Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật việt nam về đăng ký giao dịch bảo đảm...

Tài liệu Pháp luật việt nam về đăng ký giao dịch bảo đảm

.PDF
65
43
101

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ QUANG HUY PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2007 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ QUANG HUY PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thúy Hiền Hµ néi - 2007 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường, việc ký kết giao dịch bảo đảm không chỉ đáp ứng lợi ích của người vay và người cho vay vốn, mà còn khuyến khích sự lưu thông của nguồn vốn, giúp thị trường hoạt động hiệu quả, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển. Tuy nhiên, thực tiễn ký kết, thực hiện các giao dịch bảo đảm phát sinh một số vấn đề cần giải quyết, ví dụ như: dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ tại nhiều bên nhận bảo đảm với tính chất lừa đảo hoặc cá nhân, tổ chức mua tài sản cầm cố, thế chấp nhưng không trở thành chủ sở hữu do không ngay tình... Hạn chế thông tin chính thức về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm dẫn đến sự thiếu minh bạch và không an toàn cho thị trường vốn. Ngoài ra, thực tiễn xét xử cho thấy, các tranh chấp về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm hoặc giữa những người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm phát sinh nhưng chưa có đầy đủ các quy định để giải quyết triệt để, công bằng. Ngoài ra, đến thời điểm hiện nay, rất cần có cách tiếp cận mới về đăng ký giao dịch bảo đảm trước sự vận động mạnh mẽ, quyết liệt của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại trên thế giới. Những hạn chế của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam bắt nguồn trước hết do khoa học pháp lý và các quy định hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa thực sự đầy đủ, toàn diện. Để khắc phục tình trạng nêu trên, một trong các biện pháp hữu hiệu nhất, đó là nghiên cứu, đánh giá tổng thể và đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm tối đa hoá thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, giúp các tổ chức, cá nhân có đủ cơ sở pháp lý để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội. 2. Thực trạng nghiên cứu pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam Ở nước ta, đến thời điểm hiện nay, mới chỉ có duy nhất công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, với tên đề tài là: "Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp nghiên cứu về thực trạng đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của Việt Nam. Đây là một công trình nghiên cứu có chất lượng, với sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm của Bộ Tư pháp. Song, do giác độ nghiên cứu được xác định nên công trình không tập trung phân tích, đánh giá toàn diện, chi tiết về lý luận, cũng như các quy định của pháp luật thực định về đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài Pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm, cụ thể như: Khái niệm và các đặc điểm của đăng ký giao dịch bảo đảm; vai trò của đăng ký giao dịch bảo đảm trong nền kinh tế thị trường; lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm; tham khảo pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới về vấn đề này. - Phân tích, đánh giá các quy định hiện hành, trên cơ sở nhìn nhận, đánh giá thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta để nhận thấy những ưu điểm và đặc biệt là những hạn chế của pháp luật Việt Nam. - Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu nêu trên, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, cũng như các giải pháp tổng thể nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta. 4. Phạm vi nghiên cứu Đăng ký giao dịch bảo đảm là vấn đề còn mới mẻ ở nước ta, bước đầu mới chỉ nhận được sự quan tâm của một bộ phận trong xã hội. Do vậy, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tôi không thể giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có liên quan tới pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm. Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản nhất, các quy định pháp luật của Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời đề xuất một số giải pháp bước đầu tháo gỡ những bất cập của pháp luật hiện hành và các biện pháp bổ trợ nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước ta được trình bày trong các văn kiện, nghị quyết và các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp cũng sẽ được sử dụng ở mức độ phù hợp để hoàn thành mục tiêu của đề tài. 6. Những kết quả đạt được của luận văn Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm. Đây chính là đóng góp lớn nhất của Luận văn. Những vấn đề cụ thể về lý luận, cách nhìn nhận, đánh giá luật thực định và thực tiễn, từ đó đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này sẽ là những đóng góp có giá trị đối với công tác nghiên cứu khoa học, công tác lập pháp và áp dụng pháp luật của luận văn. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm đảm Chương 2: Pháp luật hiện hành và khái quát thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM 1.1.1. Khái niệm về đăng ký giao dịch bảo đảm Trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm đa dạng hoá các kênh và hình thức động viên nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, để có nguồn vốn bền vững, thì giải pháp cơ bản, lâu dài là phải phát triển và hoàn thiện các công cụ tạo lập vốn thông qua thị trường vốn, với tiêu chí hàng đầu của hoạt động tín dụng là "An toàn Hiệu quả- Phát triển bền vững- Hội nhập quốc tế" [7]. Do vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý về đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng tín dụng một cách an toàn, hiệu quả. Trong những năm gần đây, trước những yêu cầu của thực tiễn, pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm ngày càng được hoàn thiện, tạo tiền đề quan trọng để các tổ chức, cá nhân thuận lợi trong việc tiếp cận với các nguồn tín dụng và an toàn pháp lý trong giao dịch dân sự, kinh tế. Mặc dù, pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm, đặc biệt là đối với động sản đang ngày càng tiếp cận với pháp luật nhiều nước có hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm phát triển, nhưng đến thời điểm hiện nay, từ giác độ pháp luật thực định và khoa học pháp lý, Việt Nam vẫn chưa có một khái niệm chính thức về đăng ký giao dịch bảo đảm. Vậy đăng ký giao dịch bảo đảm được định nghĩa như thế nào? Theo tôi, trước khi xây dựng khái niệm về đăng ký giao dịch bảo đảm, cần xuất phát từ khái niệm "đăng ký". Có rất nhiều định nghĩa về "đăng ký" trong các công trình nghiên cứu và sách tham khảo, ví dụ như: Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, năm 2005 thì "Đăng ký: Ghi vào sổ của cơ quan quản lý" [38, tr. 232]. Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, năm 1998 thì "Đăng ký: Đứng ra khai báo để được cấp Giấy công nhận về quyền hạn, nghĩa vụ nào đó" [43, tr. 601]. Về vấn đề này, Từ điển Tiếng Việt Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Trung tâm Từ điển, năm 1994 có định nghĩa: "Đăng ký: Ghi vào Sổ của cơ quan quản lý để chính thức công nhận cho hưởng quyền lợi hay làm nghĩa vụ" [39, tr. 284]. Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính Nhà xuất bản Lao động, năm 2002 có nêu: "Đăng ký: Thể thức ghi chép vào sổ sách nhà nước đặt ra như: đăng ký kết hôn, đăng ký kinh doanh, đăng ký chứng khoán... Những sự kiện được nghi chép vào sổ là không thể chối cãi được" [38, tr. 232] . Qua các định nghĩa nêu trên, tôi nhận thấy, dù các tác giả nhìn nhận và định nghĩa khác nhau về đăng ký, song vẫn có thể tổng hợp nội hàm của khái niệm đăng ký bao gồm các đặc điểm chủ yếu sau đây: (i) đăng ký là hành vi ghi vào sổ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (ii) đăng ký làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người thực hiện đăng ký và (iii) những thông tin được ghi vào sổ của cơ quan đăng ký có thẩm quyền là chứng cứ khách quan, không thể chối cãi. Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Bách khoa và Nhà Xuất bản Tư pháp, năm 2006 tại trang 235 mặc dù không định nghĩa về đăng ký giao dịch bảo đảm nhưng đã định nghĩa về đăng ký việc cầm cố. Đăng ký việc cầm cố là (cơ quan nhà nước có thẩm quyền) công nhận và chứng thực về phương diện pháp lý quan hệ dân sự được bảo đảm bằng tài sản cầm cố. Đăng ký việc cầm có là thủ tục do pháp luật quy định. Đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì việc dùng tài sản đó cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải đăng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là thủ tục bắt buộc. Khái niệm trên đã đề cập đến những nội dung như: chủ thể của hành vi đăng ký (cơ quan nhà nước có thẩm quyền), nguyên tắc đăng ký (đăng ký tự nguyện hoặc đăng ký bắt buộc), thủ tục đăng ký do pháp luật quy định. Song, khái niệm về đăng ký việc cầm cố trong Từ điển Luật học chưa thể hiện được hai nội dung đặc biệt quan trọng, khác biệt với đăng ký các sự kiện pháp lý khác (ví dụ: đăng ký phương tiện giao thông cơ giới, đăng ký kết hôn...), đó là: giá trị pháp lý của việc đăng ký và thời điểm có hiệu lực của việc đăng ký cầm cố, vì khoản 3 Điều 323 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định "trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký" [35, tr. 126]. Từ định nghĩa về đăng ký và đăng ký việc cầm cố, trên cơ sở nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành và tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia, tôi nhận thấy, khái niệm dưới đây thể hiện rõ nét nhất bản chất và đặc điểm của đăng ký giao dịch bảo đảm: Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Giao dịch bảo đảm đã đăng ký có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật quy định và thông tin về giao dịch bảo đảm được cơ quan đăng ký có thẩm quyền cung cấp là chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm. Đây cũng là chính là khái niệm hiện nhận được sự ủng hộ của nhiều chuyên gia pháp lý. Tuy nhiên, phân loại đăng ký giao dịch bảo đảm thì có 2 loại là: đăng ký thông báo và đăng ký xác minh [26, tr. 262]. Điểm khác biệt căn bản nhất của đăng ký thông báo so với đăng ký xác minh là cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm không kiểm tra tính xác thực của giấy tờ, tài liệu đăng ký và việc đăng ký được thực hiện hoàn toàn trên cơ sở nội dung kê khai của người yêu cầu đăng ký. Hiểu rõ bản chất của đăng ký thông báo và đăng ký xác minh sẽ giúp chúng ta xây dựng được quy phạm pháp luật phù hợp và tương thích để điều chỉnh. 1.1.2. Đặc điểm của đăng ký giao dịch bảo đảm Để có được khái niệm chính xác, cũng như để hiểu rõ hơn bản chất của đăng ký giao dịch bảo đảm, tôi phân tích một số đặc điểm chủ yếu của đăng ký giao dịch bảo đảm như sau: Thứ nhất: Việc chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm do đơn vị dịch vụ công thực hiện. Chủ thể có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm chính là các đơn vị dịch vụ công, do nhà nước uỷ quyền thực hiện việc cung cấp dịch vụ cho người dân. Do đó, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm hoạt động theo nguyên tắc tài chính "lấy thu, bù chi" và đa phần các quốc gia đều "tách biệt" hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm với chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm. Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm được xác định theo loại tài sản bảo đảm, theo địa giới hành chính - lãnh thổ hoặc theo địa vị pháp lý của bên nhận bảo đảm (tổ chức hoặc cá nhân). Tuỳ thuộc điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội, mỗi quốc gia sẽ quyết định, lựa chọn mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm phân tán hoặc tập trung, cũng như xác định mức độ tập trung khác nhau. Hiện nay, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam được tổ chức tương ứng 4 loại tài sản, cụ thể là: (i) quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, (ii) tàu bay, (iii) tàu biển và (iv) động sản khác không phải tàu bay, tàu biển. Thứ hai: Đăng ký giao dịch bảo đảm làm phát sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba. Giao dịch bảo đảm được đăng ký làm phát sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba. Đây là vấn đề mấu chốt của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Để có thể khuyến khích sự phát triển của nguồn tín dụng, pháp luật các nước phải quy định cụ thể, chi tiết vấn đề này. Về nguyên tắc, hợp đồng bảo đảm được ký kết hợp pháp làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa hai bên chủ thể (bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm) nhưng không đương nhiên phát sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba. Do DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CÁC VĂN BẢN, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Đả ng Cộ ng sả n Việ t Nam, Nghị quyế t số 08-NQ/T.Ư củ a Ban Chấ p hà nh Trung ư ơ ng tạ i hộ i nghị lầ n thứ tư khóa X về mộ t số chủ trư ơ ng chính sách lớ n đ ể nề n kinh tế phát triể n nhanh và bề n vữ ng khi Việ t Nam là thà nh viên củ a Tổ chứ c Thư ơ ng mạ i Thế giớ i, Hà Nộ i. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC 3. Chính phủ (2000), Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3 về đăng ký giao dịch bảo đảm, Hà Nội. 4. (2003), Chỉ thị số 21/2003/CT-Ttg ngày 02/10 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm đã đề cập đến nội dung này nhưng chậm được triển khai trên thực tế, Hà Nội. Chính phủ 5. Chính phủ (2005), Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9 quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự, Hà Nội. 6. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, Hà Nội. 7. Chính phủ (2006), Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. ốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 8. Qu 9. Qu ốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 10. Quốc hội (2003), Những sửa đổi cơ bản của Luật Đất đai năm 2003, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 11. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC 12. Allen Welsh (2004), Giới thiệu mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm trên thế giới, tài liệu phục vụ xây dựng dự án Pháp lệnh Đăng ký giao dịch bảo đảm. 13. Bộ luật dân sự Sài Gòn (1972) Cơ sở Thần Chung xuất bản, Sài Gòn. 14. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Báo cáo về dự án VLAP, ngày 03/4, Hà Nội. 15. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (2005), Báo cáo tổng hợp công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, Hà Nội. 16. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp (2005), Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm pháp luật nước ngoài về đăng ký bất động sản trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội. 17. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp (2006): Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Báo cáo phúc trình đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. 18. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp (2006), Kinh nghiệm quốc tế về giao dịch bảo đảm thuộc tài liệu trình Chính phủ dự thảo Nghị định về giao dịch bảo đảm, Hà Nội. 19. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (2007), Tài liệu tập huấn pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, Hà Nội. 20. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (2007), Công văn số 281/CVNHCTBĐ-KHCN ngày 09/7/2007 của Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Bình Định. 21. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp (2007), Tờ trình số 126/TTr-CĐKGDBĐ ngày 08/6, Hà Nội. 22. Nguyễn Ngọc Điện (2006), "Mối quan hệ giữa đăng ký bất động sản và xác lập đối với bất động sản", Nghiên cứu lập pháp, (12). 23. Elaine MacEachern (2003), Báo cáo đánh giá về thủ tục hoạt động và tổ chức của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Dự án TA 4060. 24. FIAS và IFC (2007), Việt Nam tăng cường cơ hội tiếp cận tín dụng thông qua cải cách về giao dịch bảo đảm. 25. Nguyễn Thúy Hiền, Sự phát triển của pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của Việt Nam - So sánh với pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của Cộng hòa Liên bang Đức, Nxb các Luận án tiến sỹ trên mạng, Cộng hòa Liên bang Đức. 26. Nguyễn Thúy Hiền (2006), "Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay", Sách chuyên khảo: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, (Lê Thị Thu Thủy chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội. 27. Nguyễn Thúy Hiền (2007), "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam - Những kết quả đạt được và định hướng trong thời gian tới", Hội thảo khoa học: Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm nhằm hoàn thiện tăng cường cơ hội tiếp cận tín dụng tại Việt Nam và giới thiệu về tài trợ các khoản phải thu, do Bộ Tư pháp và IFC tổ chức ngày 27/6 tại Hà Nội. 28. Vũ Thị Minh Hồng (2006), Lý luận và thực tiễn về giao dịch bảo đảm trong pháp luật hàng hải, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại hoc Quốc gia Hà Nội. 29. Luật mẫu của EU về đăng ký giao dịch bảo đảm. 30. Vũ Văn Mẫu (1974), Pháp luật thông khảo, Tập II - Dân luật khái luận, Sài Gòn. 31. Ngân hàng thế giới (2006), Ấn phẩm Môi trường kinh doanh, Hà Nội. 32. Ngân hàng thế giới và Công ty Tài chính quốc tế (2006), Môi trường kinh doanh năm 2006. 33. Phạm Duy Nghĩa (2006), "Minh định quyền tài sản nhà đất", Báo Tuổi trẻ online, ngày 03/8. 34. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2005), Số chuyên đề về Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005, Hà Nội. 36. Đinh Văn Thanh (1996), "Nghiên cứu một số di sản pháp luật dân sự từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc", Đề tài khoa học cấp Bộ: Những quy định pháp luật dân sự Việt Nam trong thời kỳ phong kiến, Bộ Tư pháp, Hà Nội. 37. Trung tâm cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (2007), Báo cáo tổng hợp phục vụ đoàn cán bộ khảo sát tại Canada, Hà Nội. 38. Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính (2002), Nxb Lao động, Hà Nội. 39. Từ điển tiếng Việt (1994), Nxb Khoa học xã hội và Trung tâm Từ điển, Hà Nội. 40. Trần Đông Tùng (2007), "Hiện đại hoá hệ thống đăng ký các giao dịch bảo đảm của Việt Nam", Hội thảo khoa học: Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tín dụng tại Việt Nam và giới thiệu về tài trợ các khoản phải thu, Bộ Tư pháp và IFC tổ chức, Hà Nội, 6/2007. 41. Trần Đông Tùng (2007), "Hiện đại hoá hệ thống đăng ký các giao dịch bảo đảm của Việt Nam", Hội thảo khoa học: Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tín dụng tại Việt Nam và giới thiệu về tài trợ các khoản phải thu, Bộ Tư pháp và IFC tổ chức, Hà Nội. 42. Xaca Vacaxum và Tori Aridumi (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 44. Việt Nam tăng cường cơ hội tiếp cận tín dụng thông qua cải cách về giao dịch bảo đảm (2007). VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan