1- Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Gần đây, tình hình thế giới, trong nước đã và đang diễn ra những biến động hết sức phức tạp, khó lường. Nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng và phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt những vấn đề thời sự cấp bách đối với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân đội ta.
Để góp phần xây dựng, phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà ngang tầm nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự cần phải có nhiều phẩm chất cần thiết, một trong những phẩm chất không thể thiếu là tư duy biện chứng duy vật.
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự sinh ra và lớn lên trong thời bình, được đào tạo cơ bản, có kiến thức khoa học nền tảng. Song, họ chưa trải nghiệm trong thực tiễn chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, chưa rèn luyện nhiều trong thực tiễn quân sự, nên vốn sống, kinh nghiệm tích luỹ từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy, quản lý chưa nhiều, cùng với những đặc điểm về tâm lý lứa tuổi, lao động khoa học kỹ thuật quân sự đã ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp tư duy của họ. Trong đội ngũ sĩ quan kỹ thuật quân sự một số sĩ quan trẻ chịu ảnh hưởng của phương pháp tư duy siêu hình phiến diện, có biểu hiện chủ quan, nóng vội trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề của thực tiễn hoạt động khoa học quân sự và các vấn đề chính trị - xã hội hiện nay.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tác động mạnh mẽ đến sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự; trong đó, ngoài những tác động tích cực, còn có những tác động tiêu cực, chẳng hạn như việc đề cao thái quá lao động trí óc, tuyệt đối hoá vai trò khoa học, công nghệ kỹ thuật, có lối sống thực dụng, ích kỷ đang trở thành cách suy nghĩ ở một số sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Điều đó làm giảm ý chí chiến đấu , kìm hãm bước tiến của họ.
Cuộc chiến tranh hiện đại gắn liền với vũ khí công nghệ cao đang đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà đủ mạnh, đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh hiện đại, đòi hỏi sĩ quan trẻ ngành kỹ thuật quân sự hôm nay - người chủ trì ngành khoa học kỹ thuật quân sự ngày mai phải làm chủ kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự, biết kế thừa và ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại vào phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà, làm như thế vừa đảm bảo yêu cầu hiện đại quân đội, vừa phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.
Vì vậy, phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là đòi hỏi cấp bách cả về lý luận và thực tiễn, giúp cho sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự khắc phục phương pháp tư duy siêu hình, chủ quan, nóng vội, có cách nhìn nhận biện chứng khoa học trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề của hoạt động thực tiễn khoa học kỹ thuật quân sự cũng như vấn đề chính trị - xã hội đặt ra hiện nay, cho phép họ xác định đúng đẵn, vị trí, vai trò của mình đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
Tư duy biện chứng duy vật, là “chìa khoá” mở con đường để họ tiến lên phía trước, cải tiến kỹ thuật, tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại, cải tạo, sáng tạo và chế tạo ra vũ khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến, góp phần xây dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự quân đội ta vững mạnh, tiên tiến, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Gần đây, tình hình thế giới, trong nước đã và đang diễn ra những biến
động hết sức phức tạp, khó lường. Nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ
quốc nói chung, xây dựng và phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự nói
riêng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt những
vấn đề thời sự cấp bách đối với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân đội ta.
Để góp phần xây dựng, phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự
nước nhà ngang tầm nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự cần phải có nhiều phẩm chất cần thiết, một trong những phẩm chất
không thể thiếu là tư duy biện chứng duy vật.
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự sinh ra và lớn lên trong
thời bình, được đào tạo cơ bản, có kiến thức khoa học nền tảng. Song, họ
chưa trải nghiệm trong thực tiễn chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, chưa rèn luyện
nhiều trong thực tiễn quân sự, nên vốn sống, kinh nghiệm tích luỹ từ thực tiễn
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý chưa nhiều, cùng với những đặc điểm về tâm lý lứa
tuổi, lao động khoa học kỹ thuật quân sự đã ảnh hưởng trực tiếp đến phương
pháp tư duy của họ. Trong đội ngũ sĩ quan kỹ thuật quân sự một số sĩ quan trẻ
chịu ảnh hưởng của phương pháp tư duy siêu hình phiến diện, có biểu hiện chủ
quan, nóng vội trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề của thực tiễn hoạt động
khoa học quân sự và các vấn đề chính trị - xã hội hiện nay.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tác động
mạnh mẽ đến sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự; trong đó, ngoài
những tác động tích cực, còn có những tác động tiêu cực, chẳng hạn như việc
đề cao thái quá lao động trí óc, tuyệt đối hoá vai trò khoa học, công nghệ kỹ
thuật, có lối sống thực dụng, ích kỷ đang trở thành cách suy nghĩ ở một số sĩ
4
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Điều đó làm giảm ý chí chiến đấu ,
kìm hãm bước tiến của họ.
Cuộc chiến tranh hiện đại gắn liền với vũ khí công nghệ cao đang đặt ra
những yêu cầu cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc
hiện nay. Để phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà đủ mạnh, đáp
ứng được yêu cầu của chiến tranh hiện đại, đòi hỏi sĩ quan trẻ ngành kỹ thuật
quân sự hôm nay - người chủ trì ngành khoa học kỹ thuật quân sự ngày mai
phải làm chủ kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự, biết kế thừa và ứng dụng
thành tựu khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại vào phát triển nền khoa học kỹ
thuật quân sự nước nhà, làm như thế vừa đảm bảo yêu cầu hiện đại quân đội,
vừa phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.
Vì vậy, phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa
học kỹ thuật quân sự là đòi hỏi cấp bách cả về lý luận và thực tiễn, giúp cho
sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự khắc phục phương pháp tư duy
siêu hình, chủ quan, nóng vội, có cách nhìn nhận biện chứng khoa học trong
việc xem xét, giải quyết các vấn đề của hoạt động thực tiễn khoa học kỹ thuật
quân sự cũng như vấn đề chính trị - xã hội đặt ra hiện nay, cho phép họ xác
định đúng đẵn, vị trí, vai trò của mình đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo
vệ Tổ quốc.
Tư duy biện chứng duy vật, là “chìa khoá” mở con đường để họ tiến lên
phía trước, cải tiến kỹ thuật, tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại,
cải tạo, sáng tạo và chế tạo ra vũ khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến, góp phần xây
dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự quân đội ta vững mạnh, tiên tiến, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2- Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề tư duy nói chung và tư duy biện chứng duy vật nói riêng đã có
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Ở nước ngoài, vấn đề tư duy biện chứng
đã được đề cập đến trong sách báo và tài liệu triết học; chẳng hạn An-đrờ-rây-
5
ép: “Tư duy hình thức phản ánh hiện thực khách quan”, trong sách : Lôgíc
biện chứng, Nxb Chính trị, M., 1985. M.M.Do-den-tan: “Nguyên lý lôgíc biện
chứng”, Nxb Sự thật, Hà nội 1962. A.P.Sép-tu-lin, “Phương pháp nhận thức
biện chứng” Nxb sách giáo khoa Mác - Lênin Hà nội 1977.
Ở nước ta, đặc biệt từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
vấn đề tư duy đã được các tác giả đề cập đến ở nhiêu góc độ khác nhau; tiêu
biểu là: Hội nghị bàn tròn về “Đổi mới tư duy”, Tạp chí Cộng sản, số 10,
tháng 12/1987 và số 8, tháng 9/1988. Lê Thi, “Thực trạng tư duy của cán bộ,
đảng viên ta và căn nguyên của nó”, Tạp chí Triết học, số 1/1988. Tô Duy
Hợp: “Phương pháp tư duy vấn đề thừa kế và đổi mới, Tạp chí triết học, số
1/1988. Lại Văn Toàn: “Đổi mới tư duy lý luận-tư duy lý luận trong sự nghiệp
đổi mới”, Tạp chí Triết học số 1/1988. Vũ Văn Viên: “Vấn đề thực chất của tư
duy khoa học hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 3/1992.
Trong lĩnh vực quân sự cũng có nhiều nhà khoa học bàn về vấn đề này:
Lê Xuân Lựu “Nâng cao năng lực trí tuệ, phẩm chất tư duy quân sự của
người cán bộ chính trị trong dạy học chiến thuật”, Học viện chính trị quân
sự , 1998. Đào Văn Tiến: “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ
quan cấp phân đội quân đội nhân dân Việt Nam” , Luận án tiến sĩ quân sự
1998. Dương Văn Minh: “Phát triển tư duy năng động, sáng tạo của người
học. Mâu thuẫn và hướng giải quyết”, Tạp chí Thông tin giáo dục lý luận chính
trị quân sự, số 3/1991. Nguyễn Bá Dương: “Đặc điểm quá trình phát triển tư
duy biện chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan phân đội quân đội nhân dân Việt
Nam trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc” Luận án tiến sĩ triết học năm
2000.…
Qua các công trình khoa học nêu trên, các tác giả đã tập trung làm rõ
nhiều khía cạnh khác nhau về nguồn gốc, bản chất, vai trò của tư duy nói
chung và tư duy biện chứng duy vật nói riêng ở nhiều đối tượng cụ thể khác
nhau. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào tập trung nghiên cứu, làm rõ: “Phát
6
triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân
sự quân đội ta hiện nay”. Đây là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Vì vậy, lựa chọn vấn đề này làm luận văn tốt nghiệp, tác giả nhận thức
sâu sắc rằng, đây là vấn đề khó và phức tạp; Vì vậy, trong quá trình nghiên
cứu không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến, chỉ
dẫn của các nhà khoa học.
3- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Làm rõ sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan
trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự quân đội ta hiện nay, đề xuất giải pháp để
nâng cao trình độ tư duy biện chứng duy vật cho họ.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ bản chất và đặc điểm phát triển tư duy biện chứng duy vật của
sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng phát triển tư duy biện chứng duy
vật, qua đó đề ra các yêu cầu phát triển trình độ tư duy biện chứng duy vật
cho họ.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật hiện nay.
4- Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cơ sở thực tiễn của luận văn dựa vào những báo cáo tổng kết, điều tra,
khảo sát nhiều vấn đề có liên quan để đánh giá sự phát triển tư duy biện
chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, thông
qua số liệu điều tra ở Học viện Kỹ thuật quân sự, Trung tâm khoa học kỹ
thuật và công nghệ quân sự và một số binh chủng kỹ thuật.
7
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vận dụng vào lĩnh vực quân sự,
đồng thời sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu khoa học chung như:
lôgíc - lịch sử; phân tích - tổng hợp; khái quát hoá - trừu tượng hoá…
5- Giá trị và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn chỉ ra những đặc điểm của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự. Từ đó, đưa ra quan niệm phát triển tư duy biện chứng duy vật
của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự và vai trò của nó đối với hoạt
động khoa học kỹ thuật quân sự, bước đầu chỉ ra những đặc điểm có tính qui
luật của sự phát triển đó.
- Luận văn khảo sát đánh giá thực trạng phát triển tư duy biện chứng
duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, chỉ ra nguyên nhân
của thực trạng đó.
- Luận văn đề xuất các giải pháp phát triển tư duy biện chứng duy vật
của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự.
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn được giải quyết trong luận văn có
thể dùng làm tài liệu để nghiên cứu và giảng dạy một số chuyên đề triết học
trong các trường kỹ thuật quân sự. Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cúu
của luận văn có thể làm cơ sở lý luận để các đơn vị, binh chủng kỹ thuật đề ra
các biện pháp phát triển tư duy biện chứng duy vật cho sỹ quan trẻ ngành kỹ
thuật quân sự.
6- Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, một số phụ lục.
8
Chương 1
THỰC CHẤT PHÁT TRIỂN TƯ DUY BIỆN CHỨNG DUY VẬT
CỦA SĨ QUAN TRẺ NGÀNH KHOA HỌC KỸ THUẬT QUÂN SỰ
QUÂN ĐỘI TA
1.1. Bản chất và vai trò phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự.
1.1.1. Quan niệm về phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan
trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
* Tư duy và tư duy biện chứng duy vật
Tư duy là một trong những hoạt động sống cơ bản nhất của loài người,
nhờ có tư duy mà mọi hoạt động của con người diễn ra đúng ý định và đạt
hiệu quả. Xét ở một góc độ nhất định, không thể có hoạt động thực tiễn nếu
không có tư duy. Vì lẽ đó, tư duy từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều môn khoa học khác nhau như triết học, lôgíc học, tâm lý học, điều
khiển học… Triết học Mác-Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của mình là
tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật
biện chứng và nghiên cứu những qui luật chung nhất của sự vận động, phát
triển của tự nhiên xã hội và tư duy. Tư duy trong triết học Mác-Lênin được
xem xét là “Sản phẩm cao nhất của cáí vật chất được tổ chức một cách đặc
biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái
niệm, phán đoán, lý luận Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất
xã hội của con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát
hiện những mối liên hệ hợp qui luật của thực tại [46,634].
Tư duy, theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, trước hết là sản
phẩm của bộ óc người, phản ánh thế giới khách quan trên cơ sở của hoạt
9
động
thực tiễn.
Ph. Ăngghen khẳng định: “Nếu người ta đặt câu hỏi tư duy, ý thức là gì,
chúng từ đâu đến thì người ta sẽ thấy chúng là sản phẩm của bộ óc con người”
[23,55]. C.Mác cũng chỉ ra rằng : “ý thức chẳng qua chỉ là cái vật chất được
di chuyển vào trong đầu óc con người và cải biến đi ở trong đó” [24,35].
Khẳng định tư duy là sản phẩm của bộ óc người, triết học Mác-Lênin
đồng thời chỉ ra rằng, tư duy không thể tách rời hoạt động thực tiễn của con
người, giữa tư duy và hoạt động thực tiễn có mối quan hệ biện chứng. Muốn
có tư duy phải có hoạt động thực tiễn, ngược lại muốn hoạt động thực tiễn đạt
hiệu quả phải trên cơ sở tư duy. Khi chỉ ra sự phụ thuộc của tư duy vào hoạt
động thực tiễn Ph. Ăngghen viết: “chính việc người ta biến đổi giới tự nhiên,
chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp
nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã phát triển song song với
việc người ta học cải biến tự nhiên” [23,720].
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái
quát hoá, trừu tượng hoá thế giới hiện thực. Tư duy là sự phản ánh, nhưng
đây không phải là sự phản ánh nói chung, mà là sự phản ánh năng động, tích
cực, sáng tạo của chủ thể ở giai đoạn nhận thức lý tính. Nếu ở giai đoạn nhận
thức cảm tính, nhận thức của con người mới chỉ dừng lại ở sự kiện, hiện
tượng riêng lẻ, rời rạc, ngẫu nhiên, bề ngoài thì ở giai đoạn nhận thức lý tính,
bằng tư duy trừu tượng, con người phản ánh sự vật một cách khái quát hoá,
trừu tượng hoá, thông qua hệ thống các khái niệm, phán đoán, suy luận. Nhờ
khả năng khái quát hoá, trừu tượng hoá mà tư duy con người phản ánh được
mối liên hệ chung, bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan. Ở giai đoạn tư duy trừu tượng, con người nhận thức một cách gián tiếp,
tức là không cần tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nhận thức. Chính vì vậy, tư
10
duy có vai trò to lớn: chỉ đạo và định hướng cho mọi hoạt động của con
người.
Tư duy con người có mối liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Ngôn ngữ là
vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, thiếu ngôn ngữ, tư
duy không thể tồn tại. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để con người giao tiếp,
trao đổi với nhau mà còn là phương tiện lưu trữ thông tin, thực hiện cơ chế
“di truyền” xã hội, phản ánh khái quát các sự vật, hiện tượng, tổng kết các
hoạt động thực tiễn của con người, truyền đạt kinh nghiệm giữa các thế hệ
nối tiếp nhau trong lịch sử. Nếu tư duy phản ánh sự vật thì ngôn ngữ thể thể
hiện sự vật; tư duy có chức năng khái quát hoá, trừu tượng hoá, thì ngôn ngữ
là công cụ của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá đó.
Tư duy là quá trình phản ánh thế giới khách quan, song đó không phải
là một quá trình phản ánh máy móc, bị động, tiêu cực mà là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo. Tính tích cực của tư duy thể hiện ở chỗ, nó vượt qua
khỏi giới hạn của nhận thức cảm tính để phản ánh cái bên trong, bản chất của
sự vật. Sự phản ánh tích cực của tư duy đó dựa trên bản chất người - là thực
thể năng động, sáng tạo, luôn vươn tới nhận thức và cải tạo thế giới. V.I.Lênin
chỉ ra rằng, thế giới không thoả mãn con người mà con người quyết định biến
đổi thế giới bằng hành động thực tiễn của mình. Tính tích cực của tư duy
không tách rời tính sáng tạo của nó. Chính quá trình phản ánh tích cực thế
giới khách quan, đã đem lại cho nhận thức khoa học năng lực khám phá, sáng
tạo những tri thức mới về các mối liên hệ bản chất, các tính qui luật khách
quan chi phối sự phát triển của hiện thực, tái tạo trong tư duy các sự kiện và
các quá trình lịch sử xảy ra cũng như dự báo các mô hình lý luận của xã hội
tương lai. Trên con đường chiếm lĩnh chân lý, chủ thể tư duy không chỉ biết
đặt ra các vấn đề mới, mà còn giải quyết chúng bằng những phương pháp
thích hợp. Đó cũng là quá trình chủ thể tư duy huy động vốn tri thức, kinh
11
nghiệm , sự hiểu biết để giải quyết vấn đề đặt ra. Ngoài ra, tính sáng tạo của
tư duy còn thể hiện ở các khả năng tưởng tượng, trực giác.
Tư duy phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực, sáng tạo
nhưng mức độ đạt được và trình độ tư duy mà con người có được ở mỗi giai
đoạn lịch sử là không giống nhau. Xét cho cùng mức độ đó phụ thuộc vào
năng lực của mỗi người và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể.
Như vậy, tư duy là sự phán ánh hiện thực khách quan bằng con đường
khái quát hoá, trừu tượng hoá, hướng vào nhận thức bản chất, qui luật vật
động, biến đổi của đối tượng.
Tư duy là quá trình suy nghĩ, vận dụng các khái niệm, phạm trù theo
những nguyên tắc lôgíc chặt chẽ nhằm đạt đến chân lý. Đây là quá trình
chuyển lôgíc khách quan thành lôgíc chủ quan, chuyển tính tất yếu của hiện
thực thành qui luật của lý tính.
Tư duy là quá trình sáng tạo hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm
tòi, khám phá và đề xuất cái mới theo khuynh hướng không ngừng bổ sung,
đổi mới tri thức, nhận thức đã có. Qui luật của tư duy là qui luật của sự phát
triển, tìm tòi, phát hiện cái mới.
Tư duy không có mục đích tự thân mà luôn hướng vào hiện thực để
hiện thực hoá mình. Đây là quá trình chuyển lôgíc chủ quan thành lôgíc
khách quan.
Trong mỗi chủ thể tư duy, không phải bao giờ cũng đạt được những
tính chất trên, bởi lẽ tư duy là quá trình diễn biến đầy mâu thuẫn thông qua
phản ánh sáng tạo của chủ thể, nếu hoạt động thực tiễn của con người là
nguồn gốc, động lực chủ yếu của tư duy, thì chính thực tiễn đồng thời là tiêu
chuẩn cao nhất của tư duy, là cái điều chỉnh tư duy. V.I. Lênin đã diễn đạt một
cách cô đọng, biện chứng sự hình thành và phát triển tư duy trong mối quan
hệ với thực tiễn như sau:
12
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức thực tại khách quan”
[17,179].
Tư duy, một mặt là sản phẩm của bộ óc người, mặt khác là kết quả của
hoạt động cải tạo thực tiễn. Do đó, sự phát triển của tư duy không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện hoạt động sản xuất vật chất, vào trình độ phát triển của xã
hội, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tư duy nhân loại cũng vận
động, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít sâu sắc đến sâu
sắc hơn, theo xu hướng ngày càng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan.
Có thể nói lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy
triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: Biện chứng
và siêu hình. Chính sự đấu tranh lâu đài của hai phương pháp này trong lịch
sử đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và hoàn thiện với sự thắng lợi của tư
duy biện chứng duy vật. Sự ra đời của tư duybiện chứng duy vật đã đặt cơ sở
khoa học định hướng cho mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người.
Trên cơ sở chỉ ra tính thứ nhất của biện chứng khách quan và tính thứ
hai của biện chứng chủ quan, Ph. Ăngghen đã chỉ ra thực chất của tư duy biện
chứng duy vật, ông viết: “Biện chứng gọi là khách quan, thì chi phối toàn bộ
giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan tức tư duy biện chứng thì chỉ
phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên của sự vận động thông qua những
mặt đối lập, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hoá
cuối cùng của chúng từ mặt này thành mặt kia Respective (tương tự) với những
hình thức cao hơn đã qui định sự sống của giới tự nhiên” [23,694].
Như vậy, xét về bản chất, tư duy biện chứng duy vật là sự phản ánh vào
ý thức con người sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực. Xét về hình
thức, tư duy biện chứng duy vật là chủ quan vì nó phản ánh thực hiện khách
quan thông qua hoạt động nhận thức của con người, phụ thuộc vào chủ thể
13
nhận thức. Xét về nội dung thì tư duy biện chứng duy vật là khách quan vì nó
do thế giới khách quan quyết định. Ở đây, cần phân biệt giữa biện chứng
khách quan và biện chứng chủ quan. Bởi lẽ, tư duy ngoài việc phản ánh qui
luật khách quan của thế giới hiện thực thì bản thân tư duy cũng có qui luật
lôgíc riêng, qui luật nội tại của nó. Chính nhờ đặc điểm đó mà tư duy biện
chứng duy vật không chỉ phán ánh qui luật vận động của thế giới khách quan
mà còn mang bản chất khoa học, sáng tạo, là cơ sở để chỉ đạo, dự báo, định
hướng cho hoạt động của con người.
Tư duy biện chứng duy vật là loại hình tư duy phát triển cao nhất trong
lịch sử tư duy triết học nhân loại, nó vừa là kết quả của sự kế thừa thành tựu
tư duy biện chứng trong lịch sử tư duy nhân loại, đồng thời là đòi hỏi tất yếu
của thực tiễn lịch sử xã hội cũng như nhận thức của loài người. Sự ra đời và
phát triển của tư duy biện chứng là quá trình phát triển tất yếu hợp qui luật.
Thực chất của tư duy biện chứng duy vật là “phép biện chứng chủ quan” có
nội dung phản ánh “biện chứng khách quan”; Vì vậy, “các qui luật của tư duy
biện chứng duy vật thực chất là qui luật của phép biện chứng nhưng xét trong
sự khúc xạ cụ thể, đặc thù vận động vào trong lĩnh vực tư duy” [22,131].
Trong đó, giới tự nhiên và hoạt động cải tạo nó là cơ sở trực tiếp của tư duy
biện chứng duy vật và sự phát triển của tư duy luôn được bổ sung bằng
những tài liệu của hoạt động thực tiễn. Vì vậy, hoạt động thực tiễn càng tích
cực, sự trau dồi, tích luỹ tri thức khoa học càng nhiều thì chất lượng sản duy
biện chứng duy vật càng cao.
So với các phương pháp tư duy đã từng tồn tại trong lịch sử triết học ,
tư duy biện chứng duy vật có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, tư duy biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng. Đặc trưng này làm cho tư duy biện
chứng duy vật khác về chất so với các phương pháp tư duy đã từng tồn tại và
xuất hiện trong lịch sử triết học.
14
Nếu tư duy biện chứng duy tâm của Hêghen được coi là hình thức tư
duy phát triển cao nhất trước Mác (nhưng lại “lộn đầu” xuống đất) thì tư duy
biện chứng duy vật ra đời đã khắc phục được những hạn chế trong tư duy biện
chứng của Hêghen và do đó nó phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển của
thế giới khách quan. Nếu tư duy chính xác (tư duy hình thức) chỉ phản ánh
trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng thì tư duy biện chứng
duy vật không chỉ phản ánh trạng thái “tĩnh” mà còn phản ánh trạng thái
“động” của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, tư duy biện chứng duy vật bao chứa tư
duy chính xác . Nếu tư duy siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng
thái cô lập, bất biến, không vận động không biến đổi thì tư duy biện chứng
duy vật xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, trong trạng
thái luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Nếu tư duy siêu hình
phủ nhận mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển thì tư
duy biện chứng duy vật thừa nhận sự tồn tại phổ biến của mâu thuẫn và coi
đó là nguồn gốc, động lực của sự vật động, phát triển. Đây chính là hạt nhân
của tư duy biện chứng duy vật. Với quan niệm như vậy, tư duy biện chứng
duy vật đem lại cho ta “chìa khoá” để hiểu sự “tự thân vận động của tất thảy
mọi cái đang tồn tại”.
Thứ hai, tư duy biện chứng duy vật mang tính toàn diện, phản ánh mối
liên hệ phong phú của thế giới khách quan. Tính toàn diện của tư duy biện
chứng duy vật có cơ sở từ mối liên hệ phổ biến của thế giới khách quan. Tính
toàn diện của tư duy biện chứng duy vật khác hẳn so với tư duy siêu hình
phiến diện, một chiều. Nhờ đặc trưng này tư duy biện chứng duy vật không
những phản ánh mối liên hệ phong phú, đa dạng của thế giới khách quan mà
còn rút ra được mối liên hệ chủ yếu, của sự vật trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Vì vậy, nó giúp cho con người trong hoạt động thực tiễn, vừa đạt được tính
đồng bộ, đồng thời giải quyết được khâu trọng tâm, trọng điểm, đem lại hiệu
quả cao.
15
Thứ ba, tư duy biện chứng duy vật phản ánh đúng đắn sự vận động,
phát triển của thế giới khách quan. Đây cũng là đặc trưng quan trọng để phân
biệt tư duy biện chứng duy vật với tư duy siêu hình và tư duy biện chứng duy
tâm. Cơ sở khách quan của nó chính là sự phản ánh sự vận động, phát triển
của thế giới hiện thực. Nhờ sự phản ánh đó, tư duy biện chứng duy vật phát
hiện tính tất yếu cũng như sự ra đời của cái mới từ cái cũ, trong quá trình
phát triển của sự vật, hiện tượng, tuân theo những qui luật khách quan của thế
giới hiện thực. Mặt khác, tư duy biện chứng duy vật cũng có quá trình tự thân
phát triển, những khái niệm, phạm trù của tư duy biện chứng duy vật luôn
được bổ sung, phát triển phù hợp với sự vận động, phát triển của bản thân sự
vật.
Thứ tư, tư duy biện chứng duy vật mang tính khách quan. Đây không
chỉ là đặc trưng cơ bản mà còn là đòi hỏi tất yếu của tư duy khoa học. Tư duy
biện chứng duy vật luôn thống nhất với tồn tại, luôn được bổ sung, phát triển
và do đó phản ánh đúng thực tiễn. Ở đây, tính khách quan của tư duy biện
chứng duy vật không đồng nhất với tính khách quan của thế giới vật chất. Sự
đồng nhất trong trạng thái động chứ không phải sự đồng nhất trừu tượng,
tuyệt đối. Tư duy biện chứng duy vật không chỉ giúp chủ thể nhận thức, phản
ánh đúng đắn qui luật vận động, phát triển của thế giới khách quan, mà còn
giúp cho chủ thể đưa ra quyết định nhanh chóng, kịp thời, chính xác, phù hợp
với sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Việc phá vỡ hoặc vi
phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến sai lầm là rơi vào chủ nghĩa duy tâm hoặc
chủ quan duy ý chí.
Thứ năm, tư duy biện chứng duy vật mang bản chất khoa học và cách
mạng, có tính phê phán và tính chiến đấu cao. Tư duy biện chứng duy vật
không chỉ tạo ra tri thức mới mà còn giải quyết có hiệu quả các vấn đề thực
tiễn đặt ra. Với việc tuân thủ các nguyên tắc, qui luật của phép biện chứng
duy vật, tư duy biện chứng duy vật không những phản ánh đúng đắn qui luật
16
phát triển của thế giới khách quan mà còn tạo ra tri thức mới về đối tượng, dự
báo được xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, và do đó phát
hiện ra bản chất và qui luật vận động, phát triển của bản thân sự vật, hiện
tượng. Đứng trước tư duy biện chứng duy vật không có gì trong thế giới là cố
định, bất biến, mà luôn vận động, biến đổi không ngừng. Do đó, mọi hình
thức tư duy như tư duy siêu hình, duy tâm, tư biện đều phải được thay thế,
loại bỏ. Tư duy biện chứng duy vật không chỉ có vai trò định hướng, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn mà luôn được đổi mới, bổ sung bằng tư liệu của thực
tiễn. Do đó, mọi hoạt động của con người dựa trên cơ sở tư duy biện chứng
duy vật sẽ tránh được những biến cố ngẫu nhiên, bất ngờ, những cái phát sinh
không lường trước và do đó con người chủ động giải quyết một cách có hiệu
quả trong mọi công việc mọi hoàn cảnh, tình huống đặt ra.
Từ sự phân tích trên đây, có thể quan niệm: Tư duy biện chứng duy vật
là loại hình tư duy phát triển cao nhất của loài người, là sự thống nhất chặt
chẽ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng, phản ánh đúng đắn
mối liên hệ, sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan, mang bản chất khoa học, cách mạng vừa tạo ra tri thức mới vừa
giải quyết có hiệu quả các vấn đề thực tiễn đặt ra.
* Đặc điểm của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự hiện
nay
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là một bộ phận đội ngũ sĩ
quan kỹ thuật. Họ là những người trực tiếp quản lý,khai thác,sử dụng, nghiên
cứu, phát triểm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự ở các đơn vị, các cơ sở sản
xuất quốc phòng, các cơ quan nghiên cứu, thiết kế , các học viện, nhà trường,
các cơ quan tham mưu chiến lược... Có tuổi đời từ 20 đến 35 có quân hàm từ
thiếu uý đến thiếu tá, có trình độ từ cao đẳng đến tiến sĩ khoa học kỹ thuật
quân sự
17
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự có một số đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, họ là những người trẻ tuổi. Xét ở góc độ sinh học, họ đang ở
giai đoạn phát triển về thể chất, giai đoạn sung sức nhất của đời người. Xét về
phương diện xã hội, họ đang ở giai đoạn hoàn thiện tri thức, và tích luỹ kinh
nghiệm cuộc sống. Mặt mạnh của họ là ham hiểu biết, có hoài bão, ước mơ
vươn tới đỉnh cao của khoa học, tư duy nhanh nhạy, năng động, sáng tạo, dễ
dàng tiếp thu cái mới, tài năng trí tuệ đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ
nhất. Đây cũng là giai đoạn họ muốn tự khẳng định mình, muốn cống hiến tài
năng, trí tuệ, phát minh, sáng chế, phát triển khoa học kỹ thuật quân sự. Bên
cạnh đó, ở họ còn tồn tại một số hạn chế như tính bồng bột của tuổi trẻ, tính
tự kiêu, tự mãn do đó, khi gặp khó khăn tạm thời dễ hoang mang, dao động,
chùn bước trước khó khăn, tư duy của họ có lúc thiên về cảm tính hơn là suy
lý, phần đông sĩ quan kỹ thuật trẻ khả năng khái quát hoá lý luận còn kém. Vì
vậy, sự nhìn nhận đánh giá các vấn đề kinh tế, chính trị - xã hội và khoa học
kỹ thuật quân sự dễ dẫn đến sự phiến diện, chủ quan, siêu hình. Đặc biệt, do
đặc điểm tâm sinh lý của tuổi trẻ, họ dễ bị tác động tiêu cực từ mặt trái của
nền kinh tế thị trường nên có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả
công việc của người sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Phát triển
tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là
cơ sở để họ phát huy mặt mạnh, khắc phục hạn chế, định hướng đúng đắn cho
mọi suy nghĩ và hành động của họ.
Thứ hai, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự được đào tạo cơ
bản, chuyên sâu trong các nhà trường quân đội, nhưng chưa trải nghiệm
nhiều trong hoạt động thực tiễn khoa học kỹ thuật quân sự và cuộc sống.
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là những người được lựa
chọn trong hàng ngũ những thanh niên Việt Nam ưu tú, được đưa vào đào tạo
trong các nhà trường kỹ thuật quân sự. Ở họ hội tụ đầy đủ phẩm chất và năng
18
lực của người sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, có kiến thức toàn diện về
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn,
nắm vững thế giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo, có khă năng học tập theo nguyên tắc tự giáo dục liên tục
và học tập suốt đời. Họ nắm vững tri thức khoa học hiện đại, sử dụng thông
thạo tin học, ngoại ngữ và các phương tiện tiên tiến khác. Hầu hết sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự có khả năng giải quyết tốt các nhiệm vụ
khoa học kỹ thuật quân sự, đồng thời có khả năng thích ứng nhanh với công
nghệ mới được chuyển giao và tiến tới sáng tạo những công nghệ mới, đáp
ứng yêu cầu phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự và công nghệ quốc
phòng
thời
kỳ mới.
Tuy nhiên, do còn trẻ tuổi, chưa trải nghiệm qua chiến tranh, chưa
được rèn luyện nhiều trong thực tiễn quân sự, vốn sống, kinh nghiệm còn hạn
chế. Một số sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, nhất là sĩ quan mới
ra trường còn có những hạn chế nhất định. Những kiến thức mà họ hiện có
còn bất cập nhiều so với thực tiễn đòi hỏi, nhất là kiến thức khoa học MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học nghệ
thuật quân sự. Tất cả điều đó không những làm cho tâm lý của họ phức tạp,
mà còn dẫn đến kéo dài sự non nớt, làm chậm quá trình phát triển của sĩ quan
trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Do đó, việc phát triển tư duy biện chứng
duy vật của họ luôn là đòi hỏi cấp bách, là công cụ để tiếp thu, củng cố tri
thức, phát triển phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng, bảo
dưỡng và phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà.
Thứ ba, tư duy của họ chịu sự ảnh hưởng của hoạt động chuyên môn
khoa học kỹ thuật quân sự.
19
Ngay từ khi được đào tạo trong nhà trường quân đội cũng như thực tiễn
công tác trong ngành khoa học kỹ thuật quân sự sau này, họ được tiếp cận
trực tiếp với kiến thức khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật quân sự, với
những đối tượng của kỹ thuật quân sự, các phương tiện trực quan, trang bị, vũ
khí, đạn dược. Vì vậy, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật quân sự có sức
hấp dẫn mạnh mẽ đối với đội ngũ này, ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách tư
duy, suy nghĩ của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Do quá nhấn
mạnh khoa học kỹ thuật, họ dễ rơi vào phương pháp tư duy cụ thể, máy móc,
tư duy theo kiểu chuyên môn thuần tuý, ít quan tâm đến vấn đề chính trị. Mặt
khác, do lao động chuyên môn kỹ thuật quân sự với đặc thù là có tính chuyên
môn hóa cao, tính chất dây chuyền ổn định nên nghề nghiệp của người sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự có tính chuyên môn hoá cao, dẫn
đến việc xuất hiện tư tưởng “an phận” với công việc, nghề nghiệp quen thuộc,
sĩ quan trẻ ngại thay đổi, không muốn xáo trộn cuộc sống hàng ngày.
Phát triển tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự là đòi hỏi cấp thiết, có vai trò hết sức quan trọng,
giúp người sĩ quan kỹ thuật phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu, chiếm lĩnh
đỉnh cao khoa học, làm chủ kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại,
năng động và sáng tạo hơn trong nghiên cứu ứng dụng, khoa học kỹ thuật
quân sự hiện đại.
* Tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự
Tư duy là sản phẩm của bộ óc người, phản ánh thế giới khách quan trên
cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn của người sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự quy định sự hình thành phát triển tư duy của họ.
Từ sự hiểu biết về sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật như trên, bước
đầu ta có thể quan niệm: tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo đời
20
sống hoạt động quân sự và thực tiễn quản lý, khai thác, sử dụng, nghiên cứu,
phát triển vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng quân
đội nhân dân cách mạng chính, qui tinh, nhuệ, từng bước hiện đại bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực chất tư duy của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là tư
duy biện chứng duy vật, phải ánh mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, cái
đặc thù và cái phổ biến. Tư duy là sản phẩm của bộ óc người, phản ánh thế
giới khách quan trên cơ sở của hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt động của sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự và môi trường quân sự cũng như
đặc điểm tâm sinh lý của họ, quyết định sự hình thành và phát triển tư duy
biện chứng duy vật của họ. Tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự vừa mang đặc trưng chung của tư duy biện chứng
duy vật đồng thời, có nét riêng biệt như gắn liền với hoạt động kỹ thuật quân
sự, có tính quyết đoán, tính định hướng chính trị, tính nhanh nhạy cao. Vì vậy,
sẽ là sai lầm nếu hoàn toàn đồng nhất tư duy biện chứng duy vật với tư duy
biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, hoặc
tách rời, hoặc tuyệt đối hai khái niệm này. Cũng sẽ là sai lầm nếu chúng ta
gán ghép một cách áp đặt, những qui luật của phép biện chứng duy vật trong
hoạt động quân sự của thời kỳ trước hoặc của sĩ quan trung cao cấp vào hoạt
động của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, khi mà điều kiện, hoàn
cảnh đã thay đổi. Nhiệm vụ của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
hiện nay đòi hỏi tư duy biện chứng của họ phải được phân tích, xem xét trong
điều kiện cụ thể gắn với hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự , có như vậy mới
tìm ra được nét đặc thù phát triển tư duy biện chứng duy vật của họ, nhờ đó mà
giải quyết mọi công việc của chuyên ngành, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự là sự phản ánh ở trình độ cao của nhận thức lý tính, là kết quả của sự
trừu tượng hoá, khái quát hoá, nắm bắt bản chất, qui luật biện chứng của hoạt
21
động khoa học kỹ thuật quân sự, của thực tiễn nghiên cứu, cải tiến, ứng dụng,
áp dụng khoa học kỹ thuật quân sự vào khai thác, bảo quản, quản lý, sản xuất
và sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự ở đơn vị cơ sở trong toàn quân
hiện nay.
Cơ sở của tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự dựa trên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp luận biện chứng. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận duy vật
biện chứng, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự không chỉ giải thích
các hiện tượng của đời sống xã hội, của hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự,
mà họ còn tìm ra các mối liên hệ bản chất, tất yếu, chi phối hoạt động nghiên
cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và quản lý các hoạt động khoa
học kỹ thuật quân sự, qua đó họ nhận thức được mục đích, ý nghĩa công việc
của họ. Do vậy, mỗi quan điểm, kết luận mà họ đưa ra trở thành nguyên tắc
xác định phương pháp, cách thức tiến hành công việc của họ.
Rõ ràng sự hình thành và phát triển của tư duy biện chứng duy vật của
sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự vừa chịu sự chi phối bởi qui luật
chung của tư duy biện chứng duy vật, đồng thời chịu sự chi phối của những
qui luật đặc thù trong lĩnh vực hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự. Sự phân
biệt đó là cơ sở cần thiết để tìm ra các giải pháp phát triển tư duy biện chứng
duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay.
* Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa
học kỹ thuật quân sự
Phát triển, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vât biện chứng, là quá
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là khuynh hướng chung, phổ biến
của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, từ tự nhiên đến xã hội
và tư duy. Sự phát triển diễn ra theo qui luật khách quan của phép biện chứng
duy vật.
22
Có thể quan niệm rằng: phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là quá trình không ngừng bổ sung
tri thức, nâng cao năng lực khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn luyện phương
pháp tư duy năng động, sáng tạo, tự chủ, quyết đoán của họ, đáp ứng yêu cầu
xây dựng, phát triển nền khoa học - kỹ thuật quân sự, phục vụ sự nghiệp xây
dựng quân đội từng bước hiện đại, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự là quá trình không ngừng bổ sung, củng cố và
chính xác hoá tri thức, nâng cao sự hiểu biết về khoa học kỹ thuật quân sự về
cuộc sống.
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự được trang bị hệ thống
kiến thức tương đối toàn diện về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thật, khoa
học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những kiến thức công cụ, cơ
sở ban đầu làm nền tảng để họ bước vào hoạt động thực tiễn khoa học kỹ
thuật quân sự. Thực tiễn nghiên cứu, phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự
cho thấy sĩ quan trẻ luôn vấp phải hàng loạt mâu thuẫn, những tình huống mới
phát sinh từ thực tiễn cuộc sống, họ phải giải quyết. Song, kiến thức họ được
trang bị trong nhà trường quân đội lại luôn luôn thiếu, thậm chí đã trở nên lạc
hậu so với hiện tại. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học, công nghệ hiện đại việc áp dụng thành tựu của nó vào trong
lĩnh vực quân sự, vào thiết kế, chế tạo trang bị vũ khí kỹ thuật, các thế hệ vũ
khí mới liên tục ra đời với nhiều tính năng tác dụng và nguyên lý hoạt động
mới lạ. Vì vậy, nếu chỉ dựa vào kiến thức cũ thì rất dễ rơi vào sự lạc hậu về
thông tin, về khoa học kỹ thuật quân sự. Do vậy, họ phải tích cực học hỏi, tích
luỹ bổ sung tri thức mới cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn mới giúp
- Xem thêm -