác nó là
cơ sở để các cơ quan chức năng dám sát hoạt động kinh doanh và tuân thủ theo pháp
luật của các doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy đứng trên cả hai khía cạnh kinh
doanh và quản lý thì SHTT nhãn hiệu hàng hóa là bộ phận quan trọng không thể
không hiểu và áp dụng một cách chính xác và thống nhất. Tuy nhiên ở Việt Nam,
hiểu rõ và hiểu chính xác về nó không phải nhiều doanh nghiệp thậm chí cơ quan
16
quản lý nhà nước làm được. SHTT nhãn hiệu hàng hóa trước đây chỉ áp dụng với
các sản phẩm là hàng hóa nhưng ngày nay nó đã được mở rộng ra cả dịch vụ.
2.2/ Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam
Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa là một trong các hoạt động để
quản lý kinh tế cũng như thực hiện các chính sách giám sát, thực thi pháp luật trong
lĩnh vực này. Năm 2005, luật SHTT ra đời là một bước tiến lớn và là cơ sở để các cơ
quan quản lý trong lĩnh vực SHTT thực hiện tốt hơn hoạt động quản lý nhãn hiệu
trên thị trường. Thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa
có một số cơ quan chủ yếu là :Cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp ( Cục SHTT
Việt Nam…); Các cơ quan quản lý thị trường; Cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường Chất lượng; Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và du lịch; Ủy ban nhân dân các
cấp; Cơ quan công an và các cơ quan hành pháp khác ( Cục hải quan …). Nằm trong
hệ thống quản lý đó, Cục Sở hữu trí tuệ Việt nam tiền thân là cục sáng chế hàng
năm,ngoài việc tiếp nhận và xử lý hàng trăm đơn khiếu nại xác lập quyền, đơn yêu
cầu chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, Cục SHTT đã tích cực hỗ trợ nhiều
cơ quan, tổ chức, cá nhân và tham gia các hoạt động tư pháp,tố tụng liên quan đến
giải quyết khiếu nại và tranh chấp quyền SHCN tại Toà án; phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan thực thi xử lý rất nhiều vụ vi phạm hành chính và xâm phạm quyền
SHTT. Đặc biệt,Cục SHTT đang chủ trì nghiên cứu, tu chỉnh và trình Chính phủ phê
duyệt Đề án "Nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHTT" nhằm từng bước đẩy lùi tình
trạng xâm phạm,vi phạm về SHTT
Chương II
17
Thực trạng quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa trong giai đoạn
2005-2007
1/ Thực trạng về SHTT nhãn hiệu hàng hóa
1.1/ Thực trạng chung
Việc sản xuất hàng giả, hàng nhái đã trở thành một ngành công nghiệp có qui mô
lớn nằm rải rác khắp nơi. Có thể tìm thấy dễ dàng trên đường Nguyễn Trãi hay
Nguyễn Đình Chiểu (TP.HCM) những áo thun từ xuất xứ trong nước đến Hong
Kong, TQ, Thái Lan, Indonesia, Ý... với số lượng lớn, có giá thượng vàng hạ cám từ
60.000-300.000 đồng/chiếc, gồm các nhãn hiệu CK, Dolce & Gabbana hay Chanel,
Versace... nổi tiếng. Ngay đồ chơi trẻ em, công nghiệp sản xuất hàng nhái, hàng giả
tại TQ và Đông Nam Á đã chiếm tỉ lệ 80% trên thị trường thế giới, thu về hằng năm
trên 4 tỉ đôla chứ không còn là hàng thủ công như xưa kia.
Trong lĩnh vực sản xuất xe máy: Honda bị vi phạm quyền SHCN nhiều nhất vì
đây là thương hiệu mạnh. Không chỉ một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong
nước mà một số liên doanh nước ngoài cũng làm nhái kiểu dáng, phụ tùng của
Honda. Cứ mỗi khi có một dòng xe mới ra đời, không bao lâu sau trên thị trường đã
xuất hiện những chiếc xe "hệt 100%", chỉ khác tên gọi. Dòng xe Best của Suzuki,
Jupiter của Yamaha được làm nhái khá nhiều.Giá một chiếc Honda giả, nhái có từ
5,2-12 triệu không kể cả giá cao ngất trời của một chiếc Dylan hay SH chính gốc
Nhật là 7.000-8.000 đôla (tương đương giá một chiếc ôtô mới cỡ nhỏ ở Mỹ), trong
khi hàng giả của TQ chào bán 30 triệu đồng (tương đương 1.600-1.700 đôla. Từ sản
phẩm công nghiệp nhẹ đến cơ khí như máy phay - bào - tiện, thổi nhựa, khuôn mẫu
cho ngành bao bì, thực phẩm, in ấn, đúc... đều có tương tự các nhãn hiệu thế giới tại
thị trường trung gian ở Hong Kong, Đài Loan hay các nước dung dưỡng và tiêu thụ
hàng nhái ở khắp nơi.
Danh sách hàng hiệu bị làm giả, nhái nhiều nhất là giày thể thao, túi xách phụ
nữ, quần áo, đồng hồ, dụng cụ gia đình bằng điện (tủ lạnh, TV, video...), phần mềm
18
máy tính, phim ảnh, đĩa DVD, VCD, thuốc lá, mỹ phẩm, đồ chơi trẻ em, nữ trang,
thuốc chữa bệnh... (theo vietbao.vn : http://vietbao.vn/Kinh-te/The-gioi-hanggia-Ky-2-Gia-nhai-hang-hieu/40191807/87/)
Mỗi năm Cục Quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 5.000 vụ sản xuất và
tiêu thụ hàng giả, trong đó hình thức "mượn" nhãn hiệu có tên tuổi chiếm phần lớn.
Theo phản ánh của một số công ty sản xuất xe máy thì nhiều hộ kinh doanh đã bước
đầu nhận thức được hành vi vi phạm quyền SHCN và hậu quả pháp lý của nó. Nhiều
hộ đã yêu cầu các nhà sản xuất, lắp ráp xe máy trong nước phải cam kết sản phẩm
của mình không vi phạm quyền SHCN
Trong lĩnh vực dược phẩm, theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công
nghệ), mỗi năm Việt Nam có khoảng 80 bằng độc quyền được cấp liên quan đến
dược phẩm. Tuy nhiên, đó hầu hết là các loại dược phẩm nước ngoài, trong khi
doanh nghiệp dược trong nước cũng như cơ quan quản lý chưa thích ứng kịp với các
quy định liên quan đến vấn đề này. Điều này đồng nghĩa với việc các sản phẩm dược
nội địa đã và đang đứng ở một vị trí bất lợi mà nó có thể gây ra thiệt hại rất lớn khi
tranh chấp sở hữu trí tuệ xảy ra.
Trong lĩnh vực phần mềm Việt Nam vẫn đang đứng trên top-5 thế giới về tỉ lệ
phần mềm lậu (88%) năm 2006. Không chỉ phần mềm lậu, Việt Nam vốn nổi tiếng
là “thiên đường” của các sản phẩm sở hữu trí tuệ lậu, nhất là phim ảnh, âm nhạc,
sách tiếng Anh, và games. Trong khi đó, chúng ta đã ký công ước Berne và nó có
hiệu lực từ ngày 26 tháng 10 năm 2004
1.2/ Tại địa bàn Hà Nội
Không ít doanh nghiệp vẫn thờ ơ, thậm chí thiếu hiểu biết về bảo hộ sở hữu công
nghiệp hay lợi ích thực sự của việc làm này. Trong khi đó, pháp luật về sở hữu trí tuệ
của VN chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở. Đây là một thực tế khiến tình trạng vi
phạm diễn ra ngày càng nghiêm trọng và phức tạp.
19
Theo thống kê, mỗi năm Cục Quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 5.000
vụ sản xuất và tiêu thụ hàng giả, trong đó hình thức "mượn" nhãn hiệu có tên tuổi
chiếm phần lớn. Thực trạng này đang gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp cả
về uy tín và doanh thu. Theo ông Trịnh Sỹ, Phó Giám đốc Công ty Bánh kẹo Tràng
An, do sự gia tăng của các sản phẩm bánh kẹo giả, doanh thu của công ty năm nay
đã giảm 30% so với năm ngoái. Tương tự như vậy, các sản phẩm bánh kẹo giả mạo
sản phẩm của Công ty Hải Hà đã làm giảm 40% sản lượng của công ty so với trước
đây. Những đối tượng vi phạm ngày càng có nhiều hành vi tinh vi hơn. Thậm chí,
hành vi của nhiều đối tượng còn có một lực lượng hậu thuẫn giúp việc "tư vấn" để
lách luật
Trên thực tế là nhiều doanh nghiệp không thể lường trước được việc nhãn hiệu
hàng hóa uy tín của mình đã có người khác nhanh chân đăng ký bảo hộ "giúp" một
cách hợp pháp. Thậm chí nhiều sản phẩm hàng hóa giả và nhái nhãn mác của họ đã
được sản xuất và tung ra thị trường với số lượng lớn gây sự nhầm lẫn khó phân biệt
cho người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp phải làm lại từ đầu, bằng cách xây dựng
một nhãn hiệu mới, điều này đồng nghĩa với việc họ tự đánh mất mình. Trước thực
tế trên, nhiều doanh nghiệp nhằm tránh những "vết xe đổ" đi trước, vội vàng làm thủ
tục đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp cho cả những sản phẩm/dịch vụ chưa thực
sự chiếm lĩnh được thị trường.
Tại địa bàn Hà Nội, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007 khi Cục quản lý thị trường
tiến hành khảo sát đã có HN có 19 tụ điểm nghi vấn có hoạt động sản xuất, buôn bán
hàng giả, đã lập danh sách 178 đầu mối sản xuất nghi có sản xuất hàng giả, kém chất
lượng. Trong đó, có 33 cơ sở lương thực, thực phẩm, 128 cơ sở hàng tiêu dùng, 7 cơ
sở vật liệu xây dựng, 20 cơ sở thuốc bảo vệ thực vật và thức ăn chăn nuôi. Bên cạnh
đó, còn có 171 điểm giáp ranh mà lực lượng QLTT khó kiểm soát (13 khu vực giáp
ranh với các tỉnh bạn, 55 khu vực giữa các quận, huyện, 103 khu vực giữa các
phường, xã). Ngoài ra, với 631 chợ, 73 bến ôtô, 7 ga xe lửa, 4 khu vực triển lãm và
20
- Xem thêm -