Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình phát triển kinh tế t...

Tài liệu Tiểu luận Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

.DOCX
30
13378
114

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là ‘‘hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác’’ và học thuyết kinh tế của C.Mác là “nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác’’.Để đạt được mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất ra sản phẩm, thu về giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị sức lao động cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó.Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ sản xuất cơ bản nhất đó.Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản.Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư thông qua hai phương pháp cơ bản là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối. Do vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã hội tư bản. Nó quyết định sự phát sinh , phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn, là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế thị trường và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nông sản đã làm cho hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông dân nhiều việc làm. 1 Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ” làm đề tài tiểu luận của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ quá trình vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ lí luận giá trị thặng dư, phân tích quá trình và vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam 2.3. Phạm vi nghiên cứu Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 3. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng – chủ nghĩa duy vật lịch sử -Phương pháp cụ thể: tổng hợp,phân tích , thống kê, so sánh 4. Ý nghĩa đề tài Qua nghiên cứu đề tài giúp chúng ta hiểu được quá trình vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay 5. Kết cấu đề tài Gồm có phần mở đầu,nội dung,kết luận và danh mục tham khảo. Ngoài ra còn 2 chương: Chương 1: lý luận về giá trị thặng dư Chương 2: vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển nề kinh tế ở việt nam hiện nay 2 B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THEO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 1.1. Khái niệm giá trị thặng dư Là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động trên toàn bộ giá tri do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Giá trị thặng dư cũng như tỉ suất giá trị thặng dư phản ánh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mức độ bóc lột công nhân làm thuê của nhà tư bản. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Một mặt, nó thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ngày càng mạnh mẽ; mặt khác, nó làm tăng những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản. Nhà tư bản mua hàng hoá sức lao động đúng giá trị của nó, nhưng sức lao động ấy lại tạo ra cho nhà tư bản một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó; do nhà tư bản đã mua sức lao động, toàn bộ kết quả của quá trình lao động sản xuất thuộc về nhà tư bản, cho nên phần giá trị mới tăng thêm (ngoài phần giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã trả công cho người lao động) bị nhà tư bản chiếm đoạt là giá trị thặng dư. K.Marx có công lao to lớn xây dựng học thuyết về giá trị thặng dư, chứng minh rõ chính lao động của công nhân làm thuê, chứ không phải tư liệu sản xuất, là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư, và nhờ đó mà Mac đã bóc trần bản chất của bóc lột giá trị thặng dư bị che đậy. Trong đời sống kinh tế - xã hội hiện thực của chủ nghĩa tư bản, giá trị thặng dư biểu hiện với nhiều hình thức khác nhau: lợi nhuận, lợi tức, địa tô tư bản chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, do điều kiện cách mạng khoa học - kĩ thuật phát triển rất cao, điều kiện lao động của người công nhân thay đổi với hệ thống máy móc hiện đại (tự động hoá, tin học hoá, người máy...), chủ nghĩa tư bản có những hình thức phát triển, những động lực và phương pháp quản lí hiện đại (tư bản độc quyền nhà nước những công ti siêu quốc gia, đa quốc gia) thì sự bóc lột giá trị thặng dư được diễn ra dưới những hình thức khác nhau, theo những phương pháp khác nhau, tạo ra những năng suất lao động và tỉ suất giá trị thặng dư rất cao, nhưng bản chất của sự bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Vấn đề lý luận mang tính cốt lõi cần ưu tiên làm sáng rõ để việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 3 nghĩa của Việt Nam sớm nhận được sự đồng thuận là vấn đề nhận thức nội hàm khái niệm giá trị thặng dư. Nội hàm khái niệm giá trị thặng dư được tiếp nhận từ lý luận kinh tế của Mác có thể gói gọn trong định nghĩa rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ. Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản xuất căn bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. 1.2. Vai trò của giá trị thặng dư Việc ứng dụng những thành tựu khoa học- kĩ thuật hiện đại đã thúc đẩy lực lượng sản xuất ở nước tư bản chủ nghĩa phát triển tang lên trình dộ cao hơn. Nhờ đó không những các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu cao mà đời sống của những người lao động tại xí nghiệp cũng được cải thiện,khác xa đời sống của những công nhân dưới chủ nghĩa tư bản đầu thế kỉ XVIII. Trước thực tế,cộng với sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan liêu ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người cho rằng học thuyết giá trị thặng dư không còn đúng nữa. Bởi vậy,việc luận giải vai trò của ía trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường là vô cùng cấp bách. Giá trị thặng dư có những vai trò đối với nền kinh tế thị trường như sau: -Thứ nhất: Học thuyết giá trị thặng dư không chỉ là cơ sở đề hiểu rõ bản chất và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản mà còn chỉ chúng ta con đường tạo ra lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư xã hội hay nói cách khác là hàng nghìn công nhân có việc làm -Thứ hai: Mở rộng địa bàn và quy mô sản xuất,tích lũy thêm giá trị thặng dư -Thứ ba: Thúc đẩy sự phát triển khoa học-công nghệ hiện đại để tăng năng suất và giá trị thặng dư -Thứ tư: Làm giàu cho giai cấp tư sản 1.3.Các phương pháp tìm kiếm giá trị thặng dư: Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. 4 a) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối. Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là: m’= ×100(%)=100% Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 gịờ. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là: Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%. Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng 5 quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ. b) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối. Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Do đó, tý suất giá trị thặng dư là: Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%. Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những 6 tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã hội. Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp. • Giá trị thặng dư siêu ngạch Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó. Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên 7 là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao dộng xã hội). Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản. Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa. 8 CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜ NG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Tình hình phát triển kinh tế ở việt nam hiện nay Trong suốt 30 năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ. Từ một nước lạc hậu,thiếu đói thường xuyên,kém phát triển,đến nay chúng ta đã trở thành nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện một cách khái quát,rõ ràng tư tưởng,quan điểm của Đảng về nền kinh kinh tế thị trường ở nước ta. 2.1.1. Nền kinh tế thị trường nhiều thành phần Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá trình Đảng và nhân dân ta nhận thức ,vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,thể hiện tư duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà còn nhận thấy sự cần thiết phải có chính sách đúng đắn nhằm sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự vận động của thực tiễn và sự phát triển của nhận thức, lý luận về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X. Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta gồm năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điểm mới ở đây là đã gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân thành thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời khẳng định đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân. Văn kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực tạo sự yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế phi nhà nước. 9 Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, có những thành phần kinh tế đã thể hiện tốt vai trò của mình. Về kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế này lấy sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao gồm các tài sản, công cụ kinh tế quan trọng thuộc sở hữu nhà nước, v.v.. Văn kiện Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, v.v.. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. kinh tế Nhà nước không ngừng lớn mạnh và đóng vai trò chủ đạo. nó nắm những lĩnh vực then chột trong nền kinh tế, nhữngngành, những lĩnh vực có tác động đến toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội hoặc cóý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, chính trị của đấtnước như ngành điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc, công nghiệp quốc phòng...Nó là một công cụ có sức mạnh vật chất mang tính quyết định để nhà nước điều tiết vàhướng dẫn nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phàan phát triển theo định hướng xã hộichủ nghĩa. Một hình thức doanh nghiệp đang được khuyến khích phát triển đó là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của việc làm này là nhằm thu hút nguồn vốn từ người lao động, hạn chế tiêu cực, nâng cao tinh thần lao động. Đặc biệt Nhà nước có chính sách động viên chính các cán bộ, công nhân của doanh nghiệp mua cổ phần. Trong các doanh nghiệp đó, Nhà nước nắm phần lớn cổ phần hoặc cổ phần khống chế. Việc thực hiện cổ phần hoá đã được tiến hành thí điểm ở thành phố Hồ Chí Minh và đang được nhân rộng. Vấn đề còn vướng mắc là Nhà nước cần hoàn chỉnh quy chế và tiêu chuẩn lựa chọn hội đồng quản lý, giám đốc điều hành và tuyên truyền cho mọi người thấy lợi ích to lớn của việc cổ phần hoá. Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được coi là một thành phần kinh tế của chủ nghĩa xã hội.Thành phần kinh tế này tồn tại và phát triển dựa trên hình thức sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên. Sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phát triển mạnh mẽ và vững chắc thành phần kinh tế này, bởi như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, đó là mô hình dễ tiếp thu nhất của những người nông dân để tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Rút bài học kinh nghiệm sâu sắc từ phong trào tập thể hoá trước đổi mới và thực tế những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển thành phần kinh tế này, chủ trương xây 10 dựng các hợp tác xã kiểu mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của các chủ thể sản xuất. Để nó có thể hoạt động với hiệu quả cao cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của quá trình hợp tác hoá mà V.I. lênin đã đề ra. Đó là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi dưới sự lãnh đạp của Đảng. Trong đó, nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên, cơ bản nhất. Ngoài ra còn có những nguyên tắc khác như: phải sử dụng các hình thức đa dạng, từ lĩnh vực lưu thông, dịch vụ, đến lĩnh vực sản xuất, phát triển từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã, quản lý dân chủ...Tất cả các nguyên tắc trên có liên quan mật thiết với nhau. Chẳng hạn, không thể đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, nếu như gia nhập hợp tác xã mà không mang lại lợi ích cho người lao động, trước hết là lợi ích kinh tế và để các tổ chức kinh tế đó có thể mang lại lợi ích cho người lao động, thì nó phải sản xuất - kinh doanh có hiệu quả. Ở nước ta, quan trọng hợp tác hoá đối với những người sản xuất nhỏ diễn ra từ sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954). "Năm 1958, ở miền Bắc có từ 65 - 67% số hộ nông dân đã vào kinh tế tập thể dưới hình thức tổ đội công. Đến năm 1960 đa số hộ nông dân (85,8%) đã vào hợp tác xã (chủ yếu là bậc thấp)". Tiếp sau đó là chuyển từ hợp tác xã bật thấp lên hợp tác xã bậc cao, các tư liệu sản xuất được tập thể hoá ở mức độ cao và mở rộng quy mô sản xuất. Ở miền Nam sau khi giải phóng, các tổ chức kinh tế hợp tác cũng được thành lập. Trong tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, quá trình hợp tác hoá cũng diễn ra như vậy. Về Kinh tế tư nhân bao gồm cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Nhìn chung, sau hơn 20 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong những năm gần đây, kinh tế kinh doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP (trong đó kinh tế hợp tác đóng góp 6,8%GDP). Như vậy, kinh tế tư nhân đạt 38,9% GDP, tương đương với tỷ trọng GDP của kinh tế nhà nước(5). Trong kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, có vai trò quan trọng trong nhiều ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn, có khả năng huy động vốn và lao động. Đóng góp của kinh tế cá thể, tiểu chủ trong lĩnh vực nông nghiệp khá lớn, tỷ trọng GDP khá cao nhưng lại đang giảm liên tục. Sự giảm sút này không đáng lo ngại, thậm chí là một dấu hiệu tích cực, phản ánh sự di chuyển khá mạnh mẽ của nó vào các bộ phận, các thành phần kinh tế có trình độ 11 cao hơn; thực chất, là sự thu hẹp cách thức sản xuất nhỏ lẻ để tiến lên những hình thức sản xuất tiến bộ hơn. Đây là một xu thế tất yếu, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ buộc những thành viên của kinh tế cá thể, tiểu chủ phải thay đổi, di chuyển vào các bộ phận, các thành phần kinh tế khác để bảo đảm lợi ích, do đó làm tăng sức cạnh tranh và cơ hội để phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất. Đối với kinh tế tư bản tư nhân, đây là bộ phận kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bộ phận kinh tế này đã đóng góp tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất, huy động vốn, tạo việc làm cho người lao động, v.v.. Từ khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ra đời (21/12/1990), các doanh nghiệp tư nhân đã thực sự đi vào hoạt động với đầy đủ tư cách pháp nhân, kinh tế tư bản tư nhân đã có sự phát triển đáng kể, phát huy có hiệu quả khả năng huy động vốn và tạo việc làm mới cho người lao động; đóng góp của nó cũng ngày càng tăng. Tuy nhiên, do mới hình thành, nên tỷ trọng cơ cấu GDP của nó chưa cao. Đối với thành phần kinh tế này, Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để nó phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, v.v.. Về Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước dưới các hình thức hợp tác, liên doanh. Trong quan niệm của V.I.Lênin, kinh tế tư bản nhà nước là hình thức kinh tế quá độ đặc biệt quan trọng và cần thiết để đi lên chủ nghĩa xã hội. Ông coi nó là thứ chủ nghĩa tư bản mà 2/3 là chủ nghĩa xã hội, là cái “không đáng sợ”, thậm chí còn là “phòng chờ” để đi vào chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, sự vận động hiện thực của thành phần kinh tế này ở nước ta đang là một vấn đề cần phải bàn. Các cơ chế, chính sách, điều kiện ở Việt Nam hiện nay chưa tạo ra sự thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển. Những năm đầu tiên khi chúng ta mới thực hiện đường lối mở cửa, có lẽ các doanh nghiệp nước ngoài hy vọng vào việc khai thác những tiềm năng của một thị trường còn rất mới mẻ, nên họ đã đầu tư rất lớn vào Việt Nam, liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nước ngoài diễn ra mạnh mẽ, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ở mức cao. 12 Tuy nhiên, chỉ sau đó một thời gian, số vốn này giảm mạnh. Chính vì nguồn vốn đầu tư giảm nên tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế này cũng liên tục giảm. Đầu tư nước ngoài là bộ phận phát triển nhất của kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta, nếu đầu tư nước ngoài giảm sút thì tất yếu sẽ làm cho thành phần kinh tế này kém phát triển, thậm chí là không phát triển. Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong thời gian tới, kinh tế tư bản nhà nước có khả năng phát triển mạnh mẽ, bởi hiện nay, chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Đảng và Nhà nước ta đang tìm mọi biện pháp tích cực và hiệu quả để cải thiện môi trường đầu tư. Hơn nữa, hiện nay, một số thành phần kinh tế khác đang phát triển rất mạnh mẽ, nên trong tương lai không xa, nhu cầu liên doanh, liên kết sẽ tăng cao, từ đó sẽ làm cho kinh tế tư bản nhà nước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển sang nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Về Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế mới nảy sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm 1987, khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành thì kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới thực sự có bước phát triển nhanh chóng. Hiện nay, đã có hàng ngàn công ty nước ngoài có dự án đầu tư ở Việt Nam. Tính từ năm 1988 đến năm 2003, nước ta đã thu hút được trên 40 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và đã thực hiện được hơn 20 tỷ USD. Năm 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 15,9% GDP, năm 2007 khoảng 17%. Từ khi chúng ta gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam tăng đột biến, năm 2007 là hơn 20 tỷ USD (tăng khoảng 70% so với năm 2006), sáu tháng đầu năm năm 2008 là 31,6 tỷ USD. Như vậy, cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm và phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã bước đầu tìm ra những biện pháp, bước đi mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường phát triển thuận lợi, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước phải thực sự đóng vai trò chủ đạo; mặt khác, chúng ta phải tăng cường vai trò của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý kinh tế. 13 2.1.2. Kinh tế thị trường phát triển chưa đồng đều Thời gian qua, hệ thống các loại thị trường ở nước ta đã được hình thành. Tuy nhiên, đối chiếu với một nền kinh tế thị trường vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, hiện đại và hội nhập quốc tế và tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế nước ta thì nhìn một cách tổng quát, đến nay vẫn còn tình trạng chưa ăn khớp, chưa đồng bộ, vận hành chưa thông suốt ở một số thị trường và phân đoạn thị trường ở Việt Nam.  Quy mô, cơ cấu, tốc độ phát triển của một số thị trường và phân đoạn thị trường còn mất cân đối, khập khiễng, chưa tương hợp được nói đến như sau: -Thị trường hàng hóa, dịch vụ có quy mô tương đối lớn, tốc độ phát triển nhanh nhưng chưa bền vững, tăng trưởng không đều, có những năm suy giảm(1). Cơ cấu thị trường hàng hóa, dịch vụ chưa hợp lý, tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị và đô thị lớn; thị trường ở khu vực nông thôn quy mô nhỏ, hàng hóa ít. Thị trường hàng hóa, dịch vụ có sự chia cắt, thiếu liên thông, không đồng đều giữa các vùng, miền. Trong cơ cấu thị trường hàng hóa, dịch vụ, khu vực thương nghiệp, chủ yếu là bán lẻ hàng hóa, chiếm tỷ trọng cao nhất (76,8%); còn khu vực dịch vụ (khách sạn, nhà hàng, du lịch, dịch vụ) chiếm tỷ trọng nhỏ (23,2%). -Thị trường lao động phát triển không đồng đều, mất cân đối. Quy mô thị trường lao động nhỏ, tính ổn định của thị trường không cao. Quy mô của thị trường lao động chính thức thấp, chỉ đạt khoảng 30%, chủ yếu là thị trường lao động phi chính thức và không chính quy. Trong cơ cấu thị trường lao động, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn còn chiếm tỷ lệ cao hơn so với khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. -Thị trường bất động sản, thị trường quyền sử dụng đất phát triển chưa bền vững, một số phân đoạn thị trường còn phát triển méo mó, các nguyên tắc thị trường chưa được vận dụng hiệu quả, Nhà nước vẫn là chủ thể can thiệp chính trên thị trường. Một số thị trường bất động sản ở các đô thị lớn, như thị trường nhà ở, nhà chung cư tăng trưởng nóng. Thị trường đất đai nông nghiệp tồn tại nhiều bất cập, như quy mô đất nông nghiệp của các hộ nông nghiệp ít thay đổi, nhỏ lẻ, manh mún, gây rất nhiều khó khăn cho việc tích tụ và tập trung ruộng đất. -Thị trường vốn quy mô nhỏ, thanh khoản yếu, thiếu hấp dẫn, chưa đủ khả năng thu hút mạnh các dòng vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các dòng vốn lớn. Có sự mất 14 cân đối giữa thị trường vốn ngắn hạn và dài hạn. Cơ cấu tín dụng mất cân đối về kỳ hạn, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ lệ cao. -Thị trường khoa học - công nghệ quy mô còn nhỏ, kết nối cung - cầu còn nhiều hạn chế. Các nghiên cứu khoa học và công nghệ có tính ứng dụng thấp, ít gắn kết với thực tiễn, chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Năng lực nghiên cứu của các viện, trung tâm nghiên cứu thấp. Các doanh nghiệp ít có nhu cầu mua bán, chuyển giao công nghệ ở trong nước.  Trình độ phát triển và hiệu quả hoạt động của các loại thị trường không đồng đều. Nhìn tổng thể, trình độ phát triển một số loại thị trường trong nền kinh tế nước ta còn thấp, điều này được thể hiện rõ ở chỉ số tự do kinh tế của nước ta chỉ ở mức 5152/100 điểm, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Ma-laixi-a, Xin-ga-po. Trình độ phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ ở khu vực nông thôn còn thấp. Các kênh phân phối hiện đại, các tổ chức kiểm định chất lượng hàng hóa, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng... trên thị trường hàng hóa, dịch vụ chưa phát triển. Hệ thống thương mại và các kênh phân phối trong nước có nhiều cấp trung gian, hiệu quả hoạt động thấp. Hiệu quả hoạt động của thị trường hàng hóa và dịch vụ chỉ đạt 4,2/7 điểm, xếp thứ 81/133 theo như xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2016. Quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động bị mất cân đối. Tồn tại nhiều nghịch lý trên thị trường lao động, như thừa lao động trình độ thấp nhưng lại thiếu lao động trình độ cao hay tỷ lệ sinh viên mới tốt nghiệp đại học ra trường chưa tìm được việc làm phù hợp với trình độ đào tạo cao, hoặc phải đi làm công nhân trong các khu công nghiệp. Tranh chấp lao động, đình công, bãi công diễn ra phức tạp. Thị trường bất động sản vẫn có phân đoạn phát triển tự phát, tình trạng đầu cơ làm méo mó quan hệ thị trường vẫn tồn tại. Tình trạng giao dịch “ngầm” vượt ngoài các quy định pháp luật, gây nhiều lãng phí và tổn thất cho ngân sách nhà nước vẫn tồn tại trên thị trường bất động sản. Cơ chế giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đặc biệt là hệ thống quản trị rủi ro đối với hệ thống ngân hàng còn chưa theo kịp diễn biến thị trường và còn nhiều bất cập. Thị trường cổ phiếu còn thiếu minh bạch và mang tính đầu cơ hơn là đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. 15 Năng lực khoa học và công nghệ của nước ta vẫn còn thấp, chưa gắn kết được giữa khoa học và công nghệ với thực tiễn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ thấp, thiếu nhiều tổ chức trung gian, tư vấn về khoa học và công nghệ. Việc chuyển đổi các tổ chức khoa học - công nghệ công lập thành các tổ chức tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn chậm và gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. 2.1.3. Kinh tế thị trường phát triển chưa vững chắc Việc chạy đua chỉ số GDP của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam bất yếu tố con người và môi trường đã khiến thế hệ mai sau của đất nước này mất dần cơ hội phát triển trong tương lai khi mà tiềm năng của đất nước không vững chắc,ô nhiễm môi trường, tài chính suy giảm, gặp các vấn đề về an ninh lương thực và năng lực dẫn đến phát triển không bền vững .Bản chất của mô hình phát triển không bền vững là phát triển không quan tâm đến môi trường, kích thích tiêu thụ quá mức và khai thác nguồn tài nguyên quá mức. Biểu hiện kinh tế: Tăng trưởng nhanh và theo chiều rộng, tiềm lực kinh tế còn yếu, chưa đạt mức tiềm năng,tốc độ tăng trưởng có nguy cơ suy giảm trong tương lai. stt 1 2 3 4 5 6 7 Nội dung 2010 2011 2012 Tăng trưởng GDP thực tế 6.4 5.89 5.3 Chỉ số tiêu dùng (CPI) 11.8 18.1 6.8 Tổng vốn ĐTPT so với GDP 38.5 33.3 31.1 Tốc độ tăng xuất khẩu 26.5 34.2 18.2 Nhập siêu so kim ngạch xuất khẩu -17.4 -10.2 0.7 Tỉ lệ hộ nghèo 14.2 12.6 11.1 Tỉ lệ thất nghiệp thành thị 4.3 3.6 3.2 Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác thì chưa thuộc 2013 5.4 6.0 30.4 15.4 0.7 9.9 3.6 loại cao 2014 5.8 7.0 30.0 10.0 -0.6 2 4 và chưa tới giới hạn nguy hiểm, song số nợ đó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy cơ đe dọa tính bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn vay chưa được sử dụng có hiệu quả. 16 Đầu tư của nhà nước còn lãng phí, thất thoát Năm Tốc độ tăng trưởng GDP 2008 6,23% 2011 5,89% 2012 5,3% Từ năm 2007,nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát rất cao, từ 2007-2012 khủng hoảng tài chính. Đặc trưng của giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng kinh tế chùng lại.Năm 2018,tăng trưởng GDP thấp nhất,lạm phát tăng tốc đều ở 10-20%. Năm 2011,một số gói kích cầu được tung ra với số tiền rất lớn nhưng mang lại hiệu quả ngược lại như:bong bóng chứng khoán,lạm phát tăng cao,thâm hụt ngân sách,gây bất ổn tỉ giá,bất ổn kinh tế vĩ mô… Giai đoạn này một số tập đoàn lớn như vinasin, vinalines lâm vào khủng hoảng gây lãng phí lớn. Năm 2012,nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khó khan trong đó nổi bật là nợ xấu ngân hang và hàng tồn kho tăng cao. Một lượng lớn doanh nghiệp rơi vào khó khăn hoặc phá sản 2.2. Vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời phát triển nguồn nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực. 17 Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba thập kỷ. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Các nước phát triển lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật, đẩy nhanh đào tạo nhân tài, tranh giành người tài với các nước khác. Các nước đang phát triển tăng cường đầu tư kinh phí cho khoa học công nghệ giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời ngăn ngừa chảy máu chất xám bằng những chính sách ưu đãi thích hợp. Chính phủ Ấn Độ đầu tư 1,1% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, 87% tổng đầu tư khoa học công nghệ cho đào tạo [Định hướng phát triển đội ngũ tri thức Việt Nam – tr.57]. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản là nước bại trận bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng quốc gia này vẫn khẳng định sự lựa chọn truyền thống trong giáo dục. Hệ thống giáo dục Nhật Bản được ưu tiên trên nhiều khía cạnh, được sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình và xã hội. Hàn Quốc bị ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa Nho học Trung Hoa nên rất chú trọng phát triển giáo dục. Nhờ đó đầu tư trong giáo dục của Hàn Quốc không ngừng tăng lên trong 50 năm qua. Đối với Trung Quốc, họ có chính sách mạnh dạn tìm người tài. Trước mắt Trung Quốc đang thực hiện việc phát hành “thẻ xanh”, một loại thẻ dành cho những kỹ thuật viên, các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp với đặc quyền vào Trung Quốc không cần visa. Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế. 18 Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những yêu cầu: Thứ nhất, bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế; tăng nhanh hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực;… Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động lớn (khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động)(*), một mặt, tạo cơ hội cho nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, mặt khác, tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm và đào tạo nghề nghiệp. Thứ ba, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả về số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế, do quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của những ngành, nghề mới,… Thứ tư, sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng hơn giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng để phát triển đất nước. Từ bối cảnh quốc tế, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những yêu cầu: Thứ nhất, Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào quá trình vận hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh hưởng ngày càng lớn. Thứ hai, nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính (do tác động và hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới); có khả năng đề ra các giải pháp gia tăng cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của các thế hệ công nghệ, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực. 19 Thứ ba, nhân lực nước ta phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở nước ngoài do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực. 2.2.2. Khuyến khích và sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả Vốn đầu tư là yếu tố trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là một trong những yếu tố liên quan đến chất lượng tăng trưởng, đến lạm phát, đến ổn định kinh tế vĩ mô Thị trường vốn Việt Nam đang hội nhập sâu rộng trong khu vực khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) hình thành. Thực tiễn những năm qua cho thấy, đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước vào các chương trình, dự án có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước. Tính đến hết năm 2016, cả nước có 22.509 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt gần 293,25 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI đạt hơn 154,54 tỷ USD (bằng gần 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực). Khu vực FDI đã đầu tư vào 19 trong tổng số 21 ngành, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (58,8% tổng vốn đăng ký), kinh doanh bất động sản đứng thứ hai (17,7% tổng vốn đăng ký). Có 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 5.747 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50,7 tỷ USD (chiếm 17,3% tổng vốn đầu tư); đứng thứ 2 là Nhật Bản với 3.280 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 42 tỷ USD (chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư). Đến nay, FDI đã có mặt tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế. Xếp theo quy mô vốn, thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với 6.737 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký hơn 44,82 tỷ USD, chiếm 15,3% tổng vốn đăng ký cả nước; thứ hai là Bà Rịa - Vũng Tàu với 342 dự án, vốn đăng ký 26,86 tỷ USD, chiếm 9,2%; thứ ba là Bình Dương với 3.035 dự án, vốn đăng ký 26,96 tỷ USD, chiếm 9,1%(7). Đầu tư sử dụng nguồn vốn tác động sâu sắc đến rất nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, do vậy, cần có cách tiếp cận toàn diện và bao quát để xem xét, đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng