Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam hiện nay

.PDF
174
26
69

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HOA QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Ngành: CNDVBC & DVLS Mã số: 9229002 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Vũ Văn Viên 2. TS. Vũ Mạnh Toàn Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các trích dẫn và số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Tên tác giả Nguyễn Thị Hoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của luận án ............................................................................. 1 2. Mục đích của luận án .................................................................................... 3 3. Nhiệm vụ của luận án .................................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ............................................. 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ................................ 4 6. Đóng góp mới và ý nghĩa khoa học của luận án ........................................... 5 7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 5 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 6 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam.............................................. 6 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay ..................................19 1.3. Những công trình nghiên cứu về các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết hơn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................... 27 1.4. Những vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết ............................................. 30 Kết luận chương 1 .......................................................................................... 32 Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM............. 34 2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị - cơ sở lý luận cho việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị................................... 34 2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ............................................................................. 54 Kết luận chương 2 .......................................................................................... 81 Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẪN TRONG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................................... 83 3.1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay ............................................................ 83 3.2. Một số mâu thuẫn cơ bản liên quan tới đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 96 Chương 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................... 115 4.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .............................................................. 115 4.2. Giữ vững ổn định chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.......................................................... 125 4.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn đẩy mạnh đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, giải quyết một cách có hiệu quả quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay ............................................................... 142 Kết luận chương 4 ........................................................................................ 152 KẾT LUẬN .................................................................................................. 154 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 157 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận án Kinh tế và chính trị là hai loại hình hoạt động cơ bản nhất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội được tổ chức thành nhà nước. Kinh tế tồn tại và phát triển trong một chế độ chính trị nhất định, làm cơ sở vật chất cho chế độ chính trị đó; còn chính trị bao giờ cũng được thiết lập trên nền tảng của một chế độ kinh tế nhất định. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị quy định mọi mối quan hệ khác của xã hội. Giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay có sự tương đồng về bản chất ở thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi của Đảng ta từ khi bắt đầu đổi mới đến nay; được xác định là một trong chín mối quan hệ cơ bản (“Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” [33, tr.80]) cần tiếp tục quán triệt và xử lý tốt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mối quan hệ này biểu hiện tập trung ở việc xây dựng, hoàn thiện mô hình và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng một thể chế chính trị tương ứng đủ sức định hướng cho sự phát triển của kinh tế. Đại hội VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những quan hệ cơ bản mà thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra” [27, tr.75] và đòi hỏi phải được làm rõ về mặt lý luận nhằm tiếp tục đưa thực tiễn đổi mới đi vào chiều sâu. Sau hơn 1 30 năm đổi mới, tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng của quá trình đổi mới toàn diện đất nước nói chung, của quá trình giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng, song giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vẫn còn nhiều bất cập, cần phải được nhận thức và giải quyết một cách khoa học hơn trong bối cảnh hiện nay. Về mặt nhận thức: xung quanh việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị hiện vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau. Một số người đã tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị, xem nhẹ vai trò của chính trị, họ xem kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng có thể chữa được bách bệnh và giải quyết được mọi vấn đề mà công cuộc đổi mới đặt ra. Ngược lại, một số khác lại tuyệt đối hóa sức mạnh của các quyết định chính trị, xem nhẹ vai trò của kinh tế. Một số người vẫn cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không thể dung hợp, theo họ, hoặc chấp nhận kinh tế thị trường thì kinh tế phát triển, nhưng thể chế chính trị tương ứng sẽ là chủ ghĩa tư bản. Một số khác lại cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế sẽ dẫn tới sự đa dạng hóa cơ cấu xã hội, đa dạng hóa cơ cấu lợi ích, trong đó không chỉ có sự thống nhất, mà còn có sự khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau, do vậy, người ta cho rằng thích ứng với nền kinh tế “đa nguyên” phải là nền chính trị “đa nguyên”, không thể duy trì mãi chế độ lãnh đạo của một Đảng duy nhất. Về mặt thực tiễn: có một thực tế dễ dàng nhận ra ở nước ta hiện nay: thứ nhất, kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. “Chất lượng, hiệu quả và nâng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường” [33, tr.67]. Thứ hai, đổi mới chính trị lại chậm hơn so với yêu cầu của đổi mới kinh tế. Theo kết luận của Văn kiện Đại hội XII thì “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa 2 ngang tầm nhiệm vụ” [33, tr.68]. Thứ ba, không chỉ chậm hơn so với kinh tế, đổi mới trong lĩnh vực chính trị cũng bộc lộ những hạn chế mà nếu không kịp thời khắc phục sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đó là “tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy hành chính nhà nước, có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng và hiệu quả hoạt động thấp. Chức năng và nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo” [29, tr.79]. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo, thực tiễn đang đòi hỏi phải đổi mới chính trị với tốc độ nhanh hơn, toàn diện hơn, đồng bộ hơn, hài hòa hơn, "cởi trói" để giải phóng các tiềm năng xã hội làm cho kinh tế phát triển mạnh hơn, đời sống xã hội vận động nhanh hơn. Thử thách lớn nhất với Đảng cầm quyền trong xây dựng đất nước là nhận thức, vận dụng quan hệ giữa kinh tế và chính trị phù hợp với những đặc điểm dân tộc và bối cảnh quốc tế. Xử lý mối quan hệ này như thế nào là thước đo tầm vóc của Đảng cầm quyền về đối nội cũng như đối ngoại. Vì vậy, việc nghiên cứu để tiếp tục làm rõ hơn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay nhằm tìm ra giải pháp đúng đắn, phù hợp thúc đẩy sự đổi mới trên hai lĩnh vực này vẫn là vấn đề cấp bách, là đòi hỏi của chính công cuộc đổi mới nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xuất phát từ những yêu cầu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích của luận án Dựa trên việc luận chứng một cách khoa học quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, thực trạng giải quyết mối quan hệ này sau hơn 30 năm đổi mới, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời gian tới ở Việt Nam. 3 3. Nhiệm vụ của luận án Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về quan hệ giữa kinh tế và chính trị; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phát triển kinh tế và giữ vững ổn định chính trị ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận án hướng trọng tâm vào nghiên cứu quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; trong đó chủ yếu sử dụng một số phương pháp cơ bản như: phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa, phương pháp thống kê....trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận án. Ngoài ra, luận án còn 4 kế thừa một cách chọn lọc các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước về vấn đề này. 6. Đóng góp mới và ý nghĩa khoa học của luận án Đóng góp mới: - Luận án góp phần làm rõ hơn những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay. - Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam trong thời gian tới. Ý nghĩa khoa học: Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn đổi mới kinh tế cũng như đổi mới chính trị ở nước ta; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên cứu và giảng dạy, cho sinh viên và những ai quan tâm đến vấn đề đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương với 11 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói chung, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam nói riêng là một trong những vấn đề lớn (được xem là một trong chín mối quan hệ lớn cần được quán triệt và xử lý tốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội), phức tạp, nhạy cảm nhưng vô cùng quan trọng. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố. 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị được chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập chủ yếu trong các tác phẩm: “Phê phán cương lĩnh Gôta”; “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”; “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”; “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”; “Bàn về thuế lương thực”; “Bàn về chế độ hợp tác xã”…Thông qua các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trên lĩnh vực kinh tế và chính trị đã phản ánh quan điểm và học thuyết về các quy luật chi phối sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trong xã hội loài người qua các hình thái kinh tế - xã hội. Thứ nhất, theo C.Mác, chính sự phát triển thị trường, hàng hóa công nghiệp hóa và lập ra những đô thị đồ sộ, giai cấp tư sản đã nhanh chóng xóa bỏ được tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất và dân cư và tập trung hóa nhanh chóng về mọi mặt. Xã hội tương lai thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Xã hội đó “tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” [80, tr.33]. Xã hội mới ra đời chưa có thể có đầy đủ ngay lập tức những đặc trưng mới về chính trị, xã hội, mà phải trải qua một quá trình xây dựng từng bước, từ thấp đến cao, từ 6 chưa hoàn bị đến hoàn bị, tùy theo điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất và bản thân người lao động. Khắc phục những thiếu sót trong giai đoạn đầu của xã hội mới bằng vai trò của nhà nước và của bản thân giai cấp tư sản, nhà nước mới, một mặt ra sức bảo vệ chế độ mới về tư liệu sản xuất, mặt khác bảo vệ sự bình đẳng trong lao động và phân phối sản phẩm. Thứ hai, V.I.Lênin cho rằng, trong cuộc cách mạng tư sản, “nhiệm vụ chủ yếu của quần chúng lao động là làm một công việc tiêu cực hoặc có tính chất phá hoại” [62, tr.207]. Ngược lại, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà công nhân và nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo là “một công tác tích cực nhằm thiết lập một mạng lưới các quan hệ tổ chức, một mạng lưới cực kỳ phức tạp và tinh tế, bao trùm sự sản xuất và phân phối một cách có kế hoạch các sản phẩm cần thiết cho đời sống của hàng triệu con người. Một cuộc cách mạng như thế chỉ có thể được hoàn thành thắng lợi, nếu đa số nhân dân và trước hết là đa số những người lao động, chủ động tiến hành một hoạt động sáng tạo có ý nghĩa lịch sử” [62, tr.207]. Sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, thì trọng tâm của đấu tranh cách mạng phải chuyển sang lĩnh vực kinh tế. Theo V.I.Lênin, giai cấp công nhân đã thiết lập được một kiểu nhà nước mới, kiểu Xôviết, nó tạo khả năng cho quần chúng lao động và bị áp bức có thể tham gia hết sức tích cực và chủ động vào công cuộc xây dựng xã hội mới. Thứ ba, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, thì kinh tế là tính thứ nhất, có ý nghĩa quyết định. Nói đến chủ nghĩa cộng sản là nói đến một hình thái kinh tế xã hội cao nhất, tiến bộ nhất. C.Mác và V.I.Lênin đã từng khẳng định, chủ nghĩa tư bản sở dĩ đánh bại chế độ phong kiến, vì nó là một phương thức, một hình thái kinh tế xã hội cao hơn, tiến bộ hơn phương thức sản xuất phong kiến, vì nó “đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô…chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại, và sẽ bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều” [63, tr.25]. Và chủ nghĩa xã hội sẽ đánh bại hoàn toàn và triệt để chỉ khi nào 7 tạo ra một năng suất lao động cao hơn, nhiều hơn so với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Qua đó khẳng định tính tất yếu phải tồn tại nền quá độ trong thời đại chuyên chính vô sản là sự cùng tồn tại lâu dài, đan xen và đấu tranh trong suốt thời đại chuyên chính vô sản giữa các thành phần kinh tế, mà nó phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, trong các tác phẩm của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã làm rõ quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế giữ vai trò quyết định; chính trị tác động trở lại bằng cách lãnh đạo, định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế. Kinh tế là cơ sở của đời sống xã hội; sản xuất vật chất là cơ sở của nhà nước, pháp quyền và ý thức xã hội; sở hữu tư nhân là cơ sở của xã hội đối kháng giai cấp; sở hữu xã hội là cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ biện chứng, chi phối các quan hệ khác trong đời sống xã hội. Sự quyết định suy đến cùng của kinh tế đối với chính trị thể hiện vai trò của cơ sở kinh tế, nguyên nhân, điều kiện và các quan hệ giữa kinh tế đối với các hiện tượng chính trị. Vai trò tích cực của chính trị đối với kinh tế thể hiện tập trung nhất vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng; vai trò của đảng chính trị đối với xã hội. Ở nước ta, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có vị trí rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đảng ta luôn đặt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản trong quá trình phát triển đất nước, ổn định chính trị để phát triển kinh tế, phát triển kinh tế để giữ vững ổn định chính trị đã trở thành nguyên tắc trong quá trình Đảng lãnh đạo tiến trình cách mạng nước ta. Vì vậy, Đảng ta đã khởi đầu công cuộc đổi mới, bằng đổi mới toàn diện và sớm chú trọng giải quyết đúng 8 đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới - từ năm 1986 đến nay: - Trên thực tế, từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng chính là những khuyết điểm trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” [21, tr.26]. Nếu không có những yếu tố tác động về chính trị, công cuộc đổi mới sẽ chỉ dừng lại ở đổi mới kinh tế - xã hội, sẽ không có quá trình kết hợp chặt chẽ và ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình tiếp theo - Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Như vậy, việc sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” đã phản ánh và đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng…Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế” [22, tr.49]. - Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), “quan hệ giữa đổi mới kinh tế và 9 đổi mới chính trị” là một trong những mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong những năm tới, cần “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương…” [32, tr.99 100]. Với quan điểm “Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [32, tr.99]. Như vậy, khi đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện và ngày càng nâng cao, ổn định chính trị được giữ vững, nghĩa là sức ép về phát triển kinh tế không còn gay gắt như trước, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ cả kinh tế, chính trị và văn hóa, bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững. Trên cơ sở đó, trong mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới, Đảng ta xác định: “Kế thừa và phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các phương hướng, nhiệm vụ đúng đắn đã được đề ra trong các Nghị quyết của Đảng, đồng thời đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, có bước đi phù hợp trên tất cả các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững” [33, tr.75-76]. Tóm lại, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã sớm ý thức được kết hợp ngay từ đầu và trong từng bước đi việc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới chính trị phải xuất phát từ đòi hỏi của đổi mới kinh tế, đổi mới kinh tế phải trên cơ sở của đổi mới chính trị. 10 Từ đó đến nay, đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà chính trị quan tâm nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo tác giả công trình Quy luật xã hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cho rằng “Toàn bộ sự phát triển xã hội bắt nguồn và dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ kinh tế trở thành trở lực của phát triển lực lượng sản xuất thì nảy sinh cách mạng xã hội. Về thực chất, cách mạng xã hội là quá trình giải phóng lực lượng sản xuất khỏi những quan hệ kinh tế cản trở nó. Và khi đã nắm được quyền lực nhà nước thì điều cơ bản sống còn của một chế độ chính trị là đưa lại một năng suất cao hơn chế độ chính trị cũ” [137, tr.22 - 23]. Sau khi phân tích kinh tế chính trị không phải là kinh tế đơn thuần, hay chính trị đơn thuần, kinh tế chính trị là kết hợp nhiều ngành, là tổng hợp của kinh tế và chính trị, là xem xét kinh tế trong tiến trình phát triển của chính trị, trong bài viết Một số vấn đề kinh tế và chính trị hiện nay, tác giả Nguyễn Chí Trung nhận định: “Trên thực tế, Goobachop đã làm cho Đảng Cộng sản biến chất trước khi xóa bỏ hoàn toàn chế độ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên Xô, làm cho mô hình kinh tế Xôviết biến chất trước khi làm cho mô hình ấy vấp phải thất bại hoàn toàn, làm cho quân đội và công an biến chất dẫn tới không dám hành động bảo vệ cách mạng. Một mô hình kinh tế sai lầm nhưng chính trị vững chắc thì có thể sửa chữa được nhưng chính trị biến chất thì làm cho kinh tế biến chất theo. Kinh tế biến chất lại thúc đẩy chính trị chao đảo. Chính trị chao đảo dẫn đến sự sụp đổ chế độ” [151, tr.249 - 250]. Cùng quan điểm trên, tác giả Phạm Ngọc Quang trong bài viết Bài học kinh nghiệm về việc xử lý mối quan hệ giữa cải tổ chính trị và cải cách kinh tế trước đây khẳng định: “Không có một đường lối chính trị đúng đắn thì sẽ đưa toàn bộ quá trình xây dựng kinh tế chệch khỏi định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội để giải phóng triệt để con người. Bởi vì, có đường lối chính trị đúng đắn cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng vật chất và tinh thần của nhân dân trong nước, để thực hiện thắng lợi đường lối chính trị đã được xác định; việc 11 đổi mới hệ thống chính trị phải dựa trên thành quả đổi mới kinh tế và nhằm đáp ứng đổi mới kinh tế; đổi mới chính trị nhằm tăng cường tính ổn định của thể chế chính trị như là một tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Ngược lại, sự tăng trưởng kinh tế được chỉ đạo bởi một định hướng chính trị vững vàng lại trở thành cơ sở để củng cố thiết chế chính trị [108, tr.38]. Theo tác giả Lê Thanh Hà trong bài Quan điểm của C.Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, thì “Giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ xã hội cơ bản, quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư tưởng…Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Cuộc đấu tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế” [40, tr.72]. Trong chương IV của cuốn Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy Quý cho rằng: “Việc Đảng và Nhà nước ta xây dựng và thực hiện mô hình kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hơn nhiều loại hình sở hữu với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, việc Nhà nước nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu, chi phối toàn bộ nền kinh tế - xã hội là những biểu hiện của việc vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [113, tr.259]. Cùng nhận định trên, các tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Đình Hoà cho rằng, trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tiến trình đổi mới căn bản mô hình phát triển kinh tế trong suốt quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đó là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới thì việc quan trọng vẫn là tiếp tục đổi mới tư duy. Phải đổi mới tư duy một cách 12 toàn diện và động bộ các mặt của đời sống xã hội đất nước” [37, tr.318]. Nói cách khác, cùng với đổi mới tư duy kinh tế, phải đổi mới tư duy toàn diện các mặt khác như chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học…trước hết là đổi mới tư duy chính trị theo kịp đổi mới kinh tế và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đổi mới tư duy lý luận, phải đổi mới tư duy thực tiễn. Chúng ta phải đổi mới hệ thống chính trị một cách phù hợp với cơ sở kinh tế và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng quan điểm trên, tác giả Vũ Trọng Dung trong công trình Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta đã khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là “Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là đặc trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần” [18, tr.18]. Ngoài ra, các tác giả như Vũ Văn Phúc, Vũ Hữu Ngoạn…cũng đề cập đến mối quan hệ giữa kinh tế là chính trị khi cho rằng trình độ xây dựng, quản lý nhà nước, trình độ xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ảnh hưởng trực tiếp đến những diễn biến kinh tế, đến những động lực phát triển kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế lại làm cơ sở vững chắc cho nền chính trị mới [xem: 103]. Như vậy, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà nghiên cứu đã phân tích quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, và khẳng định rằng mọi sự phát triển xã hội đều bắt nguồn từ kinh tế và đều dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh tế, nhưng chính trị là yếu tố quan trọng nhất để phát triển kinh tế. “Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải tìm mọi cách để đổi mới chính trị, làm cho nó phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế vừa định hướng cho sự phát triển kinh tế. Mục tiêu cơ bản của đổi mới kinh tế là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo tiền đề cho công nghiệp hóa. Đây là vấn đề đặt ra cho luận án cần phải giải quyết” [94, tr.12]. 13 Ở Việt Nam, về mặt ngữ nghĩa, “Đổi mới được hiểu là sự biến đổi cho khác với trước, tiến bộ hơn trước, được Đảng xác định là nhằm kế thừa và phát huy những thành quả và giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, thay đổi, uốn nắn những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa được xác định đúng hoặc hiện nay không phù hợp với tình hình mới, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những giải pháp đúng phù hợp với cuộc sống để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một giai đoạn mới [22, tr.12]. Vấn đề đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong bài viết 20 năm đổi mới và sự hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tác giả Nguyễn Cúc nhận thấy sau 20 năm đổi mới đó là “Sự đổi mới từ nền tảng kinh tế và đường lối chính trị đúng đắn. Nhờ ổn định chính trị mà đổi mới kinh tế thuận dòng, ngược lại thành công về kinh tế là nền tảng bảo đảm ổn định đổi mới hệ thống chính trị, quyết tâm đổi mới nhưng có bước đi thích hợp và điều quan trọng hơn là càng đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội càng rõ hơn” [16, tr.13]. Cùng quan điểm trên, nhóm tác giả Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Viên, Nguyễn Viết Thông cho rằng, nhìn lại thực tiễn 30 năm đổi mới, có thể nhận rõ những bước tiến về lý luận đổi mới kinh tế của Đảng là điểm cốt yếu, quan trọng nhất là xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Đó là nền kinh tế thị trường được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, hướng vào lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của cộng đồng xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nhà nước - doanh nhân, chủ doanh nghiệp (doanh nhân) và người lao động. Định hướng xã hội chủ nghĩa là bảo đảm chính trị cho phát triển kinh tế thị trường, trong đó có vai trò của thể chế, kế hoạch điều tiết vĩ mô của Nhà nước pháp quyền, của dân chủ, bình đẳng trong sản xuất kinh doanh và trước pháp luật cho mọi thành phần kinh tế” [59, tr.53]. 14 Trong quá trình đổi mới đã làm xuất hiện nhiều nhân tố mới có vai trò đầu tàu trong nhiều lĩnh vực của xã hội. Trong bài Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tác giả Vũ Hồng Tiến đã tập trung làm rõ những quan điểm mới về lý luận và thực tiễn của một số vấn đề đang được quan tâm giải quyết ở nước ta. Đó là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế; thực hiện sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển dân số, môi trường, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Theo tác giả, “dưới tác động của công cuộc đổi mới, với chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự mở ra một hướng đi mới [xem: 122]. Thống nhất quan điểm trên, tác giả Hoàng Xuân Nghĩa cho rằng, “Đối với Việt Nam, chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế với dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội, đương nhiên có khác so với các nước. Chính đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội và truyền thống dân tộc luôn đề cao giá trị “đoàn kết và tương thân tương ái”, với ý nguyện của Đảng và lòng dân cùng hướng về một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, tự do và hạnh phúc” sẽ có ảnh hưởng quyết định đến cách xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội” [88, tr.177]. Theo tác giả Nguyễn Kế Tuấn “Sự đổi mới tư duy nhận thức về sở hữu gắn liền với nhận thức đúng đắn hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa và về nền kinh tế thị trường. Tính chất xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay không phải thể hiện ở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu cao hay thấp, mà chủ yếu thể hiện ở yêu cầu thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, huy 15 động các nguồn lực vào phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng và phát triển” [126, tr.166]. Bên cạnh đó, còn có một số nhà khoa học đề cập đến vấn đề đổi mới kinh tế, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Lê Quốc Lý “Đổi mới tư duy lý luận về kinh tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới” [xem: 69]; Nguyễn Minh Thuyết “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở nước ta” [xem: 143]; Vũ Văn Viên “Vấn đề dân chủ trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay” [xem: 157]; Nguyễn Thế Sang “Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” [xem: 119]. Các bài viết này đã đề cập đến bước phát triển đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đó là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; phát huy dân chủ trong kinh tế để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích mọi người vượt lên làm giàu hợp pháp, chính đáng, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo. Tóm lại, tất cả các nghiên cứu trên có điểm chung giống nhau đều lấy thị trường, cơ chế thị trường làm cơ sở cho hoạt động kinh tế. Cơ chế thị trường được coi là điều kiện môi trường để thúc đẩy sự phát triển các yếu tố của nền sản xuất, còn Nhà nước có vai trò kinh tế nhất định trong việc khắc phục những hạn chế của thị trường và đảm bảo công bằng xã hội. Hiện nay các nhà khoa học đã thừa nhận: nền kinh tế hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả cơ chế thị trường và sự quản lý của Nhà nước, quan điểm về “nền kinh tế hỗn hợp” đang là cơ sở lý luận trong quản lý nhà nước. Do tính nhạy bén và cực kỳ phức tạp của đổi mới chính trị, mỗi bước đi vội vàng, thiếu chính chắn đều có thể gây ra những đảo lộn khôn lường, nên Đảng ta luôn lưu ý rằng việc đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội cũng như cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị cần phải đi 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan