Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam...

Tài liệu Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam

.PDF
110
197
117

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ DUNG PHẠT TIỀN VỚI TƢ CÁCH HÌNH PHẠT BỔ SUNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ DUNG PHẠT TIỀN VỚI TƢ CÁCH HÌNH PHẠT BỔ SUNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ Dung 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ 1 MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠT TIỀN VỚI TƢ 9 CÁCH HÌNH PHẠT BỔ SUNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, mục đích và vai trò của hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam 9 1.1.1. Khái niệm hình phạt bổ sung 9 1.1.2. Mục đích và vai trò của hình phạt bổ sung 14 1.2. 17 Khái niệm, mục đích và vai trò của phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Khái niệm phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 17 1.2.2. Mục đích và vai trò của phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 20 1.3. Sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 22 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 22 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 26 4 Chương 2: PHẠT TIỀN VỚI TƢ CÁCH HÌNH PHẠT BỔ SUNG 30 TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự Việt Nam 30 2.1.1. Quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự 30 2.1.2. Quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự 43 2.2. Phân biệt phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung với một số chế tài pháp lý khác 52 2.2.1. Phân biệt phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung và phạt tiền với tư cách hình phạt chính 52 2.2.2. Phân biệt phạt tiền và tịch thu tài sản với tư cách hình phạt bổ sung 53 2.2.3. Phân biệt phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung và phạt tiền với tư cách là biện pháp xử lý hành chính 54 2.3. 55 Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới 2.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 55 2.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 57 2.3.3. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển 58 2.3.4. Bộ luật hình sự Nhật Bản 60 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHẠT TIỀN VỚI TƢ CÁCH HÌNH 62 PHẠT BỔ SUNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 62 3.1.1. Tình hình áp dụng 62 3.1.2. Những nhận xét, đánh giá 75 3.2. 76 Một số tồn tại, hạn chế trong lập pháp và thực tiễn áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung và các nguyên nhân cơ bản 5 3.2.1. Một số tồn tại, hạn chế trong lập pháp và thực tiễn áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 76 3.2.2. Các nguyên nhân cơ bản 83 3.3. 86 Những kiến nghị 3.3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự 87 3.3.2. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cán bộ xét xử trong việc áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 90 3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 92 3.3.4. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 93 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Các tội phạm về tham nhũng 43 2.2 Các tội phạm về ma túy 45 2.3 Danh mục các điều luật có quy định phạt tiền với tư cách 47 hình phạt bổ sung 3.1 Bảng số liệu các bị cáo bị áp dụng phạt tiền với tư cách 62 hình phạt bổ sung từ năm 2009 đến năm 2013 3.2 Bảng cơ cấu áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ 65 sung trong các chương tội phạm từ năm 2009 đến năm 2013 3.3 Việc áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 68 trong xét xử sơ thẩm năm 2011 3.4 Việc áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung 69 trong xét xử sơ thẩm năm 2012 3.5 Việc áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong xét xử sơ thẩm năm 2013 7 71 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang Số liệu các bị cáo bị áp dụng phạt tiền với tư cách hình 63 biểu đồ 3.1 phạt bổ sung từ năm 2009 đến năm 2013 3.2 Cơ cấu bị cáo áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ 65 sung trong các chương tội phạm năm 2009 3.3 Cơ cấu bị cáo áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ 66 sung trong các chương tội phạm năm 2010 3.4 Cơ cấu bị cáo áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ 66 sung trong các chương tội phạm năm 2011 3.5 Cơ cấu bị cáo áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ 67 sung trong các chương tội phạm năm 2012 3.6 Cơ cấu bị cáo áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong các chương tội phạm năm 2013 8 67 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hình phạt bổ sung là một trong những chế định cơ bản của luật hình sự Việt Nam. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt bổ sung có ý nghĩa quan trọng trên các mặt lập pháp, khoa học và thực tiễn. Hình phạt bổ sung không chỉ thể hiện tính cưỡng chế, trừng trị mà các hình phạt này chủ yếu là những biện pháp giáo dục, thuyết phục. Trong các hình phạt bổ sung thì không thể không nhắc đến phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung. Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung tuy chỉ được áp dụng kèm theo các hình phạt chính (không phải phạt tiền), nhưng có tác động tích cực trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Vai trò tích cực của nó được thể hiện thông qua việc chủ động loại trừ khả năng phạm tội mới của người bị kết án và tiếp tục cải tạo, giáo dục người phạm tội sau khi đã chấp hành xong hình phạt chính. Ưu điểm nổi bật của hình phạt bổ sung nói chung, phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung nói riêng được thể hiện chính trong vai trò phòng ngừa tội phạm, nó tác động trực tiếp vào hoàn cảnh khách quan làm cho người phạm tội mất đi các điều kiện xã hội có thể để tái phạm, đó là tiền bạc của người bị kết án. Vì vậy, kết hợp đúng đắn việc áp dụng hình phạt chính và phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung đối với người phạm tội là một trong những điều kiện quan trọng để đạt được mục đích của hình phạt. Lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung được quy định phong phú và đa dạng, có sự kế thừa và bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt này của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Những quy phạm này đã tạo điều kiện 9 cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Trong năm 2009 cả nước ta có 5183 bị cáo áp dụng hình phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trên tổng số 114970 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm chiếm 4,5%. Tương tự thì năm 2010 là 4323/ 101986 bị cáo chiếm 4,2%; năm 2011 là 5072/ 97961 bị cáo chiếm 5,2%; năm 2012 là 7110/ 117402 bị cáo chiếm 6,1%; năm 2013 là 6440/ 118281 chiếm 5,4%. Nhìn chung, việc áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung có xu hướng tăng từ năm 2009 đến năm 2013. Tuy nhiên, một số quy phạm phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung của Bộ luật hình sự hiện hành, ở các mức độ khác nhau, vẫn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định. Mặt khác, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự chưa được quan tâm đúng mức gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung của các tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về đề tài này. Mặt khác, cùng với sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nhiều vấn đề của luật hình sự, trong đó có phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung, cũng luôn vận động và phát triển đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự hiện hành và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự là việc làm cần thiết, không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Tất cả những điều trên đây là lý do để tôi lựa chọn vấn đề "Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn thạc sĩ của mình. 10 2. Tình hình nghiên cứu Do hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong luật hình sự, nên ở trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về hình phạt và hệ thống hình phạt, trong đó có phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung. Vấn đề hình phạt đã được nhiều chuyên gia ở nước ngoài nghiên cứu như: H.L.A. Hart, Punishment and Responsibility, Oxford, 1968; 2) Cragg, Wesley, The Practice of Punishment: Towards a Theory of Restorative Justice, New York, Routledge, 1992; 3) M. Bellmore, H.J.Greenberg and J.J.Jarvis, Generauzed Penalty - function concepts in Mathematical optization, Georgia Institute of Technology, Atlanta, Georgia Received June 17, 1968; 4) Galperin I.M, Hình phạt, chức năng xã hội và thực tiễn áp dụng, Matxcơva, 1983 (tiếng Nga); v.v... Còn ở Việt Nam, pháp luật hình sự cũng có quy định về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung và khoa học luật hình sự có các công trình nghiên cứu cụ thể như sau: * Dưới góc độ thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao có văn bản hướng dẫn việc xử lý một số khía cạnh liên quan đến hình phạt tiền đó là Công văn số 162/2002/KHXX ngày 04 tháng 11 năm 2002 về áp dụng hình phạt tiền. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung. * Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, việc nghiên cứu phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung cũng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu và cũng được đề cập trong hệ thống giáo trình dành cho hệ đại học của các cơ sở đào tạo luật học như: Chương thứ bảy - Hình phạt và biện pháp tư pháp, Trong sách: Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung) của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) Chương XV - Khái niệm hình phạt, hệ thống hình phạt 11 và các biện pháp tư pháp, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007); 3) Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam của PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 4) Trách nhiệm hình sự và hình phạt do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), Nxb Công an nhân dân, 2001; 5) Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000; 6) Chương 8 - Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt, Trong sách: Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam (GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994. Trong đó, đáng chú ý là công trình nghiên cứu của PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đã đề cập tương đối đầy đủ và có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam. * Dưới góc độ đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học: tương tự, cũng chưa có công trình khoa học nào đề cập đến phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung. Năm 2010 có luận án tiến sĩ luật học đề cập chung về hình phạt bổ sung với đề tài: "Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả Trịnh Quốc Toản, bảo vệ tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. * Dưới góc độ bài viết trên các tạp chí khoa học, cũng chỉ có một số bài viết đơn lẻ đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung, chẳng hạn: 1) Một số vấn đề mới về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2003 của TS. Trịnh Tiến Việt; 2) Về hình phạt tiền trong luật một số nước, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2002 của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản; 3) Sự mâu thuẫn của hình phạt tiền quy định tại khoản 1, Điều 30 Bộ luật hình sự với một số tội phạm cụ thể và những bất cập của hình phạt này, Tạp chí Tòa án nhân dân (8)/2006 của PGS.TS. Dương Tuyết Miên; 4) Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân (3)/2009 của tác giả Đỗ Văn Chỉnh; 5) Một số vấn đề lý 12 luận về hình phạt tiền, Tạp chí Tòa án nhân dân (8)/2009 của tác giả Nguyễn Hoàng Lâm; 6) Một số ý kiến về hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát (4)/2013 của tác giả Lý Văn Tầm; v.v... Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình cho thấy, phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung chỉ là một phần trong nội dung nghiên cứu của các tác giả nên chưa phân tích sâu cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Ngoài ra, có những công trình chỉ tập trung vào phần lý luận nên các tác giả chưa đưa ra các giải pháp có tính hệ thống, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung. Như vậy, dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập riêng rẽ đến phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung theo luật hình sự Việt Nam, cũng như nghiên cứu thực tiễn xét xử trong cả nước. Cho nên, việc tác giả lựa chọn đề tài "Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam" để thực hiện rõ ràng có tính thời sự và cấp thiết. . 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý hình sự, khái quát lịch sử hình thành và phát triển về hình phạt này từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Ngoài ra luận văn còn phân tích thực tiễn xét xử trên phạm vi cả nước trong 05 năm (2009 - 2013), đồng thời có so sánh với pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, qua đó nhằm giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu. 13 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trong cả nước, từ đó rút ra những tồn tại, bất cập để đề xuất việc hoàn thiện các quy định về tội phạm này trong Bộ luật hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung nói riêng ở nước ta hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu * Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu chính sách hình sự của Nhà nước về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung, phân tích khái niệm, những đặc điểm, nội dung và điều kiện áp dụng, lịch sử hình thành và phát triển của hình phạt này trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, cũng như so sánh với pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, qua đó làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung. * Về thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong thực tiễn xét xử trên cả nước qua 05 năm (20092013), đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc áp dụng pháp luật và trong lập pháp hình sự, từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt này. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, 14 tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, cũng như những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp xã hội học như thống kê, định lượng, định tính...để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Những đóng góp mới của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Luận văn nghiên cứu, giải quyết một cách tương đối có hệ thống và đầy đủ về những vấn đề lý luận và thực tiễn của phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn xét xử trong thời gian 05 năm (2009 - 2013) trên phạm vi cả nước, đồng thời so sánh với pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Do đó, luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Tư pháp hình sự, cũng như góp phần phục vụ công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay. 6.2. Về mặt thực tiễn Thông qua việc phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung, luận văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt ở khía cạnh lập pháp, qua đó bảo đảm việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử, từ đó 15 nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và việc áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung nói riêng ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới. Chương 3: Thực tiễn áp dụng phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung và những kiến nghị. 16 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠT TIỀN VỚI TƢ CÁCH HÌNH PHẠT BỔ SUNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH VÀ VAI TRÒ CỦA HÌNH PHẠT BỔ SUNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm hình phạt bổ sung Hình phạt bổ sung và hình phạt, nhìn dưới góc độ triết học có mối quan hệ nội tại, tương tác với nhau. Đây là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, trong đó hình phạt bổ sung là cái riêng, còn hình phạt là cái chung. Cái riêng là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. Còn cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác [23, tr. 238]. Như vậy, phạm trù hình phạt bổ sung với tư cách là cái riêng bao giờ cũng được đặt trong phạm trù hình phạt với tư cách là cái chung. Chính vì lý lẽ đó muốn hiểu được khái niệm hình phạt bổ sung thì nhất thiết chúng ta phải nhận thức được khái niệm hình phạt. Trong lịch sử nhân loại có những quan niệm khác nhau về bản chất và nội dung của hình phạt. Nhìn chung, các quan điểm đó có thể được chia thành hai loại: 1) Quan niệm thứ nhất coi hình phạt là công cụ trừng trị, trả thù người phạm tội, lấy sự khắc nghiệt của hình phạt làm điều răn cho người phạm tội; 2) Quan niệm thứ hai coi hình phạt là công cụ pháp lý cần thiết để đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải tạo giáo dục người phạm tội [16, tr. 107-108]. Về vấn đề này, trong cuốn sách chuyên khảo Những vấn đề lý luận và thực tiễn 17 về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản đã tổng kết như sau: Quan điểm coi hình phạt là sự trả thù của Nhà nước dựa theo học thuyết trừng trị (Vergeltungstheorie) hay còn gọi là học thuyết hình phạt tuyệt đối (Absolute Straftheorie) do Immanuel Kant (1724-1804) và sau đó là Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) chủ trương. Trong tác phẩm "Luân lý siêu hình", I. Kant cho rằng, sự bất công do hành vi của người phạm tội gây ra phải được đền bù bằng hình phạt, thông qua đó trật tự pháp luật bị xâm phạm được khôi phục. Việc áp dụng hình phạt nhằm bảo đảm công lý, công bằng. Ở đây, I. Kant đòi phải thực hiện nguyên tắc "ân oán ngang bằng": Đối với tội giết người phải tử hình, đối với tội hiếp dâm - cần thiến kẻ hiếp dâm, tội làm nhục - cần công khai hôn tay người bị làm nhục v.v... [67, tr. 151]. Như vậy, cơ sở pháp lý và ý nghĩa của hình phạt theo học thuyết hình phạt tuyệt đối, chỉ nằm ở sự trừng trị, trả thù, có nghĩa là bằng việc áp dụng hình phạt, sự bất công mà người phạm tội đã có lỗi gây ra được đền bù công bằng. Người phạm tội là người làm điều ác, mang nợ đối với xã hội nên cần phải trả bằng hình phạt, họ là kẻ thù của xã hội chứ không phải là thành viên của xã hội. Vì vậy, hình phạt chỉ có mục đích tự thân trừng trị, trả thù, chứ tuyệt đối không có mục đích phòng ngừa tội phạm. Theo tiến trình phát triển của xã hội, bên cạnh các học thuyết trừng trị hay là học thuyết hình phạt tuyệt đối xuất hiện các học thuyết về phòng ngừa tội phạm hay còn gọi là học thuyết hình phạt tương đối (relative Straftheorien) do Cesare Beccaria (1738-1794) khởi xướng, sau đó là Jeremy Bentham (1748-1832), P.J.A. Feuerbach (1775-1833) và F. v. Liszt (1851-1919). Theo học thuyết này, hình phạt không hướng vào việc trả thù người phạm tội mà chỉ nhằm phòng ngừa tội phạm trong tương lai. Do không có học thuyết nào là phù hợp, vượt trội để biện minh cho sự tồn tại của hình phạt, nên có nhiều học giả đã hợp nhất hai loại học thuyết trên thành học thuyết liên hợp (Vereinigungstheorie), mà những người đại diện xuất sắc là A. Merkel; R. V. Hippel; H. L. A. Hart. 18 Theo học thuyết này, hình phạt không chỉ có mục đích trừng trị mà còn có mục đích phòng ngừa tội phạm [60, tr. 14]. Còn trong khoa học luật hình sự Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay có các quan điểm coi hình phạt hoặc là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm nhằm mục đích ngăn ngừa chung và ngăn ngừa riêng (Natasev A.E., Xtruchkôv H.A., Nôi I.X., Bêlaev N.A.); hoặc là sự trừng trị, tức là gây cho người có tội những sự đau đớn và những sự tước đoạt do luật định mà người đó phải chịu (Đementrev X.I); hoặc là một trong các biện pháp đấu tranh chống tội phạm mà nội dung của nó là kết hợp thuyết phục với cưỡng chế (Karpetx) [5, tr. 674]. Theo Bộ luật hình sự Liên bang Nga được Hội đồng Liên bang Nga phê chuẩn ngày 05 tháng 6 năm 1996 quy định khái niệm hình phạt tại Điều 43 như sau: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước áp dụng theo phán quyết của Tòa án. Hình phạt được áp dụng đối với người bị coi là có lỗi trong hành vi phạm tội và được bộ luật hình sự này quy định bằng việc tước bỏ hoặc hạn chế các quyền tự do của người đó [64, tr. 56]. Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các học giả luôn đi theo tư tưởng tiến bộ, nhân đạo về hình phạt, nên đã đưa ra những quan niệm về hình phạt mà về cơ bản là thống nhất, mặc dù trong mỗi quan niệm đó có những sự khác nhau nhất định, chẳng hạn như: Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự" [2, tr. 11-12]. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa định nghĩa: 19 Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [19, tr. 29]. Hay theo GS.TS Võ Khánh Vinh lại quan niệm: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất do luật quy định được Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án [74, tr. 110]. Còn PGS.TS. Trịnh Quốc Toản trên cơ sở phân tích nhiều quan điểm khoa học và các đặc điểm cơ bản của hình phạt đã định nghĩa: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được luật quy định, do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo cho luật hình sự thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh phòng, chống tội phạm [59, tr. 53]; v.v... Trong pháp luật hình sự nước ta từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, khái niệm hình phạt chưa được ghi nhận một cách chính thức ở bất kỳ một văn bản pháp luật nào, chỉ đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 thì khái niệm hình phạt lần đầu tiên mới được quy định tại Điều 26 Bộ luật hình sự: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định" [40]. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan