Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản...

Tài liệu Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản

.PDF
90
1
97

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH UNG NHẬT HƯNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH-10-2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN Chuyên ngành: Luật Kinh tế Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380107 Người hướng dẫn khoa học : Pgs. Ts. Phan Huy Hồng Học viên lớp : Ung Nhật Hưng : 18CHKT-K30-NC, khóa 30 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản” là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi với sự hướng dẫn của Pgs.Ts. Phan Huy Hồng. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, các thông tin trích dẫn trong bài luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong Luận văn, tôi cam đoan rằng những phần còn lại của Luận văn này chưa từng được công bố hoặc sử dụng để nhận bằng cấp ở nơi khác. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022 Tác giả Ung Nhật Hưng DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Luật Phá sản, Luật Phá sản của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam LPS TS Tài sản HĐ Hoạt động QTV Quản tài viên DN Doanh nghiệp HTX Hợp tác xã DNQLTLTS Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản BLDS Bộ luật Dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................. 6 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN ........ 10 1.1. Khái quát về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản ...................................................................................................... 10 1.1.1. Khái niệm phá sản và giải quyết phá sản................................................ 10 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động quản lý tài sản ............................... 12 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động thanh lý tài sản .............................. 17 1.2. Chức năng, vai trò của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phá sản ................................................................................................................ 19 1.2.1. Chức năng, vai trò của hoạt động quản lý tài sản .................................. 19 1.2.2. Chức năng, vai trò của hoạt động thanh lý tài sản ................................. 19 1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản ..................................... 20 1.3. Quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản ........................................................................... 21 1.3.1. Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 .................................................... 22 1.3.2. Luật Phá sản năm 2004 .......................................................................... 25 1.3.3. Luật phá sản năm 2014 ........................................................................... 27 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 30 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ......................................................... 32 2.1. Các quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong pháp luật Việt Nam hiện nay ...................................................................................................... 32 2.1.1. Các quy định về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản ................................... 32 2.1.2. Các quy định về đối tượng quản lý, thanh lý tài sản ............................... 37 2.1.3. Các quy định về thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của chủ thể quản lý ..... 38 2.1.4. Các quy định về thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của chủ thể thanh lý.... 42 2.1.5. Các quy định về thủ tục quản lý tài sản .................................................. 45 2.1.6. Các quy định về thủ tục thanh lý tài sản ................................................. 49 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản ở Việt Nam, kiến nghị hoàn thiện pháp luật ....................................................... 52 2.2.1. Thực trạng về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm 2014 ở Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện ......................................................... 52 2.2.2. hực trạng về đối tượng quản lý, thanh lý tài sản và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ........................................................................................................... 57 2.2.3. Thực trạng về thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của chủ thể quản lý trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Kiến nghị hoàn thiện ................................ 58 2.2.4. Thực trạng về thủ tục quản lý tài sản theo Luật phá sản 2014. Kiến nghị hoàn thiện ......................................................................................................... 70 2.2.5. Thực trạng về thủ tục thanh lý tài sản theo Luật phá sản 2014. Kiến nghị hoàn thiện ......................................................................................................... 72 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 75 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong tình hình kinh tế hiện nay, đặt biệt là trong giai đoạn dịch bệnh Covid19, các chủ thể kinh doanh nói chung đều gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh dẫn đến thất thoát tài chính, thua lỗ diễn ra nhiều hơn so với trước đây. Theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, trong thời gian diễn ra dịch bệnh, người dân phải thực hiện cách ly xã hội theo chỉ đạo của Chính quyền từng địa phương. Trong thời gian cách ly này chỉ những doanh nghiệp cung cấp nhu yếu phẩm, thực phẩm cần thiết mới được hoạt động. Như vậy, các chủ thể kinh doanh còn lại đều tạm ngừng hoạt động. Việc tạm ngừng này kéo dài dẫn đến các chủ thể kinh doanh không có nguồn thu nhập, kinh phí duy trì sản xuất, trả lương người lao động nên nhiều chủ thể kinh doanh lâm vào tình trạng khó khăn, thua lỗ, thất thoát tài chính. Dịch bệnh đã đẩy tỉ lệ các chủ thể kinh doanh lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán lên cao hơn so với trước. Trước tình hình đó, các quy định về phá sản nói chung và quy định về quản lý, thanh lý tài sản nói riêng rất đáng được quan tâm. Luật phá sản năm 2014 ra đời đã phát triển các quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của Luật phá sản năm 2004 theo hướng cụ thể hơn, tiến bộ, phù hợp hơn. Trước đây các doanh nghiệp, hợp tác xã tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhiều hơn quan tâm đến các vấn đề về phá sản nên Luật phá sản năm 2014 chưa được nhắc đến rộng rãi, chưa được tiềm hiểu nhiều như các đạo luật phổ biến khác như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đất đai,... Chính vì vậy, mặc dù Luật phá sản năm 2014 có hiệu lực thi hành khoảng 07 (bảy) năm nhưng các quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vẫn còn rất mới mẻ với các doanh nghiệp, hợp tác xã và khi các vấn đề liên quan đến phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên tham gia thủ tục phá sản thì họ không có biện pháp đối phó kịp thời. Bên cạnh dịch bệnh bùng phát thì tình hình, diễn biến các cuộc phá sản hiện nay đang rất phức tạp, kéo dài khiến cho nền kinh tế chậm phát triển, gây ra áp lực kinh tế, khó khăn cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản, các chủ nợ, tổ chức, cá nhân liên quan đến những vụ việc phá sản đang rất cần Nhà nước có những biện pháp thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị rơi vào tình trạng phá sản một cách hiệu quả, triệt 2 để nhất, tối ưu nhất nguồn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán. Các doanh nghiệp, chủ nợ, người lao động, … họ cần được bảo toàn nguồn tài sản của mình, cần được giải quyết nhanh chóng các quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong các vụ việc phá sản. Để thực hiện những điều đó, pháp luật cần hoàn thiện hơn các quy định về quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản 2014 để cho các quy định này được thực thi mạnh mẽ, hiệu quả, nhanh chóng hơn nữa. Luật phá sản năm 2014 có nhiều thay đổi khác biệt so với các quy định cũ về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong Luật phá sản doanh nghiệp 1993 và Luật phá sản 2004. Nhưng sau khoảng 07 (bảy) năm thi hành, Luật Phá sản 2014 cũng đã trở nên cũ, bộc lộ nhiều điểm bất cập, mục tiêu giải quyết nhanh chóng các khoản nợ đến hạn cho chủ nợ chưa đạt được. Việc áp dụng các quy định cũ, các công trình nghiên của Luật cũ vào hoạt động quản lý thanh lý tài sản sẽ không còn phù hợp. Qua tìm hiểu các vụ việc bị mở thủ tục phá sản, tác giả nhận thấy việc áp dụng các quy định của Luật Phá sản 2014 vào thực tiễn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa được hiệu quả. Chính vì thế, Tác giả chọn đề tài “Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản” để nghiên cứu, phân tích, làm rõ các quy định, thực trạng hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản. Tác giả mong muốn đóng góp những kiến thức, kiến nghị để hoàn thiện quy định pháp luật về thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản theo Luật phá sản năm 2014 sao cho hiệu quả. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể thấy, vấn đề phá sản là mối đe dọa lớn của doanh nghiệp, hợp tác xã nên tất yếu sẽ có không ít Tác giả đã từng khai thác các chủ đề liên quan đến phá sản và các vấn đề xoay quanh hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong lĩnh vực phá sản Một là, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân – khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2008) về đề tài “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam”. Vào thời điểm thực hiện công trình này, Luật phá sản 2004 đang có hiệu lực và Luật phá sản 2014 vẫn chưa được soạn thảo, lấy ý kiến ban hành. Chính vì thế, tác giả Vũ Thị Hồng Vân chỉ nghiên cứu các quy định về thủ tục quản lý, xử lý tài sản trong Luật phá sản 2004 mà đặc biệt là phân 3 tích, đánh giá những quy định pháp luật, hạn chế, bất cập của mô hình Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Có thể thấy, lúc này pháp luật phá sản không quy định về chủ thể Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản nên các quy định về thẩm quyền, quyền và nhiệm vụ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản không được nghiên cứu, làm rõ. Khi Luật phá sản 2014 ra đời đã thay đổi chủ thể quản lý, thanh lý tài sản nên kéo theo các quy định về quản lý, thanh lý tài sản cũng khác biệt rõ rệch so với Luật phá sản 2004. Các quy định về Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã không còn phù hợp và đã bị bãi bỏ thay vào đó là mô hình Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Chính vì thế, Luận văn của tôi sẽ đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về quy trình, thủ tục, chủ thể, đối tượng quản lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản 2014. Hai là, Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế của tác giả Lưu Thị Phấn tại Học viện Khoa học xã hội (2020) về đề tài “Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay”. Công trình nghiên cứu của tác giả Lưu Thị Phấn chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng, kiến nghị về một phần của quá trình quản lý, thanh lý tài sản đó là “quản lý tài sản”. Đối với phần còn lại “thanh lý tài sản” thì luận văn của tác giả Lưu Thị Phấn không nghiên cứu, không đề cập. Trong quá trình nghiên cứu, phân tích các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tác giả Lưu Thị Phấn chỉ mới phân tích, nghiên cứu một số khía cạnh nhất định của chủ thể, đối tượng, quyền, nghĩa vụ của chủ thể, phương thức quản lý theo Luật Phá sản 2014 chứ không nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, đầy đủ nhất các quy định về quản lý thanh lý tài sản. Tương tự ở hạn chế, bất cập trong hoạt động quản lý tài sản, tác giả Lưu Thị Phấn cũng chỉ mới nêu phân tích, nghiên cứu một số vấn đề nhất định trong quá trình quản lý tài sản chứ không bao hàm tất cả các bất cập, hạn chế của Luật phá sản 2014 về quản lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản. Luận văn của tác giả Lưu Thị Phấn cho thấy các quy định về hoạt động quản lý tài sản theo Luật phá sản 2014 vẫn còn chưa được hoàn thiện và cần sửa đổi. Những vấn đề pháp lý, các quy định, bất cập, hạn chế về hoạt động quản lý tài sản theo Luật phá sản 2014 sẽ còn rất nhiều. Chính vì thế, trong luận văn này một mặt Tác giả sẽ kế thừa và phát triển hơn nữa các nội dung đã được phân tích, nghiên cứu trong luận văn của tác giả Lưu Thị Phấn, mặt khác Tác giả phát hiện và giải quyết các vấn đề pháp lý, bất cập, hạn chế mới liên quan đến hoạt động quản lý tài sản 4 trong quá trình giải quyết phá sản theo Luật phá sản 2014, đồng thời tiến hành nghiên cứu, giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh, hạn chế, bất cập của hoạt động “thanh lý tài sản” theo Luật phá sản 2014 mà trong Luận văn của tác giả Lưu Thị Phấn không nghiên cứu.Ba là, Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đức Hải (2018) về đề tài “Pháp luật về quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng”. Luận văn của tác giả Nguyễn Đức Hải cũng nghiên cứu về các quy định của Luật Phá sản 2014, cụ thể là về chế định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Đây là một đề tài khá nổi bật bởi vì chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một chế định hoàn toàn mới, là kết quả học hỏi kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới cũng như từ kinh nghiệm giải quyết phá sản tại Việt Nam qua các năm. Quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản là một chủ thể chính giữ vai trò quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản. Tuy nhiên, Luận văn cũng chỉ dừng lại ở phân tích, nghiên cứu về một khía cạnh của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản đó là khía cạnh chủ thể. Luận văn cũng chỉ phân tích thực trạng liên quan đến khía cạnh này ở một không gian địa lý nhỏ hẹp là thành phố Đà Nẵng nên người đọc rất thắc mắc về thực trạng của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản theo Luật Phá sản 2014 ở những vùng khác ra sao. Do đó, các quy định về quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản là một trong những nội dung mà ở Luận văn này Tác giả sẽ đi nghiên cứu, phân tích cùng với các vấn đề về đối tượng, quyền, nghĩa vụ của chủ thể, thủ tục quản lý, thanh lý tài sản để có cái nhìn tổng quát, đầy đủ về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Bốn là, bài viết nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tuấn Hải được đăng tải trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử vào ngày 02/04/2018 về đề tài “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Bài viết của tác giả Nguyễn Tuấn Hải chỉ nêu sơ lược về bối cảnh ra đời, điểm mới của Luật Phá sản 2014 và chủ yếu tập trung phân tích những điểm hạn chế, vướng mắc của Luật Phá sản 2014 về thanh lý tài sản. Tác giả nêu được 06 (sáu) điểm bất cập, vướng mắc và đề xuất giải pháp kiến nghị cho sáu điểm bất cập, vướng mắc này. Đó là các vấn đề liên quan đến quy định về giới hạn tài sản phá sản; tài sản loại trừ khỏi khối tài sản phá sản; những định hướng để hoàn thiện chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; vấn đề về thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; định giá lại tài sản; thời hạn gửi bản kiểm kê tài sản. Trong luận văn này, Tác giả 5 cũng có những quan điểm đồng thuận, kế thừa và phát huy các quan điểm về đối tượng thanh lý tài sản phá sản, hoàn thiện chế định quản tài viên đồng thời Tác giả có những đóng góp riêng về vấn đề xử lý thu hồi nợ và các vấn đề khác ngoài những nội dung mà tác giả Nguyễn Tuấn Hải nghiên cứu. Thứ hai, những công trình nghiên cứu có liên quan khác. Một là, Tác giả Dương Kim Thế Nguyên đã có một công trình nghiên cứu về “Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam”. Đây là công trình nghiên cứu cấp Tiến sĩ của tác giả Dương Kim Thế Nguyên, được bảo vệ và công bố vào năm 2015 trong bối cảnh Luật Phá sản 2014 vừa mới ban hành, có hiệu lực thi hành. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành pháp luật phá sản ở nước ta chưa có Tổ chức tín dụng nào bị tuyên bố phá sản. Tổ chức tín dụng là chủ thể đặc biệt trong mô hình kinh tế. Sự phá sản tổ chức tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đất nước: kinh tế, chính trị, xã hội,… Nếu xảy ra một vụ việc phá sản tổ chức tín dụng thì chúng ta không có nhiều kinh nghiệm, lúng túng, vấp phải nhiều thất bại, khó khăn là điều dễ hiểu. Nhưng nếu có thể lường trước, có thể nghiên cứu, hoạch định cách xử lý để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro, tiêu cực thì điều đó chúng ta rất nên làm. Chính vì vậy, Luật Phá sản rất ưu tiên cho vấn đề phá sản tổ chức tín dụng. Tác giả Dương Kim Thế Nguyên đã phát hiện và đề cập vấn đề này trong công trình nghiên cứu cấp tiến sĩ của mình. Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Kim Thế Nguyên chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích sự phá sản của một chủ thể đặc biệt là tổ chức tín dụng. Nhưng ngoài tổ chức tín dụng, các chủ thể kinh doanh khác (doanh nghiệp, hợp tác xã) cũng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Cho đến hiện nay, cả nước ta chỉ có một tổ chức tín dụng duy nhất bị mở thủ tục và tuyên bố phá sản đó là Công ty cho thuê tài chính II – Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt là “ALCII”) theo Quyết định tuyên bố phá sản số 1009/2018/QĐ-TBPS ngày 31/07/2018. Còn lại thực tiễn giải quyết các vụ việc phá sản đến hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong luận văn này, Tác giả kế thừa và phát huy phương pháp so sánh Luật Phá sản 2004, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 và Luật Phá sản 2014 để thấy sự tiến bộ của nền lập pháp. Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Kim Thế Nguyên tìm hiểu về thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng, đây như là một cơ sở, mô hình gơi ý để Tác giả tìm hiểu, phân tích các quy định về quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã nói chung theo Luật Phá sản 2014. 6 Hai là, công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thái Phúc về Luật phá sản 2004, những tiến bộ và hạn chế. Nội dung nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thái Phúc chủ yếu nghiên cứu điểm mới của Luật Phá sản 2004 và cho thấy sự tiến bộ của nền lập pháp. Những đóng góp của tác giả Nguyễn Thái Phúc giúp cho các nhà làm luật sau này có thêm cơ sở tham khảo, hoàn thiện và xây dựng Luật Phá sản 2014 ngày càng tiến bộ hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài này là làm rõ các vấn đề lý luận, các vấn đề pháp lý về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản theo luật phá sản năm 2014, phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản. Qua đó, tác giả muốn giúp người đọc hiểu rõ hơn về các khải niệm, chủ thể, đối tượng, quyền và nghĩa vụ của chủ thể, thủ tục, quá trình quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản. Thông qua việc phân tích các quy định quản lý, thanh lý tài sản, so sách, liệt kê những ưu, nhược điểm của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm 2014, tác giả sẽ phát hiện và giải quyết các vấn đề mang tính lý luận trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản, kế thừa và phát triển một, một số nội dung trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm 2014. Ngoài ra, đề tài còn giúp chỉ ra các hạn chế của pháp luật phá sản trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản hiện nay, đưa ra những ý kiến đóng góp, kiến nghị, đề xuất phương án hoàn thiện hệ thống pháp luật phá sản Việt Nam, tìm ra cách thức vận dụng các quy định của Luật phá sản năm 2014 để quản lý, thanh lý tài sản một cách hữu dụng nhất, kiến nghị cách tối ưu hóa các ưu điểm của quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản, phòng ngừa rủi ro doanh nghiệp và ngăn ngừa các tổn thất kinh tế. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm cơ sơ tham khảo, tư vấn cho các doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, quản tài viên khi hoạt động quản lý, thanh lý tài sản 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Về đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật và thực trạng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản hiện nay. Luật phá sản 2014 có đối tượng áp dụng là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Do đó, những 7 quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản có đối tượng áp dụng cũng dành cho tất cả các đối tượng trên. Tuy nhiên hiện nay tình trạng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phá sản rất ít, ngược lại tình trạng phá sản doanh nghiệp diễn ra nhiều hơn, phức tạp, ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế của nước ta, ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp, người lao động, cơ quan nhà nước nên nhu cầu tiềm hiểu về thủ tục quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản trở nên thật cần thiết. Chính vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật, các vấn đề lý luận, thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản để đảm bảo được thời gian nghiên cứu và có điều kiện tiềm hiểu chuyên sâu về từng vụ việc thực tiễn. Qua đó, tác giả cũng đóng góp những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Pháp luật phá sản ở Việt Nam đã ra đời từ rất lâu và trải qua ba lần hoàn thiện: Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật phá sản năm 2004 và Luật phá sản năm 2014. Qua đó hoạt động quản lý, thanh lý tài sản cũng ngày càng hoàn thiện, phát triển hơn. Đối với đề tài này, Tác giả không nghiên cứu về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật phá sản năm 2004. Đối với hai giai đoạn này đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác khai thác xung quanh vấn đề phá sản và hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Hiện nay Luật phá sản năm 2014 đang có hiệu lực áp dụng nên các quy định của hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên không còn phù hợp để tác giả phân tích nữa. Do đó, trong phạm vi thời gian, Tác giả chỉ nghiên cứu các quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản cũng như thực tiễn các vụ việc phá sản từ khi Luật phá sản năm 2014 ra đời đến nay để làm rõ các đối tượng nghiên cứu ở trên. Việc Tác giả đề cập, sử dụng Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 trong luận văn chỉ để so sánh, đối chiếu làm rõ sự khác biệt, tiến bộ của Luật Phá sản 2014 trong thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài “Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản” mang tính chất tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của Luật Phá sản 2014 về các vấn đề pháp lý liên quan đến quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác 8 xã bị mở thủ tục phá sản. Do vậy, trong luận văn, tác giả sử dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng các quy định, trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản và nêu kiến nghị hoàn thiện pháp luật phù hợp. Những phương pháp nghiên cứu quan trọng, được sử dụng thường xuyên trong Luận văn này bao gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp: trong luận văn tác giả có trích dẫn nhiều quy định của pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản phá sản. Chính vì vậy để làm sáng tỏ các đặc điểm, yếu tổ, nội dung điều chỉnh của các quy phạm pháp luật này, tác giả đã dùng phương pháp phân tích. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích cũng được tác giả sử dụng khi phân tích vụ việc điển hình để thấy được những hạn chế, bất cập trong việc thi hành pháp luật quản lý, thanh lý tài sản trên thực tế. Sau khi phân tích các quy định pháp luật, các vụ việc điển hình tác giả đã chỉ ra được những bất cập, hạn chế và tổng hợp lại những vấn đề pháp lý cần được hoàn thiện. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật phù hợp. Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản” tác giả phát hiện nhiều quy định, thuật ngữ có nhiều cách hiểu khác nhau ở nhiều văn bản. Bằng phương pháp so sánh, tác giả đã làm rõ ưu điểm, nhược điểm các quy định, thuật ngữ được nhắc đến trong Luật Phá sản và trong quá trình giải quyết phá sản và nêu ra được các khái niệm quan trọng. Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng mỗi khi tác giả nghiên cứu vụ việc thực tiễn, đưa ra quan điểm cá nhân, nhận xét tính hợp pháp, hợp lý của một sự kiện cụ thể. Phương pháp nghiên cứu định tính cũng được tác giả sử dụng để đưa ra những đề xuất, đóng góp giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Phương pháp quan sát kết hợp với phương pháp thống kê số liệu: qua quá trình làm việc, trải nghiệm đi công tác và học tập tác giả đã có cơ hội quan sát, theo dõi, trải nghiệm thực tiễn, chứng kiến nhiều vụ việc điển hình như vụ việc ALCII. Tác giả đã thu thập được nhiều số liêu, tư liệu liên quan đến hoạt động quản lý, thanh lý tài sản đến hiện nay. Cụ thể là những số liệu Tòa án cung cấp như số liệu thống kê việc giải quyết các vụ việc phá sản, số lượng thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản qua các thời kỳ. Hoặc những tài liệu liên quan đến việc kiểm kê tài sản, lập danh sách người mắc nơ,.. tại nhiều nơi còn gặp khó khăn, vướn mắc không thể thực hiện được,…. 9 Phương pháp lịch sử: đề tài cũng có sự liên hệ với các văn bản quy phạm pháp luật cũ như Luật Phá sản 2004 và Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 để thấy được quá trình hình thành và phát triển pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Cho nên phương pháp lịch sử đươc tác giả sử dụng để làm sáng tỏ đểm mới, điểm bất cập, hạn chế còn tồn tại của các quy định pháp luật có liên quan, các khái niệm, đặc điểm quản lý, thanh lý tài sản hiện nay để đưa ra những giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 10 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN 1.1. Khái quát về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã đứng trên bờ vực phá sản, mà không có khả năng phục hồi kinh doanh thì khả năng cao Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Khi đó doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ chính thức chấm dứt sự tồn tại, chấm dứt tư cách pháp nhân, các chủ nợ sẽ được thanh toán dựa trên giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và được chia theo thứ tự ưu tiên thanh toán quy định tại Điều 54 Luật Phá sản 2014. Như vậy dù doanh nghiệp, hợp tác xã chưa thanh toán xong khoản nợ, các chủ nợ chưa đòi được nợ, nếu tài sản không đủ để chi trả cho toàn bộ nghĩa vụ nợ thì theo quy trình, thủ tục tố tụng, Tòa án nhân dân vẫn ra quyết định tuyên bố phá sản và doanh nghiệp, hợp tác xã đó vẫn chấm dứt tồn tại, sau khi thanh lý hết tài sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã được xóa nợ. Muốn biết hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản là gì cần phải hiểu phá sản và giải quyết phá sản là gì. Sau đây tác giả muốn nói sơ về phá sản và giải quyết phá sản, để từ đó nêu khái niệm, đặc điểm của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản cho người đọc hiểu rõ hơn về hoạt động này mà không nhầm lẫn với các hoạt động quản lý, thanh lý khác, biết được sự cần thiết của nó. 1.1.1. Khái niệm phá sản và giải quyết phá sản Thứ nhất, dưới góc độ ngôn ngữ học, theo từ điển tiếng Việt “phá sản là lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì và thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ trả nợ”.1 Từ điển Black Law của Nhà xuất bản West Group cũng cho ra khái niệm phá sản như sau: phá sản là “một thủ tục pháp lý, bắt nguồn từ tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ, qua đó con nợ được giải phóng khỏi các khoản nợ và phải trải qua một quá trình tổ chức lại có giám sát tư pháp hoặc thanh lý [tài sản hoặc doanh nghiệp] vì lợi ích của các chủ nợ”2 1 2 Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, năm 2003, tr.762 Black’s Law Dictionary, Nhà xuất bản West Group, Seventh Edition, tr.141 11 Thứ hai, dưới góc độ khoa học pháp lý phá sản là “tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”3. Như vậy, một doanh nghiệp, hợp tác xã không thể tự nhiên làm ăn thua lỗ, tự ra thông báo tuyên bố phá sản để rút khỏi thị trường mà để được công nhận là phá sản thì cần phải đáp ứng hai điều kiện cần và đủ như sau: Điều kiện cần là Doanh nghiệp, hợp tác xã đã bị mất khả năng thanh toán; điều kiện đủ là bị Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản. Trong đó, “mất khả năng thanh toán là tình trạng doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”4. Luật Phá sản 2014 đã tiến bộ hơn khi đưa ra khái niệm mất khả năng thanh toán như đã nêu, đây là cách nhận diện dấu hiệu phá sản sớm nhất của một doanh nghiệp, hợp tác xã. Sau đó, mặt dù doanh nghiệp, hợp tác xã đã mất khả năng thanh toán và không có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã cũng không thể tự tuyên bố phá sản được. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc những người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khác quy định tại Điều 5 Luật Phá sản 2014 phải nộp đơn đến Tòa án để tiến hành mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định. Theo đó, sau khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ xem xét ra quyết định thụ lý vụ án và quyết định mở thủ tục phá sản, tiến hành chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản để giải quyết phá sản. Có thể thấy, giải quyết phá sản là toàn bộ quá trình xử lý của Tòa án từ khâu tiếp nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thụ lý đơn, ra quyết định mở thủ tục phá sản, triển khai hội nghị chủ nợ, tuyên bố phá sản cho đến khi thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản. Tóm lại, có nhiều cách hiểu khác nhau về phá sản và giải quyết phá sản nhưng có thể thấy phá sản và giải quyết phá sản là cách làm chấm dứt tình trạng vỡ nợ, tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc chấm dứt hoạt động, chấm dứt tư cách pháp nhân của một chủ thể kinh doanh bằng phán quyết của Tòa án, bằng một thủ tục tư pháp đặc biệt. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất có chức năng giải quyết phá sản, giải quyết các nghĩa vụ về tài sản của chủ thể kinh doanh khi lâm vào tình trạng phá sản. Bằng cách phá sản, các chủ thể kinh doanh có thể rút lui khỏi thị 3 4 Khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản 2014 Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014 12 trường kinh doanh một cách hợp pháp, tương tự như việc giải thể. Nhưng phá sản và giải quyết phá sản là con đường rút lui gay go, phức tạp hơn. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động quản lý tài sản Hoạt động quản lý tài sản có nguồn gốc rất xa xôi. Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin “vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, vật chất quyết định ý thức”5. Từ khi xã hội loài người có sự xuất hiện của nhiều công cụ lao động mới như đồ đồng, đồ sắt con người đã làm ra của cải dư thừa nhiều hơn. Chính của cải dư thừa đã quyết định ý thức con người cần bảo vệ tài sản, thành quả lao động của họ. Con người dần dần biết giữ gìn, bảo quản sản phẩm của mình làm ra để phục vụ lợi ích cá nhân. Lúc này, do tài sản còn ít nên việc duy trì tài sản chỉ ở mức độ thấp, chỉ dừng ở mức của cải ai làm ra người ấy tự cất giữ, giữ gìn cẩn thận. Nhưng đến giai đoạn của cải dư thừa nhiều, xã hội dẫn đến sự phân hóa giai cấp. Đối với giai cấp giàu có họ rất quan trọng việc giữ gìn tài sản, nhu cầu quản lý tài sản ngày càng tăng cao, do đó xã hội xuất hiện đội ngũ trông coi, quản lý tài sản và công việc trông coi, giữ gìn tài sản xuất hiện. Lúc này, tài sản được giữ gìn, trông coi, bảo quản có trình tự, tổ chức và có người đảm đương trách nhiệm chuyên biệt hơn, hoạt động quản lý tài sản được chuyên môn hóa hơn. Để hiểu rõ hơn khái niệm hoạt động quản lý tài sản, tác giả lần lượt đi tìm hiểu các khái niệm riêng lẻ: “hoạt động” là gì? “quản lý” là gì? “Tài sản” là gì? Thứ nhất, khái niệm “hoạt động”, theo từ điển Bách khoa Việt Nam “hoạt động là một phương pháp đặc thù của con người quan hệ với thế giới chung quanh nhằm cải tạo thế giới theo hướng phục vụ cuộc sống của mình. Trong mối quan hệ ấy, chủ thể của HĐ là con người, khách thể của HĐ là tất cả những gì mà HĐ tác động vào, qua đó tạo ra được sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể, mục đích trên đây thể hiện trong nhiều lĩnh vực và trên nhiều dạng HĐ: kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, tư tưởng, lý luận, văn hóa, tâm lí,vv. Nhưng hình thức cơ bản, có ý nghĩa quyết định là thực tiễn xã hội. HĐ thường được chia thành hai loại: HĐ hướng ngoại nhằm cải tạo thiên nhiên và xã hội; HĐ hướng nội nhằm cải tạo bản thân con người. Hai loại HĐ ấy gắn liền mật thiết với nhau vì con người có thể cải tại mình trong quá trình cải tạo thiên nhiên và xã hội. HĐ bao giờ cũng mang tính Bộ giáo dục và đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLeenin, Chủ biên Ts. Nguyễn Viết Thông, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.58 5 13 lịch sử qua các thời đại khác nhau.”6 Từ khái niệm này, hoạt động chính là toàn bộ những cách thức, phương pháp mà con người sử dụng để tác động vào thế giới quang, thế giới vật chất, mục đích của hoạt động là nhằm cải tạo, biến đổi thế giới quang theo ý chí, suy nghĩ, mong muốn của con người một cách có lợi cho con người. Thứ hai, khái niệm “quản lý”: hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu định nghĩa về “quản lý”. Ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau mà khái niệm “quản lý” của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cũng khác nhau. Chính vì vậy, chưa có một khái niệm “quản lý” nào được công bố chung, được thừa nhận duy nhất hoặc là khái niệm chính thống. “Quản lý” là gì thì tùy theo quan điểm cá nhân, cách thức tiếp cận của mỗi người. Ở bài viết này, Tác giả sẽ phân tích khái niệm “quản lý” dựa theo một số công trình nghiên cứu nổi tiếng, được công nhận rộng rãi như từ điển Bách khoa Việt Nam, từ điển tiếng Việt, và một số công trình nổi tiếng khác,… để làm rõ như thế nào là “hoạt động quản lý tài sản”. Một là, dưới góc độ ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt đưa ra quan điểm “quản lý” có hai nghĩa là: “trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định” và “tổ chức, điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.”7 Như vậy hoạt động “quản lý” là sự kết hợp nhiều công việc cùng một lúc. Quản lý làm cho đối tượng được quản lý vẫn duy trì được sự tồn tại, hơn thế nữa có tính ổn định, tích cực và phát triển. Theo Từ điển Luật học, “quản lý” cũng được hiểu theo hai nghĩa: “1. Nghĩa rộng: làm cho hoạt động, tư duy của từng người riêng lẻ, hoạt động của các tổ chức với những cơ chế khoa học, tiến hành phù hợp với mục đích, lợi ích chung nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất, nhiều nhất, ít chi phí nhất trong thời gian nhanh nhất. Quản lý được thực hiện dưới các dạng: quản lý của nhà nước, quản lý của tổ chức chính trị xã hội, quản lý của tổ chức nghề nghiệp, quản lý của tổ chức kinh doanh, sản xuất, dịch vụ, quản lý của các tổ chức lực lượng chuyên trách như quản lý của các lực lượng vũ trang, quản lý của các trại gian giữ, vv. Quản lý được thực hiện bằng ba loại biện pháp chủ yếu: a) biện pháp kinh tế, b) biện pháp hành chính, c) biện pháp giáo dục,… Quản lý được thực hiện bằng nhiều hình thức tác động như lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, khen thưởng, xử phạt, kiểm tra, kiểm kê, kiểm Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa Hà Nội, năm 2002, tr.354 7 Từ điển tiếng việt, Viện ngôn ngữ học, năm 2003, tr958 6 14 soát, thanh tra, giám sát, đúc kết kinh nghiệm, phổ biến và nhân rộng mô hình, cách làm tiên tiến, có hiệu quả, kịp thời bãi bỏ những cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, vv. Quản lý là một khoa học, một dạng nghệ thuật và ngày càng được đề cao. 2. Nghĩa hẹp: là giữ gìn, bảo quản: quản lý tài sản, quản lý hồ sơ, tài liệu, vv.”.8 Các công trình nghiên cứu trên đều có điểm chung khi phân tích khái niệm “quản lý” có hai nghĩa riêng biệt. Tổng quát, dưới góc độ ngôn ngữ học thì khái niệm “quản lý” đã chỉ rõ ra hai hoạt động là giữ gìn, bảo vệ, trông coi đối tượng quản lý và hoạt động tổ chức, sắp xếp, lên kế hoạch sao cho việc giữ gìn, bảo vệ, trông coi đối tượng quản lý đạt được hiệu quả nhất. Hai là, dưới góc độ khoa học, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cũng có khái niệm, nhìn nhận khác nhau về quản lý. Đối với các nhà khoa học nước ngoài, khái niệm quản lý được hiểu như sau: theo F.W Taylor “Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất, rẻ nhất”; theo Warren Bennis “Quản lý là một cuộc thử nghiệm gắt gao trong cuộc đời mỗi cá nhân, và điều đó sẽ mài giũa họ trở thành các nhà lãnh đạo”; theo Mariparker Follit (18681933) “Quản lý là một nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông qua người khác”. Các khái niệm này mang tình trừu tượng, ví von hơn là định nghĩa rõ ràng đặc điểm của từ “quản lý”. Việc hiểu khái niệm “quản lý” qua các khái niệm này rất khó hiểu và khó hình dung ra việc “quản lý” là như thế nào. Trái ngược với các nhà khoa học trên thế giới, các nhà nghiên cứu trong nước đưa ra quan điểm riêng về quản lý và có phần cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu hơn các nhà khoa học nước ngoài. Cụ thể: tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng “Quản lý là một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra những nổ lực của các thành viên trong một tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt được những mục tiêu cụ thể”9. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể, người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến”10. Tác giả Trần Kiểm cho rằng “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều Từ điển luật học, Viện khoa học pháp lý (2006), NXB Tư Pháp, tr382 Đặng Quốc Bảo (2003), Tổng quan về tổ chức quản lý, Tài liệu giảng dạy cho lớp cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý Đại học Huế 10 Nguyễn Ngọc Quang (1998), Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục, trường CBQLGD Trung ương 1. Tr.24 8 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan