BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
UNG NHẬT HƯNG
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
TP HỒ CHÍ MINH-10-2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380107
Người hướng dẫn khoa học : Pgs. Ts. Phan Huy Hồng
Học viên
lớp
: Ung Nhật Hưng
: 18CHKT-K30-NC, khóa 30
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản
trong quá trình giải quyết phá sản” là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân
tôi với sự hướng dẫn của Pgs.Ts. Phan Huy Hồng. Số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, các thông tin trích dẫn trong bài luận
văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong Luận văn, tôi cam
đoan rằng những phần còn lại của Luận văn này chưa từng được công bố hoặc sử
dụng để nhận bằng cấp ở nơi khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022
Tác giả
Ung Nhật Hưng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Luật Phá sản,
Luật Phá sản của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
LPS
TS
Tài sản
HĐ
Hoạt động
QTV
Quản tài viên
DN
Doanh nghiệp
HTX
Hợp tác xã
DNQLTLTS
Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
BLDS
Bộ luật Dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2005
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ,
THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN ........ 10
1.1. Khái quát về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải
quyết phá sản ...................................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm phá sản và giải quyết phá sản................................................ 10
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động quản lý tài sản ............................... 12
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động thanh lý tài sản .............................. 17
1.2. Chức năng, vai trò của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục
phá sản ................................................................................................................ 19
1.2.1. Chức năng, vai trò của hoạt động quản lý tài sản .................................. 19
1.2.2. Chức năng, vai trò của hoạt động thanh lý tài sản ................................. 19
1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản ..................................... 20
1.3. Quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt
động quản lý, thanh lý tài sản ........................................................................... 21
1.3.1. Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 .................................................... 22
1.3.2. Luật Phá sản năm 2004 .......................................................................... 25
1.3.3. Luật phá sản năm 2014 ........................................................................... 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ,
THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ......................................................... 32
2.1. Các quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong pháp luật Việt
Nam hiện nay ...................................................................................................... 32
2.1.1. Các quy định về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản ................................... 32
2.1.2. Các quy định về đối tượng quản lý, thanh lý tài sản ............................... 37
2.1.3. Các quy định về thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của chủ thể quản lý ..... 38
2.1.4. Các quy định về thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của chủ thể thanh lý.... 42
2.1.5. Các quy định về thủ tục quản lý tài sản .................................................. 45
2.1.6. Các quy định về thủ tục thanh lý tài sản ................................................. 49
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản ở
Việt Nam, kiến nghị hoàn thiện pháp luật ....................................................... 52
2.2.1. Thực trạng về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm
2014 ở Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện ......................................................... 52
2.2.2. hực trạng về đối tượng quản lý, thanh lý tài sản và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật ........................................................................................................... 57
2.2.3. Thực trạng về thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của chủ thể quản lý trong
hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Kiến nghị hoàn thiện ................................ 58
2.2.4. Thực trạng về thủ tục quản lý tài sản theo Luật phá sản 2014. Kiến nghị
hoàn thiện ......................................................................................................... 70
2.2.5. Thực trạng về thủ tục thanh lý tài sản theo Luật phá sản 2014. Kiến nghị
hoàn thiện ......................................................................................................... 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 75
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tình hình kinh tế hiện nay, đặt biệt là trong giai đoạn dịch bệnh Covid19, các chủ thể kinh doanh nói chung đều gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh
doanh dẫn đến thất thoát tài chính, thua lỗ diễn ra nhiều hơn so với trước đây. Theo
Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các
biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, trong thời gian diễn ra dịch bệnh,
người dân phải thực hiện cách ly xã hội theo chỉ đạo của Chính quyền từng địa
phương. Trong thời gian cách ly này chỉ những doanh nghiệp cung cấp nhu yếu
phẩm, thực phẩm cần thiết mới được hoạt động. Như vậy, các chủ thể kinh doanh còn
lại đều tạm ngừng hoạt động. Việc tạm ngừng này kéo dài dẫn đến các chủ thể kinh
doanh không có nguồn thu nhập, kinh phí duy trì sản xuất, trả lương người lao động
nên nhiều chủ thể kinh doanh lâm vào tình trạng khó khăn, thua lỗ, thất thoát tài
chính. Dịch bệnh đã đẩy tỉ lệ các chủ thể kinh doanh lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán lên cao hơn so với trước. Trước tình hình đó, các quy định về phá sản nói
chung và quy định về quản lý, thanh lý tài sản nói riêng rất đáng được quan tâm.
Luật phá sản năm 2014 ra đời đã phát triển các quy định về hoạt động quản
lý, thanh lý tài sản của Luật phá sản năm 2004 theo hướng cụ thể hơn, tiến bộ, phù
hợp hơn. Trước đây các doanh nghiệp, hợp tác xã tập trung nguồn lực phát triển
kinh tế nhiều hơn quan tâm đến các vấn đề về phá sản nên Luật phá sản năm 2014
chưa được nhắc đến rộng rãi, chưa được tiềm hiểu nhiều như các đạo luật phổ biến
khác như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đất đai,... Chính vì vậy, mặc dù Luật
phá sản năm 2014 có hiệu lực thi hành khoảng 07 (bảy) năm nhưng các quy định về
hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vẫn còn rất mới mẻ với các doanh nghiệp, hợp
tác xã và khi các vấn đề liên quan đến phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của các bên tham gia thủ tục phá sản thì họ không có biện pháp đối phó kịp thời.
Bên cạnh dịch bệnh bùng phát thì tình hình, diễn biến các cuộc phá sản hiện nay
đang rất phức tạp, kéo dài khiến cho nền kinh tế chậm phát triển, gây ra áp lực kinh
tế, khó khăn cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các doanh nghiệp, hợp tác xã bị
mở thủ tục phá sản, các chủ nợ, tổ chức, cá nhân liên quan đến những vụ việc phá
sản đang rất cần Nhà nước có những biện pháp thực hiện quản lý, thanh lý tài sản
của doanh nghiệp, hợp tác xã bị rơi vào tình trạng phá sản một cách hiệu quả, triệt
2
để nhất, tối ưu nhất nguồn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng
thanh toán. Các doanh nghiệp, chủ nợ, người lao động, … họ cần được bảo toàn
nguồn tài sản của mình, cần được giải quyết nhanh chóng các quyền lợi, nghĩa vụ
của mình trong các vụ việc phá sản. Để thực hiện những điều đó, pháp luật cần hoàn
thiện hơn các quy định về quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản 2014 để cho
các quy định này được thực thi mạnh mẽ, hiệu quả, nhanh chóng hơn nữa.
Luật phá sản năm 2014 có nhiều thay đổi khác biệt so với các quy định cũ về
hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong Luật phá sản doanh nghiệp 1993 và Luật phá
sản 2004. Nhưng sau khoảng 07 (bảy) năm thi hành, Luật Phá sản 2014 cũng đã trở
nên cũ, bộc lộ nhiều điểm bất cập, mục tiêu giải quyết nhanh chóng các khoản nợ đến
hạn cho chủ nợ chưa đạt được. Việc áp dụng các quy định cũ, các công trình nghiên
của Luật cũ vào hoạt động quản lý thanh lý tài sản sẽ không còn phù hợp. Qua tìm
hiểu các vụ việc bị mở thủ tục phá sản, tác giả nhận thấy việc áp dụng các quy định
của Luật Phá sản 2014 vào thực tiễn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa được hiệu
quả. Chính vì thế, Tác giả chọn đề tài “Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong
quá trình giải quyết phá sản” để nghiên cứu, phân tích, làm rõ các quy định, thực
trạng hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản. Tác giả
mong muốn đóng góp những kiến thức, kiến nghị để hoàn thiện quy định pháp luật về
thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ
tục phá sản theo Luật phá sản năm 2014 sao cho hiệu quả.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể thấy, vấn đề phá sản là mối đe dọa lớn của doanh nghiệp, hợp tác xã
nên tất yếu sẽ có không ít Tác giả đã từng khai thác các chủ đề liên quan đến phá
sản và các vấn đề xoay quanh hoạt động quản lý, thanh lý tài sản.
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản
trong lĩnh vực phá sản
Một là, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân – khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội (2008) về đề tài “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy
định của pháp luật phá sản Việt Nam”. Vào thời điểm thực hiện công trình này,
Luật phá sản 2004 đang có hiệu lực và Luật phá sản 2014 vẫn chưa được soạn thảo,
lấy ý kiến ban hành. Chính vì thế, tác giả Vũ Thị Hồng Vân chỉ nghiên cứu các quy
định về thủ tục quản lý, xử lý tài sản trong Luật phá sản 2004 mà đặc biệt là phân
3
tích, đánh giá những quy định pháp luật, hạn chế, bất cập của mô hình Tổ quản lý,
thanh lý tài sản. Có thể thấy, lúc này pháp luật phá sản không quy định về chủ thể
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản nên các quy định về thẩm
quyền, quyền và nhiệm vụ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản
không được nghiên cứu, làm rõ. Khi Luật phá sản 2014 ra đời đã thay đổi chủ thể
quản lý, thanh lý tài sản nên kéo theo các quy định về quản lý, thanh lý tài sản cũng
khác biệt rõ rệch so với Luật phá sản 2004. Các quy định về Tổ quản lý, thanh lý tài
sản đã không còn phù hợp và đã bị bãi bỏ thay vào đó là mô hình Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Chính vì thế, Luận văn của tôi sẽ đi sâu
nghiên cứu một cách toàn diện về quy trình, thủ tục, chủ thể, đối tượng quản lý,
thanh lý tài sản theo Luật phá sản 2014.
Hai là, Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế của tác giả Lưu Thị Phấn tại Học viện
Khoa học xã hội (2020) về đề tài “Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay”. Công trình nghiên cứu của
tác giả Lưu Thị Phấn chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, thực
trạng, kiến nghị về một phần của quá trình quản lý, thanh lý tài sản đó là “quản lý
tài sản”. Đối với phần còn lại “thanh lý tài sản” thì luận văn của tác giả Lưu Thị
Phấn không nghiên cứu, không đề cập. Trong quá trình nghiên cứu, phân tích các
quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tác giả Lưu
Thị Phấn chỉ mới phân tích, nghiên cứu một số khía cạnh nhất định của chủ thể, đối
tượng, quyền, nghĩa vụ của chủ thể, phương thức quản lý theo Luật Phá sản 2014
chứ không nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, đầy đủ nhất các quy định về
quản lý thanh lý tài sản. Tương tự ở hạn chế, bất cập trong hoạt động quản lý tài
sản, tác giả Lưu Thị Phấn cũng chỉ mới nêu phân tích, nghiên cứu một số vấn đề
nhất định trong quá trình quản lý tài sản chứ không bao hàm tất cả các bất cập, hạn
chế của Luật phá sản 2014 về quản lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản.
Luận văn của tác giả Lưu Thị Phấn cho thấy các quy định về hoạt động quản lý tài
sản theo Luật phá sản 2014 vẫn còn chưa được hoàn thiện và cần sửa đổi. Những
vấn đề pháp lý, các quy định, bất cập, hạn chế về hoạt động quản lý tài sản theo
Luật phá sản 2014 sẽ còn rất nhiều. Chính vì thế, trong luận văn này một mặt Tác
giả sẽ kế thừa và phát triển hơn nữa các nội dung đã được phân tích, nghiên cứu
trong luận văn của tác giả Lưu Thị Phấn, mặt khác Tác giả phát hiện và giải quyết
các vấn đề pháp lý, bất cập, hạn chế mới liên quan đến hoạt động quản lý tài sản
4
trong quá trình giải quyết phá sản theo Luật phá sản 2014, đồng thời tiến hành
nghiên cứu, giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh, hạn chế, bất cập của hoạt động
“thanh lý tài sản” theo Luật phá sản 2014 mà trong Luận văn của tác giả Lưu Thị
Phấn không nghiên cứu.Ba là, Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đức
Hải (2018) về đề tài “Pháp luật về quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý,
thanh lý tài sản qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng”. Luận văn của tác giả Nguyễn
Đức Hải cũng nghiên cứu về các quy định của Luật Phá sản 2014, cụ thể là về chế
định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Đây là một đề tài khá nổi
bật bởi vì chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một chế
định hoàn toàn mới, là kết quả học hỏi kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia
trên thế giới cũng như từ kinh nghiệm giải quyết phá sản tại Việt Nam qua các năm.
Quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản là một chủ thể
chính giữ vai trò quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản. Tuy
nhiên, Luận văn cũng chỉ dừng lại ở phân tích, nghiên cứu về một khía cạnh của
hoạt động quản lý, thanh lý tài sản đó là khía cạnh chủ thể. Luận văn cũng chỉ phân
tích thực trạng liên quan đến khía cạnh này ở một không gian địa lý nhỏ hẹp là
thành phố Đà Nẵng nên người đọc rất thắc mắc về thực trạng của hoạt động quản lý,
thanh lý tài sản theo Luật Phá sản 2014 ở những vùng khác ra sao. Do đó, các quy
định về quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản là một trong
những nội dung mà ở Luận văn này Tác giả sẽ đi nghiên cứu, phân tích cùng với
các vấn đề về đối tượng, quyền, nghĩa vụ của chủ thể, thủ tục quản lý, thanh lý tài
sản để có cái nhìn tổng quát, đầy đủ về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản.
Bốn là, bài viết nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tuấn Hải được đăng tải trên
Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử vào ngày 02/04/2018 về đề tài “Thanh lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Bài viết của tác giả
Nguyễn Tuấn Hải chỉ nêu sơ lược về bối cảnh ra đời, điểm mới của Luật Phá sản
2014 và chủ yếu tập trung phân tích những điểm hạn chế, vướng mắc của Luật Phá
sản 2014 về thanh lý tài sản. Tác giả nêu được 06 (sáu) điểm bất cập, vướng mắc và
đề xuất giải pháp kiến nghị cho sáu điểm bất cập, vướng mắc này. Đó là các vấn đề
liên quan đến quy định về giới hạn tài sản phá sản; tài sản loại trừ khỏi khối tài sản
phá sản; những định hướng để hoàn thiện chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản; vấn đề về thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán;
định giá lại tài sản; thời hạn gửi bản kiểm kê tài sản. Trong luận văn này, Tác giả
5
cũng có những quan điểm đồng thuận, kế thừa và phát huy các quan điểm về đối
tượng thanh lý tài sản phá sản, hoàn thiện chế định quản tài viên đồng thời Tác giả
có những đóng góp riêng về vấn đề xử lý thu hồi nợ và các vấn đề khác ngoài
những nội dung mà tác giả Nguyễn Tuấn Hải nghiên cứu.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu có liên quan khác.
Một là, Tác giả Dương Kim Thế Nguyên đã có một công trình nghiên cứu về
“Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam”. Đây là công trình
nghiên cứu cấp Tiến sĩ của tác giả Dương Kim Thế Nguyên, được bảo vệ và công
bố vào năm 2015 trong bối cảnh Luật Phá sản 2014 vừa mới ban hành, có hiệu lực
thi hành. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành pháp luật phá sản ở nước ta chưa có Tổ
chức tín dụng nào bị tuyên bố phá sản. Tổ chức tín dụng là chủ thể đặc biệt trong
mô hình kinh tế. Sự phá sản tổ chức tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đất
nước: kinh tế, chính trị, xã hội,… Nếu xảy ra một vụ việc phá sản tổ chức tín dụng
thì chúng ta không có nhiều kinh nghiệm, lúng túng, vấp phải nhiều thất bại, khó
khăn là điều dễ hiểu. Nhưng nếu có thể lường trước, có thể nghiên cứu, hoạch định
cách xử lý để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro, tiêu cực thì điều đó chúng ta
rất nên làm. Chính vì vậy, Luật Phá sản rất ưu tiên cho vấn đề phá sản tổ chức tín
dụng. Tác giả Dương Kim Thế Nguyên đã phát hiện và đề cập vấn đề này trong
công trình nghiên cứu cấp tiến sĩ của mình. Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Kim
Thế Nguyên chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích sự phá sản của một chủ thể đặc biệt
là tổ chức tín dụng. Nhưng ngoài tổ chức tín dụng, các chủ thể kinh doanh khác
(doanh nghiệp, hợp tác xã) cũng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Cho
đến hiện nay, cả nước ta chỉ có một tổ chức tín dụng duy nhất bị mở thủ tục và
tuyên bố phá sản đó là Công ty cho thuê tài chính II – Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt là “ALCII”) theo Quyết định tuyên bố phá
sản số 1009/2018/QĐ-TBPS ngày 31/07/2018. Còn lại thực tiễn giải quyết các vụ
việc phá sản đến hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong luận văn
này, Tác giả kế thừa và phát huy phương pháp so sánh Luật Phá sản 2004, Luật Phá
sản doanh nghiệp 1993 và Luật Phá sản 2014 để thấy sự tiến bộ của nền lập pháp.
Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Kim Thế Nguyên tìm hiểu về thủ tục phá sản các
tổ chức tín dụng, đây như là một cơ sở, mô hình gơi ý để Tác giả tìm hiểu, phân tích
các quy định về quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã nói chung
theo Luật Phá sản 2014.
6
Hai là, công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thái Phúc về Luật phá sản
2004, những tiến bộ và hạn chế. Nội dung nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thái Phúc
chủ yếu nghiên cứu điểm mới của Luật Phá sản 2004 và cho thấy sự tiến bộ của nền
lập pháp. Những đóng góp của tác giả Nguyễn Thái Phúc giúp cho các nhà làm luật
sau này có thêm cơ sở tham khảo, hoàn thiện và xây dựng Luật Phá sản 2014 ngày
càng tiến bộ hơn.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài này là làm rõ các vấn đề lý luận, các vấn đề pháp
lý về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục
phá sản theo luật phá sản năm 2014, phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật
về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản. Qua đó, tác
giả muốn giúp người đọc hiểu rõ hơn về các khải niệm, chủ thể, đối tượng, quyền
và nghĩa vụ của chủ thể, thủ tục, quá trình quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản. Thông qua việc phân tích các quy định
quản lý, thanh lý tài sản, so sách, liệt kê những ưu, nhược điểm của hoạt động quản
lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm 2014, tác giả sẽ phát hiện và giải quyết
các vấn đề mang tính lý luận trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản, kế thừa và phát triển một, một số nội dung
trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm 2014. Ngoài ra, đề
tài còn giúp chỉ ra các hạn chế của pháp luật phá sản trong hoạt động quản lý, thanh
lý tài sản hiện nay, đưa ra những ý kiến đóng góp, kiến nghị, đề xuất phương án
hoàn thiện hệ thống pháp luật phá sản Việt Nam, tìm ra cách thức vận dụng các quy
định của Luật phá sản năm 2014 để quản lý, thanh lý tài sản một cách hữu dụng
nhất, kiến nghị cách tối ưu hóa các ưu điểm của quy định về hoạt động quản lý,
thanh lý tài sản, phòng ngừa rủi ro doanh nghiệp và ngăn ngừa các tổn thất kinh tế.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm cơ sơ tham khảo, tư vấn cho các doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, quản tài viên khi hoạt động quản lý, thanh lý tài sản
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, các quy
định pháp luật và thực trạng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động quản lý,
thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản hiện nay. Luật phá sản 2014 có
đối tượng áp dụng là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Do đó, những
7
quy định về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản có đối tượng áp dụng cũng dành cho
tất cả các đối tượng trên. Tuy nhiên hiện nay tình trạng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã phá sản rất ít, ngược lại tình trạng phá sản doanh nghiệp diễn ra nhiều hơn, phức
tạp, ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế của nước ta, ảnh hưởng đến quyền lợi của
các doanh nghiệp, người lao động, cơ quan nhà nước nên nhu cầu tiềm hiểu về thủ
tục quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản trở nên thật cần thiết.
Chính vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này Tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu các quy định pháp luật, các vấn đề lý luận, thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt
động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản để
đảm bảo được thời gian nghiên cứu và có điều kiện tiềm hiểu chuyên sâu về từng vụ
việc thực tiễn. Qua đó, tác giả cũng đóng góp những kiến nghị hoàn thiện quy định
pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Pháp luật phá sản ở Việt Nam đã ra đời từ
rất lâu và trải qua ba lần hoàn thiện: Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật phá
sản năm 2004 và Luật phá sản năm 2014. Qua đó hoạt động quản lý, thanh lý tài
sản cũng ngày càng hoàn thiện, phát triển hơn. Đối với đề tài này, Tác giả không
nghiên cứu về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị mở thủ tục
phá sản theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật phá sản năm 2004. Đối
với hai giai đoạn này đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác khai thác
xung quanh vấn đề phá sản và hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã. Hiện nay Luật phá sản năm 2014 đang có hiệu lực áp dụng nên các quy
định của hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên không còn phù hợp để tác giả
phân tích nữa. Do đó, trong phạm vi thời gian, Tác giả chỉ nghiên cứu các quy định
về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản cũng như thực tiễn các vụ việc phá sản từ khi
Luật phá sản năm 2014 ra đời đến nay để làm rõ các đối tượng nghiên cứu ở trên.
Việc Tác giả đề cập, sử dụng Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993 trong luận văn chỉ để so sánh, đối chiếu làm rõ sự khác biệt, tiến bộ của
Luật Phá sản 2014 trong thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý
tài sản hiện nay.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài “Pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá
sản” mang tính chất tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của Luật Phá sản 2014 về
các vấn đề pháp lý liên quan đến quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
8
xã bị mở thủ tục phá sản. Do vậy, trong luận văn, tác giả sử dụng rất nhiều phương
pháp nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng các quy định, trình tự, thủ tục
thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản và nêu kiến nghị hoàn thiện pháp luật
phù hợp. Những phương pháp nghiên cứu quan trọng, được sử dụng thường xuyên
trong Luận văn này bao gồm:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: trong luận văn tác giả có trích dẫn nhiều
quy định của pháp luật về quản lý, thanh lý tài sản phá sản. Chính vì vậy để làm
sáng tỏ các đặc điểm, yếu tổ, nội dung điều chỉnh của các quy phạm pháp luật này,
tác giả đã dùng phương pháp phân tích. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích cũng
được tác giả sử dụng khi phân tích vụ việc điển hình để thấy được những hạn chế,
bất cập trong việc thi hành pháp luật quản lý, thanh lý tài sản trên thực tế. Sau khi
phân tích các quy định pháp luật, các vụ việc điển hình tác giả đã chỉ ra được những
bất cập, hạn chế và tổng hợp lại những vấn đề pháp lý cần được hoàn thiện. Từ đó
đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật phù hợp.
Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản
lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản” tác giả phát hiện nhiều quy
định, thuật ngữ có nhiều cách hiểu khác nhau ở nhiều văn bản. Bằng phương pháp
so sánh, tác giả đã làm rõ ưu điểm, nhược điểm các quy định, thuật ngữ được nhắc
đến trong Luật Phá sản và trong quá trình giải quyết phá sản và nêu ra được các
khái niệm quan trọng.
Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng mỗi khi tác giả nghiên cứu
vụ việc thực tiễn, đưa ra quan điểm cá nhân, nhận xét tính hợp pháp, hợp lý của một
sự kiện cụ thể. Phương pháp nghiên cứu định tính cũng được tác giả sử dụng để đưa
ra những đề xuất, đóng góp giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động
quản lý, thanh lý tài sản.
Phương pháp quan sát kết hợp với phương pháp thống kê số liệu: qua quá
trình làm việc, trải nghiệm đi công tác và học tập tác giả đã có cơ hội quan sát, theo
dõi, trải nghiệm thực tiễn, chứng kiến nhiều vụ việc điển hình như vụ việc ALCII.
Tác giả đã thu thập được nhiều số liêu, tư liệu liên quan đến hoạt động quản lý,
thanh lý tài sản đến hiện nay. Cụ thể là những số liệu Tòa án cung cấp như số liệu
thống kê việc giải quyết các vụ việc phá sản, số lượng thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản qua các thời kỳ. Hoặc những tài liệu liên quan đến việc kiểm kê tài sản,
lập danh sách người mắc nơ,.. tại nhiều nơi còn gặp khó khăn, vướn mắc không thể
thực hiện được,….
9
Phương pháp lịch sử: đề tài cũng có sự liên hệ với các văn bản quy phạm
pháp luật cũ như Luật Phá sản 2004 và Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 để thấy
được quá trình hình thành và phát triển pháp luật về hoạt động quản lý, thanh lý tài
sản. Cho nên phương pháp lịch sử đươc tác giả sử dụng để làm sáng tỏ đểm mới,
điểm bất cập, hạn chế còn tồn tại của các quy định pháp luật có liên quan, các khái
niệm, đặc điểm quản lý, thanh lý tài sản hiện nay để đưa ra những giải pháp kiến
nghị hoàn thiện pháp luật.
10
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN
LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN
1.1.
Khái quát về hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải
quyết phá sản
Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã đứng trên bờ vực phá sản, mà không có
khả năng phục hồi kinh doanh thì khả năng cao Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Khi đó doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ chính thức
chấm dứt sự tồn tại, chấm dứt tư cách pháp nhân, các chủ nợ sẽ được thanh toán dựa
trên giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và được chia theo
thứ tự ưu tiên thanh toán quy định tại Điều 54 Luật Phá sản 2014. Như vậy dù
doanh nghiệp, hợp tác xã chưa thanh toán xong khoản nợ, các chủ nợ chưa đòi được
nợ, nếu tài sản không đủ để chi trả cho toàn bộ nghĩa vụ nợ thì theo quy trình, thủ
tục tố tụng, Tòa án nhân dân vẫn ra quyết định tuyên bố phá sản và doanh nghiệp,
hợp tác xã đó vẫn chấm dứt tồn tại, sau khi thanh lý hết tài sản thì doanh nghiệp,
hợp tác xã được xóa nợ. Muốn biết hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá
trình giải quyết phá sản là gì cần phải hiểu phá sản và giải quyết phá sản là gì. Sau
đây tác giả muốn nói sơ về phá sản và giải quyết phá sản, để từ đó nêu khái niệm,
đặc điểm của hoạt động quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản
cho người đọc hiểu rõ hơn về hoạt động này mà không nhầm lẫn với các hoạt động
quản lý, thanh lý khác, biết được sự cần thiết của nó.
1.1.1. Khái niệm phá sản và giải quyết phá sản
Thứ nhất, dưới góc độ ngôn ngữ học, theo từ điển tiếng Việt “phá sản là lâm
vào tình trạng tài sản chẳng còn gì và thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị thua lỗ,
thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ trả nợ”.1
Từ điển Black Law của Nhà xuất bản West Group cũng cho ra khái niệm phá sản
như sau: phá sản là “một thủ tục pháp lý, bắt nguồn từ tình trạng mất khả năng
thanh toán các khoản nợ, qua đó con nợ được giải phóng khỏi các khoản nợ và phải
trải qua một quá trình tổ chức lại có giám sát tư pháp hoặc thanh lý [tài sản hoặc
doanh nghiệp] vì lợi ích của các chủ nợ”2
1
2
Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, năm 2003, tr.762
Black’s Law Dictionary, Nhà xuất bản West Group, Seventh Edition, tr.141
11
Thứ hai, dưới góc độ khoa học pháp lý phá sản là “tình trạng của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định
tuyên bố phá sản”3. Như vậy, một doanh nghiệp, hợp tác xã không thể tự nhiên làm
ăn thua lỗ, tự ra thông báo tuyên bố phá sản để rút khỏi thị trường mà để được công
nhận là phá sản thì cần phải đáp ứng hai điều kiện cần và đủ như sau: Điều kiện cần
là Doanh nghiệp, hợp tác xã đã bị mất khả năng thanh toán; điều kiện đủ là bị Tòa
án ra quyết định tuyên bố phá sản. Trong đó, “mất khả năng thanh toán là tình
trạng doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ
trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”4. Luật Phá sản 2014 đã tiến
bộ hơn khi đưa ra khái niệm mất khả năng thanh toán như đã nêu, đây là cách nhận
diện dấu hiệu phá sản sớm nhất của một doanh nghiệp, hợp tác xã. Sau đó, mặt dù
doanh nghiệp, hợp tác xã đã mất khả năng thanh toán và không có khả năng phục
hồi hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã cũng không thể tự tuyên
bố phá sản được. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, hợp tác xã, chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc những người có quyền, nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khác quy định tại Điều 5 Luật Phá sản 2014
phải nộp đơn đến Tòa án để tiến hành mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
theo quy định. Theo đó, sau khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ
xem xét ra quyết định thụ lý vụ án và quyết định mở thủ tục phá sản, tiến hành chỉ
định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản để giải quyết phá sản.
Có thể thấy, giải quyết phá sản là toàn bộ quá trình xử lý của Tòa án từ khâu tiếp
nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thụ lý đơn, ra quyết định mở thủ tục phá sản,
triển khai hội nghị chủ nợ, tuyên bố phá sản cho đến khi thi hành xong quyết định
tuyên bố phá sản.
Tóm lại, có nhiều cách hiểu khác nhau về phá sản và giải quyết phá sản
nhưng có thể thấy phá sản và giải quyết phá sản là cách làm chấm dứt tình trạng vỡ
nợ, tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc chấm dứt hoạt động, chấm dứt tư cách
pháp nhân của một chủ thể kinh doanh bằng phán quyết của Tòa án, bằng một thủ
tục tư pháp đặc biệt. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất có chức năng giải
quyết phá sản, giải quyết các nghĩa vụ về tài sản của chủ thể kinh doanh khi lâm vào
tình trạng phá sản. Bằng cách phá sản, các chủ thể kinh doanh có thể rút lui khỏi thị
3
4
Khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản 2014
Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014
12
trường kinh doanh một cách hợp pháp, tương tự như việc giải thể. Nhưng phá sản
và giải quyết phá sản là con đường rút lui gay go, phức tạp hơn.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động quản lý tài sản
Hoạt động quản lý tài sản có nguồn gốc rất xa xôi. Theo quan điểm của triết
học Mác-Lênin “vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức, vật chất quyết định ý thức”5. Từ khi xã hội loài người có sự xuất hiện
của nhiều công cụ lao động mới như đồ đồng, đồ sắt con người đã làm ra của cải dư
thừa nhiều hơn. Chính của cải dư thừa đã quyết định ý thức con người cần bảo vệ
tài sản, thành quả lao động của họ. Con người dần dần biết giữ gìn, bảo quản sản
phẩm của mình làm ra để phục vụ lợi ích cá nhân. Lúc này, do tài sản còn ít nên
việc duy trì tài sản chỉ ở mức độ thấp, chỉ dừng ở mức của cải ai làm ra người ấy tự
cất giữ, giữ gìn cẩn thận. Nhưng đến giai đoạn của cải dư thừa nhiều, xã hội dẫn đến
sự phân hóa giai cấp. Đối với giai cấp giàu có họ rất quan trọng việc giữ gìn tài sản,
nhu cầu quản lý tài sản ngày càng tăng cao, do đó xã hội xuất hiện đội ngũ trông
coi, quản lý tài sản và công việc trông coi, giữ gìn tài sản xuất hiện. Lúc này, tài sản
được giữ gìn, trông coi, bảo quản có trình tự, tổ chức và có người đảm đương trách
nhiệm chuyên biệt hơn, hoạt động quản lý tài sản được chuyên môn hóa hơn. Để
hiểu rõ hơn khái niệm hoạt động quản lý tài sản, tác giả lần lượt đi tìm hiểu các khái
niệm riêng lẻ: “hoạt động” là gì? “quản lý” là gì? “Tài sản” là gì?
Thứ nhất, khái niệm “hoạt động”, theo từ điển Bách khoa Việt Nam “hoạt
động là một phương pháp đặc thù của con người quan hệ với thế giới chung quanh
nhằm cải tạo thế giới theo hướng phục vụ cuộc sống của mình. Trong mối quan hệ
ấy, chủ thể của HĐ là con người, khách thể của HĐ là tất cả những gì mà HĐ tác
động vào, qua đó tạo ra được sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể, mục đích
trên đây thể hiện trong nhiều lĩnh vực và trên nhiều dạng HĐ: kinh tế, chính trị, xã
hội, quân sự, tư tưởng, lý luận, văn hóa, tâm lí,vv. Nhưng hình thức cơ bản, có ý
nghĩa quyết định là thực tiễn xã hội. HĐ thường được chia thành hai loại: HĐ
hướng ngoại nhằm cải tạo thiên nhiên và xã hội; HĐ hướng nội nhằm cải tạo bản
thân con người. Hai loại HĐ ấy gắn liền mật thiết với nhau vì con người có thể cải
tại mình trong quá trình cải tạo thiên nhiên và xã hội. HĐ bao giờ cũng mang tính
Bộ giáo dục và đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLeenin, Chủ biên Ts. Nguyễn Viết Thông, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.58
5
13
lịch sử qua các thời đại khác nhau.”6 Từ khái niệm này, hoạt động chính là toàn bộ
những cách thức, phương pháp mà con người sử dụng để tác động vào thế giới
quang, thế giới vật chất, mục đích của hoạt động là nhằm cải tạo, biến đổi thế giới
quang theo ý chí, suy nghĩ, mong muốn của con người một cách có lợi cho con
người.
Thứ hai, khái niệm “quản lý”: hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu
định nghĩa về “quản lý”. Ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau mà khái niệm “quản lý”
của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cũng khác nhau. Chính vì vậy, chưa có một
khái niệm “quản lý” nào được công bố chung, được thừa nhận duy nhất hoặc là khái
niệm chính thống. “Quản lý” là gì thì tùy theo quan điểm cá nhân, cách thức tiếp
cận của mỗi người. Ở bài viết này, Tác giả sẽ phân tích khái niệm “quản lý” dựa
theo một số công trình nghiên cứu nổi tiếng, được công nhận rộng rãi như từ điển
Bách khoa Việt Nam, từ điển tiếng Việt, và một số công trình nổi tiếng khác,… để
làm rõ như thế nào là “hoạt động quản lý tài sản”.
Một là, dưới góc độ ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt đưa ra quan điểm
“quản lý” có hai nghĩa là: “trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định” và
“tổ chức, điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.”7 Như vậy hoạt
động “quản lý” là sự kết hợp nhiều công việc cùng một lúc. Quản lý làm cho đối
tượng được quản lý vẫn duy trì được sự tồn tại, hơn thế nữa có tính ổn định, tích
cực và phát triển. Theo Từ điển Luật học, “quản lý” cũng được hiểu theo hai nghĩa:
“1. Nghĩa rộng: làm cho hoạt động, tư duy của từng người riêng lẻ, hoạt động của
các tổ chức với những cơ chế khoa học, tiến hành phù hợp với mục đích, lợi ích
chung nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất, nhiều nhất, ít chi phí nhất trong thời gian
nhanh nhất. Quản lý được thực hiện dưới các dạng: quản lý của nhà nước, quản lý
của tổ chức chính trị xã hội, quản lý của tổ chức nghề nghiệp, quản lý của tổ chức
kinh doanh, sản xuất, dịch vụ, quản lý của các tổ chức lực lượng chuyên trách như
quản lý của các lực lượng vũ trang, quản lý của các trại gian giữ, vv. Quản lý được
thực hiện bằng ba loại biện pháp chủ yếu: a) biện pháp kinh tế, b) biện pháp hành
chính, c) biện pháp giáo dục,… Quản lý được thực hiện bằng nhiều hình thức tác
động như lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, khen thưởng, xử phạt, kiểm tra, kiểm kê, kiểm
Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa Hà Nội, năm 2002,
tr.354
7 Từ điển tiếng việt, Viện ngôn ngữ học, năm 2003, tr958
6
14
soát, thanh tra, giám sát, đúc kết kinh nghiệm, phổ biến và nhân rộng mô hình, cách
làm tiên tiến, có hiệu quả, kịp thời bãi bỏ những cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, vv.
Quản lý là một khoa học, một dạng nghệ thuật và ngày càng được đề cao. 2. Nghĩa
hẹp: là giữ gìn, bảo quản: quản lý tài sản, quản lý hồ sơ, tài liệu, vv.”.8 Các công
trình nghiên cứu trên đều có điểm chung khi phân tích khái niệm “quản lý” có hai
nghĩa riêng biệt. Tổng quát, dưới góc độ ngôn ngữ học thì khái niệm “quản lý” đã
chỉ rõ ra hai hoạt động là giữ gìn, bảo vệ, trông coi đối tượng quản lý và hoạt động
tổ chức, sắp xếp, lên kế hoạch sao cho việc giữ gìn, bảo vệ, trông coi đối tượng
quản lý đạt được hiệu quả nhất.
Hai là, dưới góc độ khoa học, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cũng có khái niệm, nhìn nhận khác nhau
về quản lý. Đối với các nhà khoa học nước ngoài, khái niệm quản lý được hiểu như
sau: theo F.W Taylor “Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau
đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất, rẻ nhất”; theo Warren
Bennis “Quản lý là một cuộc thử nghiệm gắt gao trong cuộc đời mỗi cá nhân, và
điều đó sẽ mài giũa họ trở thành các nhà lãnh đạo”; theo Mariparker Follit (18681933) “Quản lý là một nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông qua người
khác”. Các khái niệm này mang tình trừu tượng, ví von hơn là định nghĩa rõ ràng
đặc điểm của từ “quản lý”. Việc hiểu khái niệm “quản lý” qua các khái niệm này rất
khó hiểu và khó hình dung ra việc “quản lý” là như thế nào. Trái ngược với các nhà
khoa học trên thế giới, các nhà nghiên cứu trong nước đưa ra quan điểm riêng về
quản lý và có phần cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu hơn các nhà khoa học nước ngoài. Cụ
thể: tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng “Quản lý là một quá trình lập kế hoạch, tổ
chức, hướng dẫn và kiểm tra những nổ lực của các thành viên trong một tổ chức và
sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt được những mục tiêu cụ thể”9. Tác giả
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của
chủ thể quản lý đến tập thể, người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm
thực hiện được mục tiêu dự kiến”10. Tác giả Trần Kiểm cho rằng “Quản lý là những
tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều
Từ điển luật học, Viện khoa học pháp lý (2006), NXB Tư Pháp, tr382
Đặng Quốc Bảo (2003), Tổng quan về tổ chức quản lý, Tài liệu giảng dạy cho lớp cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý Đại học Huế
10 Nguyễn Ngọc Quang (1998), Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục, trường
CBQLGD Trung ương 1. Tr.24
8
9
- Xem thêm -