Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học vi...

Tài liệu Quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở trường

.DOC
100
376
109

Mô tả:

1. Tính cấp thiết của đề tài Đội ngũ chính trị viên trong quân đội là lực lượng giữ vai trò chủ chốt trong việc xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng b¬ước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của cách mạng. Là người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị ở cấp phân đội đòi hỏi người chính trị viên không những phải kiên định vững vàng, nhạy bén về chính trị, mà còn phải có năng lực quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết, chỉ thị của cấp trên trong điều kiện cụ thể của đơn vị mình. Vì vậy, công tác đào tạo chính trị viên phải đặc biệt coi trọng phát triển tư duy lý luận gắn với nâng cao năng lực thực tiễn, bảo đảm cho người chính trị viên tương lai có thể hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đang tác động nhiều chiều đến người học viên đào tạo chính trị viên. Mặt khác với âm mưu “diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch thường xuyên công kích, chống phá sự lãnh đạo của Đảng ta, âm mưu phi chính trị hoá quân đội. Tình hình đó càng đòi hỏi đội ngũ chính trị viên phải có năng lực tư duy lý luận phát triển và năng lực thực tiễn tốt thì mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vì lẽ đó, trong quá trình đào tạo ở Trường Sĩ quan Chính trị, việc nhận thức và giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn là một vấn đề cơ bản và cấp bách có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Những năm qua, nhà trường đã quan tâm thoả đáng vấn đề phát triển tư duy lý luận và coi trọng nâng cao năng lực thực tiễn của người học trong quá trình giáo dục và đào tạo. Trong chương trình đào tạo đã chú trọng hàm lượng kiến thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và năng lực thực tiễn phù hợp với cương vị công tác của người chính trị viên. Tuy nhiên, việc nhận thức và giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn ở học viên đào tạo chính trị viên còn không ít bất cập. Đó là khuynh hướng hoặc thiên về nâng cao tư duy lý luận hoặc thiên về năng lực thực tiễn. Một bộ phận học viên ra trường có tư duy lý luận khá tốt, nhưng năng lực thực tiễn còn nhiều hạn chế; một bộ phận khác có khả năng hoạt động thực tiễn khá song gặp những tình huống, những yêu cầu mới thì lúng túng. Bên cạnh đó việc quan tâm giáo dục nâng cao nhận thức của họ về vị trí, tầm quan trọng của quan hệ này có mặt còn hạn chế. Thực trạng đó đòi hỏi trong quá trình đào tạo chính trị viên phải giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Đây cũng là tiền đề quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn hiện nay.
2 MỤC LỤC Trang 3 MỞ ĐẦU Chương THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH 1 QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CHÍNH TRỊ VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ 11 QUAN CHÍNH TRỊ 1.1. Thực chất quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị 1.2. Những nhân tố cơ bản quy định quan hệ giữa phát triển 11 tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị 31 Chương THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT 2 QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CHÍNH TRỊ VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY 44 2.1. Thực trạng giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay 2.2. Giải pháp cơ bản giải quyết quan hệ giữa phát triển tư 44 duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 59 82 84 89 3 Đội ngũ chính trị viên trong quân đội là lực lượng giữ vai trò chủ chốt trong việc xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của cách mạng. Là người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị ở cấp phân đội đòi hỏi người chính trị viên không những phải kiên định vững vàng, nhạy bén về chính trị, mà còn phải có năng lực quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết, chỉ thị của cấp trên trong điều kiện cụ thể của đơn vị mình. Vì vậy, công tác đào tạo chính trị viên phải đặc biệt coi trọng phát triển tư duy lý luận gắn với nâng cao năng lực thực tiễn, bảo đảm cho người chính trị viên tương lai có thể hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đang tác động nhiều chiều đến người học viên đào tạo chính trị viên. Mặt khác với âm mưu “diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch thường xuyên công kích, chống phá sự lãnh đạo của Đảng ta, âm mưu phi chính trị hoá quân đội. Tình hình đó càng đòi hỏi đội ngũ chính trị viên phải có năng lực tư duy lý luận phát triển và năng lực thực tiễn tốt thì mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vì lẽ đó, trong quá trình đào tạo ở Trường Sĩ quan Chính trị, việc nhận thức và giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn là một vấn đề cơ bản và cấp bách có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Những năm qua, nhà trường đã quan tâm thoả đáng vấn đề phát triển tư duy lý luận và coi trọng nâng cao năng lực thực tiễn của người học trong quá trình giáo dục và đào tạo. Trong chương trình đào tạo đã chú trọng hàm lượng kiến thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và năng lực thực tiễn phù hợp với cương vị 4 công tác của người chính trị viên. Tuy nhiên, việc nhận thức và giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn ở học viên đào tạo chính trị viên còn không ít bất cập. Đó là khuynh hướng hoặc thiên về nâng cao tư duy lý luận hoặc thiên về năng lực thực tiễn. Một bộ phận học viên ra trường có tư duy lý luận khá tốt, nhưng năng lực thực tiễn còn nhiều hạn chế; một bộ phận khác có khả năng hoạt động thực tiễn khá song gặp những tình huống, những yêu cầu mới thì lúng túng. Bên cạnh đó việc quan tâm giáo dục nâng cao nhận thức của họ về vị trí, tầm quan trọng của quan hệ này có mặt còn hạn chế. Thực trạng đó đòi hỏi trong quá trình đào tạo chính trị viên phải giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Đây cũng là tiền đề quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Về vấn đề tư duy và tư duy lý luận đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các khía cạnh khác nhau. Các công trình này đã được công bố trên các sách, tạp chí, các cuộc hội thảo khoa học về đổi mới tư duy, phát triển tư duy lý luận. Về tư duy lý luận có các công trình: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Nguyễn Đình Trãi, Hà Nội, 2001. Công trình đã làm rõ khái niệm năng lực tư duy lý luận và cho rằng năng lực tư duy lý luận được đặc trưng bởi sự tích luỹ về phương pháp tư duy. Là khả năng lựa chọn sắp xếp các thao tác tư duy theo một lôgíc nhất định nhằm đạt tới kết quả cụ thể; là khả năng xác định mục đích, các bước tiến hành các khâu chủ yếu trong quá trình phản ánh để lựa chọn các thao tác chính xác trong tư duy. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tích luỹ tri thức và nghệ thuật sử dụng tri thức, xử lý thông tin một cách khoa học, hiệu quả; là “nghệ thuật vận dụng các khái niệm”. Năng lực tư duy lý luận 5 giữ vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy của người cán bộ. “Đặc điểm quá trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Nguyễn Bá Dương, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2000. Luận án đã đưa ra năm đặc điểm của tư duy biện chứng duy vật: là loại hình tư duy phát triển cao nhất của loài người so với các loại hình tư duy khác có trong lịch sử triết học; là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng, luôn hàm chứa nội dung hiện thực trong phản ánh thế giới khách quan; phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển và chuyển hoá không ngừng của thế giới khách quan; có tính khách quan; là tư duy khoa học, cách mạng, có tính phê phán và chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép. Tư duy biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Tư duy biện chứng duy vật giúp, người sĩ quan phân đội không những nhận thức đúng tình hình, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu mà còn tìm ra những giải pháp phù hợp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, luôn tiến bộ, trưởng thành. “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đào Văn Tiến, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 1998. Luận án đã làm rõ khái niệm, cấu trúc năng lực tư duy sáng tạo và sự biểu hiện của nó ở đội ngũ sĩ quan cấp phân đội; chỉ ra bản chất, đặc điểm vai trò của năng lực tư duy sáng tạo đối với hoạt động thực tiễn của người sĩ quan trẻ quân đội ta; chỉ ra vấn đề có tính quy luật đó là: tăng cường rèn luyện, trải nghiệm trong hoạt động thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy phân đội; phát triển trong sự tác động biện chứng với các yếu tố khác trong nhân cách của họ; phát triển phụ thuộc sự tác động biện chứng của các yếu tố chủ quan - điều kiện cho sự phát triển của năng lực đó; 6 phụ thuộc vào sự tác động biện chứng giữa các yếu tố của hệ thống tri thức với hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. “Phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo cán bộ hậu cần cấp trung, sư đoàn ở Học viện Hậu cần hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Phạm Thanh Tùng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2007. Luận văn đã làm rõ phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo cán bộ hậu cần cấp trung sư đoàn ở Học viện Hậu cần là quá trình hoàn thiện khả năng trừu tượng hoá, khái quát hoá, nâng cao trình độ nắm bắt và vận dụng các quy luật trong quá trình đào tạo. Quá trình phát triển tư duy lý luận là quá trình tích luỹ dần về lượng đến sự chuyển hoá về chất; là quá trình không ngừng phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình nhận thức; đồng thời là quá trình phủ định biện chứng những tri thức kinh nghiệm của họ. Luận văn đã đi sâu phân tích thực trạng và đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm phát triển tư duy lý luận của người học viên cán bộ hậu cần cấp trung, sư đoàn. Về năng lực thực hành công tác đảng công tác chính trị có các công trình: “Bồi dưỡng năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự trong giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Nguyễn Chính Lý, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2006. Luận án chỉ ra đội ngũ cán bộ chính là người trực tiếp quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị quân sự của Đảng xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng tổ chức. Bồi dưỡng năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội là bộ phận cơ bản của hoạt động giáo dục, đào tạo, gồm tổng thể những tác động có chủ định và hệ thống của lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý cùng với sự nỗ lực học tập, rèn luyện của học viên để trang bị, củng cố, mở rộng tri thức và hình thành, phát triển kỹ xảo, kỹ năng cho người học. Năng lực công tác đảng, công tác chính trị hợp 7 thành năng lực của người cán bộ chính trị cấp phân đội và khả năng tổ chức hoạt động thực tiễn. “Bồi dưỡng năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các đơn vị huấn luyện chiến đấu trong quân đội ta hiện nay”, Viện khoa học xã hội nhân văn quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006. Công trình đã làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ chính trị viên, chỉ ra những đặc trưng và vị trí vai trò của đội ngũ cán bộ này trong sự nghiệp xây dựng quân đội ta về chính trị; công trình đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm bồi dưỡng năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ chính trị viên. Về quan hệ giữa tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn có các công trình: “Cần có phương pháp tư duy khoa học, đề cao tự phê bình nói và làm đi đôi”, Lê Linh, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3/1989. Bài viết đã làm rõ vị trí, vai trò của phương pháp tư duy khoa học trong xem xét và giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Chỉ ra sự cần thiết phải rèn luyện thói quen lật đi lật lại vấn đề, nêu cao tự phê bình và phê bình; nói đi đôi với làm; đồng thời chỉ rõ đội ngũ cán bộ ta còn chủ quan, phiến diện, phong cách làm việc còn nhiều dấu ấn phong kiến, do vậy cần phải được thay thế bằng phương pháp tư duy biện chứng. “Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn”, Vi Thái Lang, Tạp chí Triết học, số 1/1999. Tác giả khẳng định quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là quan hệ biện chứng và là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội. Việc nắm bắt tính biện chứng của mối quan hệ đó là tiền đề quan trọng giúp chúng ta có một quan điểm thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, giáo điều, máy móc và bệnh lý luận suông. “Thấm nhuần, thực hiện có hiệu quả phương châm học đi đôi với hành như Bác Hồ đã dạy”, Bùi Mạnh Hùng, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị 8 quân sự, số 3/2004. Bài viết đã chỉ ra nguyên lý dạy học mácxít và luận giải nét đặc sắc trong quan điểm về dạy học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là học tập phải xuất phát từ công việc, chú trọng tính sát thực của lý luận; nội dung học phải gắn sát với thực tế; học phải nắm cặn kẽ, sâu sắc bản chất vấn đề. Học phải đi đôi với hành, hành là chỗ đến, là cái đích của hiểu biết. Lý luận phải liên hệ với thực tiễn, làm kim chỉ nam cho hành động; phải khắc phục tình trạng lý luận suông, thực tiễn mù quáng. “Liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong dạy và học”, Lê Xuân Lựu, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1/2007. Bài viết chỉ ra phương châm căn bản, chủ yếu nhất là phải gắn lý luận với thực tiễn trong dạy học; chỉ ra quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Theo tác giả hoạt động dạy phải gắn lý luận với thực tiễn, tri thức khoa học với kinh nghiệm, hoạt động học người học phải đóng vai trò là chủ thể trong quá trình tiếp nhận tri thức, hình thành kỹ năng nghề nghiệp và rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong công tác; quá trình dạy học ở nhà trường phải hình thành ở người học khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn. Nhìn chung các công trình khoa học nói trên đã đề cập ở các góc độ và cấp độ khác nhau về bản chất, đặc trưng, vai trò của tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận cho cán bộ quân đội, nâng cao năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị cho cán bộ chính trị trong quân đội. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề “Quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”, làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích: 9 Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn quan hệ biện chứng giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp giải quyết khoa học quan hệ đó trong quá trình đào tạo ở Nhà trường hiện nay. * Nhiệm vụ: Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản quy định quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. Đánh giá thực trạng giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản giải quyết khoa học quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận nhận thức, tư duy và tư duy lý luận, vấn đề thực tiễn và năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ; quan điểm của Đảng, Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ quân đội nói chung và đội ngũ cán bộ chính trị nói riêng. * Cơ sở thực tiễn của luận văn là những công trình tổng kết thực tiễn đào tạo, giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị; kết quả điều tra, khảo sát, thu thập từ thực tế của tác giả. * Phương pháp nghiên cứu, dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp 10 nhiều phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá, lịch sử và lôgic, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia… 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn (chủ yếu tập trung vào hoạt động thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị) của học viên đào tạo chính trị viên (bậc đại học) ở Trường Sĩ quan Chính trị, số liệu khảo sát từ năm 2001 - 2008 (khoảng 3 khoá đã tốt nghiệp). 6. Đóng góp khoa học của đề tài Làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nhằm giải quyết quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. 7. Kết cấu của đề tài: gồm phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 11 Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CHÍNH TRỊ VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ 1.1. Thực chất quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị 1.1.1. Quan niệm về phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động thực tiễn, tư duy của con người không dừng lại ở việc phản ánh bên ngoài (Tư duy kinh nghiệm) mà ngày càng đi sâu phản ánh bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng (Tư duy lý luận). Tư duy lý luận là loại hình tư duy phát triển ở trình độ cao nhất của con người, là sự vận dụng khái niệm, phạm trù, quy luật vào nhận thức và hoạt động nhằm tìm ra bản chất, quy luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng, tạo ra tri thức khoa học từ đó giúp con người giải quyết được những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. 12 Nếu tư duy kinh nghiệm gắn liền với việc giải quyết một cách trực tiếp những nhiệm vụ cụ thể thì tư duy lý luận lại hướng tìm ra tri thức mới. Tư duy lý luận chỉ ra bản chất, quy luật vận động của sự vật, hiện tượng. Nhờ đó con người có thể trả lời được những câu hỏi đặt ra trong thực tế: Bản chất sự vật là gì? Quy luật vận động của nó như thế nào? Hoạt động như thế nào để đạt hiệu quả? Trả lời được những câu hỏi này sẽ giúp con người hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn và biết cách đối nhân xử thế hợp tình hợp lý hơn. Tư duy lý luận là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử xã hội, của phương thức sản xuất của xã hội và trình độ văn hoá, khoa học của xã hội đó. Quá trình phát triển tư duy lý luận của người học viên đào tạo chính trị viên chính là quá trình tích luỹ kiến thức của các thế hệ trước để lại và trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn quân sự của chính họ. Học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là một bộ phận học viên đào tạo trở thành sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Họ là: “…Những học sinh, chiến sĩ nghĩa vụ đã tốt nghiệp phổ thông trung học, đảm bảo tốt về sức khoẻ, thể lực, các điều kiện, tiêu chuẩn về chính trị để kết nạp vào Đảng và đào tạo thành sĩ quan, cán bộ quân đội có trình độ kiến thức khá, giỏi (qua thi tuyển); có năng khiếu, tư chất của người cán bộ chính trị; có nguyện vọng gắn bó lâu dài với quân đội, với nghề nghiệp cán bộ chính trị…” [43]. Nghiên cứu quá trình phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên phải đặt trong quá trình học tập rèn luyện trở thành người sĩ quan của họ. Nghị quyết 513/NQ - ĐUQSTƯ khẳng định chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị và chỉ rõ: “…Chính uỷ, chính trị viên phải là những đồng chí đủ tiêu chuẩn, tiêu biểu về phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống, có năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị; có tính đảng, tính nguyên tắc cao, thực sự là tiên phong, gương mẫu, là hạt 13 nhân đoàn kết trong đảng bộ và trong đơn vị, có đủ điều kiện và tín nhiệm là bí thư cấp uỷ…” [15]. Điều đó quy định mục tiêu, yêu cầu đào tạo chính trị viên, họ vừa là người cán bộ quân đội, vừa là nhà tâm lý, nhà giáo dục, đồng thời là người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nhiệm vụ trung tâm của người học viên là học tập rèn luyện trở thành người sĩ quan - chính trị viên trong quân đội. Chính trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện của người học, quá trình thu thập, xử lý tổng hợp kiến thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự, kiến thức chuyên ngành công tác đảng, công tác chính trị, các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và hoạt động thực tiễn phong phú của mình mà tư duy lý luận của họ không ngừng phát triển. Phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là quá trình chuyển hoá về chất làm cho tư duy của họ ngày càng mang tính hệ thống và có khả năng phát hiện bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng nhanh chóng và chính xác hơn. Phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên là sự chuyển hoá về chất trong quá trình lĩnh hội tri thức và phương pháp tư duy mà hạt nhân của nó là phương pháp tư duy biện chứng. Điều đó được đánh giá thông qua hệ thống các thao tác tư duy chặt chẽ trên cơ sở tuân thủ quy luật của hoạt động nhận thức, việc nắm vững phương pháp tư duy biện chứng và sử dụng nó một cách sáng tạo trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện của người học. Quá trình học tập rèn luyện tại Trường Sĩ quan Chính trị, người học được trang bị kiến thức nền tảng về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn quân sự, kiến thức quân sự và khoa học chuyên ngành xây dựng Đảng. Sự tích lũy những tri thức của các bộ môn khoa học làm cho trình độ của người học dần đạt đến trình độ tư duy khái niệm, phạm trù quy luật, hình thành nên thế giới quan khoa học của họ. Đó là quá trình 14 phát triển trình độ tư duy, phương pháp tư duy và khả năng tư duy của họ lên một trình độ mới. Trình độ tư duy lý luận của người học có sự phát triển theo từng năm học ở nhà trường, làm cho kết quả học tập, rèn luyện của họ tốt hơn, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Phát triển tư duy lý luận của học viên đạo tạo chính trị viên là quá trình phủ định biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Đó là quá trình đấu tranh và thống nhất giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ cao hơn tư duy kinh nghiệm nhưng cùng tồn tại trong một chủ thể. Tư duy lý luận của người học chỉ phát triển trên cơ sở kế thừa phát triển, biến kiến thức của nhân loại thành kiến thức của mình và vốn kiến thức kinh nghiệm đã có để “chế biến” khái quát lên một trình độ mới cao hơn, trình độ tư duy lý luận. Mặt khác sự phát triển tư duy lý luận của người học cũng góp phần quan trọng trong việc củng cố những cơ sở khoa học cho tri thức kinh nghiệm của mình. Quá trình đó làm cho tư duy của họ ngày càng phát triển, có tính khái quát hoá, trừu tượng hoá cao, năng động, nhạy bén và có tính phổ quát rộng lớn hơn, thực sự trở thành hệ thống đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Có thể khái quát đặc điểm của quá trình phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị như sau. Quá trình phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên dựa trên cơ sở trực tiếp là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, lý luận về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là nguồn tri thức căn bản giúp người học hình thành và phát triển bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, khả năng đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. 15 Tư duy lý luận của người học được thể hiện qua khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá, hệ thống hoá, cụ thể hoá; vốn từ ngữ, kiến thức chuyên ngành công tác đảng, công tác chính trị, phương pháp cách thức trình bày, diễn đạt sự hiểu biết trước tập thể, tính hệ thống, nhất quán, lôgíc của kiến thức; tính tích cực, độc lập, hoạt động sáng tạo của tư duy, sự vận dụng lý luận công tác đảng, công tác chính trị vào hoạt động công tác tư tưởng, công tác tổ chức. Từ đó giúp họ thực hiện tốt vai trò chủ trì về chính trị có khả năng thâm nhập sâu vào bản chất các sự kiện, vận dụng đường lối, quan điểm, nguyên tắc của Đảng, chỉ đạo và tổ chức tiến hành hoạt động thực tiễn cụ thể, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên diễn ra một cách tự giác, có hướng dẫn, định hướng của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục của nhà trường. Quá trình phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên tuân theo tính quy luật của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của người học trong quá trình học tập tại nhà trường theo chiều hướng đi lên từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Đó vừa là kết quả của việc học tập các môn học trong chương trình đào tạo, vừa là kết quả của quá trình tích lũy vốn sống, tri thức, sự hiểu biết từ hoạt động thực tiễn. Thực chất của quá trình phát triển tư duy lý luận của người học là sự vận động phát triển cả về phương pháp và nội dung tư duy, tiến tới ngày càng phản ánh đúng đắn thực tiễn hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, hoạt động xây dựng đơn vị đáp ứng tốt yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị. Phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên luôn gắn liền với đòi hỏi của thực tiễn đất nước, thực tiễn sự nghiệp xây dựng quân đội, nhiệm vụ công tác đảng, công tác chính trị trên cương vị của họ. Theo Ph. Ăngghen: “Từ trước tới nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường 16 ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng” [1, tr. 720]. Để giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra đòi hỏi chủ thể phải biết vận dụng lý luận vào thực tiễn một cách linh hoạt và sáng tạo. Vì trong bất kỳ hoạt động nào mà chưa sáng tỏ về mặt lý luận thì khi giải quyết các vấn đề thực tiễn sẽ gặp lúng túng thậm chí đi vào bế tắc, chệch hướng khi đó buộc chủ thể nhận thức phải quay lại với lý luận đó để tìm cách giải quyết. Rõ ràng, vấn đề tính chân lý của tri thức lý luận, của tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn với hoạt động cải tạo cách mạng của con người. Tư duy lý luận của học viên đào tạo chính trị viên gắn liền với chức trách nhiệm vụ của họ trên thực tế. Yêu cầu của thực tiễn nhiệm vụ đặt ra cho người học sự chuẩn bị tri thức lý luận cần thiết sát với thức tiễn đó. Vì tư duy có vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khi khẳng định về vai trò của tư duy (ý thức) đối với nhận thức và cải tạo thế giới, V. I. Lênin đã khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan” [26, tr. 228]. Điều này cho thấy, thông qua hoạt động tư duy con người có thể nhận thức được thế giới khách quan; đồng thời thông qua hoạt động thức tiễn, được chỉ đạo bởi tri thức đúng đắn có thể giúp con người cải tạo hiện thực khách quan phục vụ lợi ích của chính mình. Để có bản lĩnh chính trị vững vàng đòi hỏi người chính uỷ, chính trị viên phải có tư duy lý luận tốt, vì năng lực tư duy lý luận là phẩm chất nằm trong bản chất người cán bộ quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với cương vị chủ trì về chính trị ở đơn vị, người chính trị viên phải cùng với tổ chức đảng, cấp uỷ đảng chỉ đạo mọi hoạt động của đơn vị thực hiện đúng theo đường lối quan điểm của Đảng. “Chính uỷ, chính trị viên là người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp uỷ cấp mình về toàn bộ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị; có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, tổ chức 17 tiến hành các nội dung công tác đảng, công tác chính trị theo chức trách, nhiệm vụ; tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện theo kế hoạch công tác chung của đơn vị” [52, tr. 12 - 13]. Chính trị viên là người trực tiếp xây dựng các tổ chức đảng và cấp uỷ trong sạch vững mạnh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị làm cho công tác đảng, công tác chính trị trở thành linh hồn, mạch sống trong phát huy nhân tố chính trị - tinh thần, chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Do đó, người học viên đào tạo chính trị viên phải là người ưu tú, có phẩm chất đạo đức tốt, có tác phong của người cán bộ chuyên trách công tác tư tưởng, công tác tổ chức của Đảng có tính nguyên tắc và tính kỷ luật cao, luôn thận trọng, chặt chẽ, chính xác, nghiêm túc, công bằng, vô tư, độ lượng, chu đáo, luôn coi trọng công tác thuyết phục, nêu gương trong công việc của mình. “Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn” [38, tr. 392]. Đối với nhân dân, chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Đối với quân địch, chính trị viên phải biết cách tuyên truyền khôn khéo, thiết thực để giác ngộ họ, lôi kéo họ về phía ta. 1.1.2. Quan niệm về nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị Năng lực là tổng hoà các yếu tố thuộc về tri thức và khả năng hoạt động, là điều kiện bảo đảm cho chủ thể hoạt động thực tiễn đạt chất lượng, hiệu quả. Năng lực luôn gắn liền với cá nhân, một tập thể, một nhóm xã hội, do đó xã hội có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động thì ở người ta cũng có bấy nhiêu năng lực tương ứng. Năng lực của con người trên từng lĩnh vực bao hàm năng lực nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Hai loại năng lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau. 18 Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn là hoạt động của con người có mục đích, có tính xã hội nhằm cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Hoạt động thực tiễn luôn chịu sự chi phối của những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Hoạt động thực tiễn rất phong phú, nhưng có ba hình thức cơ bản đó là: thứ nhất, hoạt động sản xuất vật chất, đây là hình thức hoạt động cơ bản quy định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; thứ hai, hoạt động chính trị - xã hội nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội; thứ ba, hoạt động thực nghiệm khoa học, là hoạt động đang giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Chính từ hoạt động thực tiễn của mình mà nhận thức ngày càng phát triển. Thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức chân lý mà còn là tiêu chuẩn của chân lý, do vậy, bất kỳ hoạt động nhận thức nào cũng phải được xuất phát từ thực tiễn. Năng lực thực tiễn được biểu hiện và gắn với hoạt động của một chủ thể xác định và nó là hoạt động vật chất tác động vào thế giới khách quan, cải biến thế giới khách quan theo mục đích của chủ thể và diễn ra trong một không gian, thời gian xác định. Từ sự phân tích đó ta có thể quan niệm, năng lực thực tiễn là khả năng của chủ thể sử dụng lực lượng vật chất tác động vào thế giới khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu của họ trong những điều kiện hoàn cảnh, thời gian cụ thể. Trong những hoàn cảnh, thời gian cụ thể đặt ra yêu cầu phải có năng lực tương ứng phù hợp với nó. Hoạt động thực tiễn của chủ thể không ngừng vận động phát triển hoàn thiện nên năng lực thực tiễn cũng có trình độ khác nhau và phạm vi, nhiệm vụ khác nhau. Năng lực thực tiễn của chủ thể mà 19 luận văn tiếp cận là năng lực xác định mục đích, phương hướng, hoạt động thực tiễn, năng lực khơi dậy, quy tụ, sử dụng các lực lượng phương tiện thực tiễn, năng lực kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động thực tiễn - năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. Năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên được hình thành và phát triển trong quá trình học tập, rèn luyện, tham gia hoạt động thực tiễn quân sự, gắn với nghề nghiệp, cương vị chức trách của người chính trị viên. Năng lực hoạt động thực tiễn của người học ở đây được tập trung nghiên cứu là năng lực thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị, là năng lực hoạt động công tác tư tưởng, công tác tổ chức, phản ánh trình độ của họ về khả năng tuyên truyền, vận động, đoàn kết trong đơn vị, địa phương đóng quân và tổ chức phân công thực hiện nhiệm vụ trong đơn vị; khả năng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đấu tranh tư tưởng, lý luận và khả năng quản lý đơn vị theo chức trách, nhiệm vụ của người chính trị viên. Từ sự phân tích đó ta có thể quan niệm năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là trình độ, khả năng của người học viên trong tổ chức hoạt động thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị phù hợp với chức trách nhiệm vụ người chính trị viên theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp đã được tích luỹ trong quá trình học tập vào tổ chức, thực hiện hoạt động công tác đảng, công tác chính trị theo chức trách của người chính trị viên. Thể hiện trong việc tổ chức, giải quyết công tác tư tưởng, công tác tổ chức và vận dụng kết hợp nó trong quá trình tiến hành công tác đảng, công tác chính trị vào thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của phân đội. 20 Năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên thể hiện ở khả năng xác định phương hướng, tổ chức có hiệu quả việc sử dụng công cụ, phương tiện, lực lượng cho hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, thể hiện tinh thần tích cực chủ động của người học trong việc lựa chọn nội dung, phương tiện và phương pháp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, cũng như kiểm tra, giám sát, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn tương ứng với người chính trị viên trong thực tế. Quá trình nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên là quá trình các lực lượng giáo dục đào tạo của nhà trường, tác động một cách hợp quy luật nhằm không ngừng gia tăng các yếu tố cấu thành năng lực thực tiễn của người học. Từ cách tiếp cận này, có thể quan niệm: nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là quá trình không ngừng gia tăng trình độ, khả năng thực hiện tốt các khâu, bước trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của người học đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên là quá trình nâng cao những yếu tố cấu thành năng lực thực tiễn của họ lên một trình độ mới, toàn diện, hoàn thiện hơn. Những yếu tố cấu thành năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên là năng lực tổ chức, sử dụng lực lượng, phương tiện, đề xuất phương án giải quyết cụ thể và năng lực kiểm tra, đánh giá… tổng kết mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Nâng cao năng lực thực tiễn là quá trình gia tăng kinh nghiệm của người học viên trong quá trình thực tập trên cương vị chính trị viên, họ được trực tiếp tiến hành các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị. Các lực lượng trực tiếp tham gia góp phần nâng cao năng lực thực tập của học viên, là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, tổ chức đoàn, hội đồng quân nhân, đơn vị cơ sở ngoài nhà trường nơi học viên thực tập. 21 Nâng cao năng lực thực tiễn là quá trình nâng cao năng lực tổ chức các lực lượng, phương tiện, công cụ trực tiếp tham gia thực hiện các nhiệm vụ. Điều đó, được thể hiện ở tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo từ khâu chuẩn bị lựa chọn nội dung, lựa chọn phương tiện, phương pháp giáo dục, tới việc tổ chức thực hiện lãnh đạo, quản lý, giáo dục chính trị, tư tưởng tương ứng với người chính trị viên trong thực tế. Nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên còn được thể hiện ở công tác kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của đơn vị, năng lực này giữ vị trí đặc biệt quan trọng, vì lãnh đạo phải có kiểm tra, khi đó mới biết hiệu quả công việc được tiến hành như thế nào. Biết tổng kết, rút kinh nghiệm sau mỗi lần thực hiện nhiệm vụ để bổ sung những thiếu sót và điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Có thể nêu đặc điểm quá trình nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên như sau: Nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên gắn liền với quá trình trang bị tri thức lý luận và kinh nghiệm. Thông qua hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường, người học được trang bị kiến thức cơ sở, kiến thức chuyên ngành, kiến thức khoa học, nghệ thuật quân sự, kỹ chiến thuật chiến đấu bộ binh, công tác đảng, công tác chính trị. Quá trình học tập, người học còn được trang bị kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy, những bài học về tiến hành công tác tư tưởng, công tác tổ chức của thế hệ cha anh trong thực tiễn chiến đấu, trưởng thành của quân đội ta. Những đơn vị kiến thức đó là cơ sở rất quan trọng giúp năng lực thực tiễn của người học phát triển. Nâng cao năng lực thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên chịu sự tác động thường xuyên, trực tiếp của hoạt động chính trị, quân sự tại nhà trường, nhất là thực tập các chức vụ (kiêm nhiệm) và thực tập cuối khoá với
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng