BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
MAI PHƯỚC BẢO
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN
KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 - NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
MAI PHƯỚC BẢO
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.S LƯỜNG MINH SƠN
TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 - NĂM 2022
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLLĐ
Bộ luật Lao động
ILO
International Labor Office (Tổ chức lao động thế giới)
LĐTENNĐHNH
Lao động trẻ em nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
NCTN
Người chưa thành niên
NLĐCTN
Người lao động chưa thành niên
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ........5
1.1. Những vấn đề lý luận về người lao động chưa thành niên ..............................5
1.1.1. Khái niệm người lao động chưa thành niên. .............................................5
1.1.2. Các khái niệm liên quan ............................................................................7
1.1.3. Đặc điểm của người lao động chưa thành niên .......................................12
1.1.4. Ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa thành niên
...........................................................................................................................13
1.2. Quy định pháp luật về người lao động chưa thành niên ................................14
1.2.1. Các quy định về tuyển dụng người lao động chưa thành niên ................15
1.2.2. Các quy định về sử dụng người lao động chưa thành niên .....................24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ ..............................................................................................................36
2.1. Thực trạng về người lao động chưa thành niên..............................................36
2.1.1. Thực trạng về việc làm của người lao động chưa thành niên .................36
2.1.2. Thực trạng về hợp đồng lao động. ..........................................................38
2.1.3. Thực trạng về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và tiền lương .........40
2.1.4. Thực trạng về lập sổ theo dõi, chăm sóc sức khỏe, an toàn lao động, vệ
sinh lao động đối với lao động chưa thành niên. ..............................................43
2.1.5. Thực trạng về áp dụng kỷ luật và trách nhiệm vật chất ..........................45
2.1.6. Thực trạng về thanh tra và xử lý vi phạm ...............................................46
2.2. Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật nhằm bảo vệ người lao
động chưa thành niên ............................................................................................46
2.2.1. Kiến nghị về độ tuổi ................................................................................46
2.2.2. Kiến nghị về thời gian nghỉ ngơi và thời gian làm việc ..........................47
2.2.3. Kiến nghị về tiền lương ...........................................................................48
2.2.4. Kiến nghị về việc bổ sung các quy định khi giao kết, sửa đổi, chấm dứt
hợp đồng lao động. ............................................................................................49
2.2.5. Kiến nghị bổ sung các quy định về thanh tra lao động. ..........................50
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................52
KẾT LUẬN ...............................................................................................................53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật lao động trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cho phép người
lao động chưa thành niên (NLĐCTN) được tham gia vào lao động, quy định này
nhằm đảm bảo quyền làm việc, quyền lao động và hơn thế nữa là giúp cho nhóm
người này có khả năng tài chính chăm lo cho cuộc sống, phụ giúp gia đình. Tuy
nhiên, xét về góc độ khoa học hay xã hội, người chưa thành niên (NCTN) có những
đặc điểm về thể chất và tinh thần không giống như người thành niên, họ vẫn chưa
phát triển đầy đủ và ổn định. Do vậy, ngoài việc đảm bảo quyền lao động của NCTN,
pháp luật quốc tế cũng như Việt Nam đều có quy định riêng biệt để bảo vệ nhóm
người này.
Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labor Office, ILO) đã đưa ra rất nhiều
Công ước để bảo vệ quyền lợi cho NLĐCTN nhưng được nhắc đến nhiều nhất có thể
kể đến hai Công ước: Công ước số 138 về độ tuổi lao động tối thiểu; Công ước số
182 về xóa bỏ các hình thức lao động tồi tệ nhất. Và một số Công ước có liên quan:
Công ước số 29 về xóa bỏ lao động cưỡng bức; Công ước số 100 về trả công bình
đẳng cho lao động nam và lao động nữ trong một công việc có giá trị ngang nhau;
Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp và các
công ước về làm việc ban đêm và kiểm tra y tế. Trong đó, Việt Nam đã là thành viên
của các Công ước số 138, Công ước số 182, Công ước số 29. Công ước số 006 về
công việc ban đêm của thanh niên, Công ước số 124 về kiểm tra y tế cho thanh niên1.
Tuy nhiên việc nội luật hóa của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong quá
trinh thực hiện để bảo vệ quyền lợi đầy đủ nhất cho NLĐCTN. Đồng thời, đại dịch
Covid 19 diễn ra trong suốt thời gian qua đã khiến cho nhiều trường học phải đóng
cửa. Hàng trăm triệu NCTN không có điều kiện để tham gia vào lớp học trực tuyến.
Nhiều gia đình gặp khó khăn tài chính. Chính vì những lý do này mà có thể gây ra
việc NTCN trở thành nguồn nhân công giá rẻ và tệ hơn nữa là diễn ra tình trạng lao
động trẻ em.
Bên cạnh đó, vào năm 2021 thì Bộ luật Lao động 2019 (sau đây gọi tắt là BLLĐ
2019) thay thế cho Bộ luật Lao động 2012 (Sau đây gọi tắt là BLLĐ 2012) đã bắt đầu
https://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORMLEXPUB:11200:0::NO::P11200_COUNTRY_ID:10300
4, truy cập ngày 8/4/2022.
1
2
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Mặc dù, BLLĐ 2019 có nhiều sự đổi mới
so với BLLĐ 2012 tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều điểm còn thiếu sót, chưa bảo vệ
tốt quyền lợi của NLĐCTN nên cần phải nghiên cứu để đưa ra hướng giải quyết.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về người lao động chưa
thành niên” làm đề tài nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua, có không ít những bài báo cũng như các bài nghiên
cứu về vấn đề NLĐCTN, nghiên cứu mô tả hiện tượng và nêu ra thực trạng sử dụng
NLĐCTN và đồng thời là những nghiên cứu chuyên sâu như vấn đề tuyển dụng và
sử dụng lao động chưa thành niên, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
“Pháp luật về vấn đề tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên” – Luận
văn thạc sĩ luật học của Lê Thị Hồng Vân, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2013. Nội dung bài viết đã đưa ra được các vấn đề lý luận người lao động
chưa thành niên, bên cạnh đó bài viết còn đưa ra những nghiên cứu về vấn đề tuyển
dụng và sử dụng người lao động chưa thành niên. Đồng thời, bài viết còn đưa ra thực
trạng và cách khắc phục được những vấn đề còn bất cập. Tuy vậy, một số kiến nghị
còn mang tính định hướng, chung chung.
“Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” – Luận
văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Nhàn, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
học viện khoa học xã hội, năm 2013; “Bảo vệ người lao động chưa thành niên theo
pháp luật lao động Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Thị Hồng Nhị,
trường đại học Trà Vinh, năm 2019. Hai bài viết đã đưa ra những nghiên cứu, phân
tích sâu và toàn diện các vấn đề về lao động chưa thành niên, bên cạnh đó đã đánh
giá được toàn diện về thực trạng pháp luật đối với người lao động chưa thành niên ở
Việt Nam. Chưa làm rõ được các khái niệm có liên quan đến người lao động chưa
thành niên và đồng thời ít có sự tham khảo, học hỏi pháp luật một số quốc gia khác.
“Pháp luật Việt Nam về sử dụng lao động chưa thành niên” – Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân luật của Bùi Thị Mỹ Viện, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2016. Nội dung bài viết đưa ra các vấn đề về sử dụng lao động chưa thành
niên và liên hệ với pháp luật nước ngoài, đồng thời cũng đưa ra giải pháp để giải
3
quyết các bất cập còn tồn tại. Tuy nhiên, một số kiến nghị không còn phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng trên tạp chí như: “Những vấn đề pháp
lý về lao động chưa thành niên” – Tiến sĩ Nguyễn Hữu Chí, trường Đại học Luật Hà
Nội đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 187/2003; “Pháp luật lao động đối
với người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp” – Tiến sĩ Nguyễn
Thanh Huyền đăng trên tạp chí Lao động và Xã hội số 521/2016. Cả hai bài viết đều
bàn về khía cạnh của lao động chưa thành niên nhưng do bài viết giới hạn ở việc
đăng trên tạp chí nên nội dung đề cập chưa mang được tính chuyên sâu các vấn đề có
liên quan.
Điểm chung của các bài viết này là nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để hoàn
thiện BLLĐ 2012 nhưng cho đến thời điểm hiện tại, BLLĐ 2019 đã chính thức có
hiệu lực, từ đó phát sinh những vấn đề mới. Trên cơ sở thừa kế các kết quả của những
tác giả đi trước, khóa luận tiếp tục nghiên cứu về người lao động chưa thành niên
nhưng trên nền tảng BLLĐ 2019 mới ra đời để đưa ra kiến nghị phù hợp hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về NLĐCTN, đi
sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, cũng như
nghiên cứu những điểm mới của BLLĐ 2019 so với BLLĐ 2012. Đồng thời, bài viết
cũng so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật trong nước với Công ước, Khuyến
nghị của Tổ chức lao động quốc tế ILO và pháp luật nước ngoài để có một cái nhìn
toàn diện về vấn đề này. Từ đó, phát hiện những vấn đề còn thiếu xót trong BLLĐ
2019 nhằm đưa ra những kiến nghị, giải pháp phù hợp để có thể bảo vệ quyền lợi cho
NLĐCTN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các quan hệ lao động được Pháp luật lao động điều chỉnh rất nhiều nhưng đề
tài không nghiên cứu toàn bộ các mối quan hệ này mà chỉ tập trung nghiên cứu một
vấn đề chủ yếu đó là các vấn đề liên quan đến lao động chưa thành niên. Để thực hiện
mục tiêu nghiên cứu, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong một phạm vi nhất định.
Cụ thể là đề tài nghiên cứu các quy định pháp luật trong Bộ luật Lao động 2019 về
lao động chưa thành niên, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động và một
4
số văn bản pháp luật có liên quan như Luật Trẻ em 2016, Bộ luật Dân sự 2015… Bên
cạnh đó bài viết cũng đưa ra một số văn bản pháp luật quốc tế (chủ yếu là các công
ước và khuyến nghị của ILO mà Việt Nam đã phê duyệt) và pháp luật của một số
nước tham gia ILO như Anh, Hoa Kỳ, NaUY, Nepal để dẫn chiếu, so sánh. Đồng thời,
người viết cũng nghiên cứu, đánh giá thực trạng ở Việt Nam để đưa ra những kiến
nghị phù hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận chủ yếu mà người viết sử dụng là phép duy vật biện chứng.
Đồng thời, người viết cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau
như: phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp để hoàn thành khóa luận.
6. Kết cấu đề tài
Kết cầu đề tài bao gồm: danh mục chữ viết tắt, mục lục, phần mở đầu, phần nội
dung, kết luận của khóa luận, danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung
được chia làm hai chương:
Chương 1: Khái quát về người lao động chưa thành niên.
Chương 2: Thực trạng về lao động chưa thành niên và một số kiến nghị
5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Những vấn đề lý luận về người lao động chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm người lao động chưa thành niên.
Khi nhắc đến khái niệm NLĐ, mọi người đều biết được rằng khái niệm này đang
nói đến những người làm việc cho những người sử dụng lao động (NSDLĐ) theo thỏa
thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao
động2. Khái niệm về NLĐCTN cũng tương tự như khái niệm NLĐ ở những mặt như
đều làm việc cho NSDLĐ theo thỏa thuận, được trả lương, chịu sự giám sát, quản lý
điều hành của người sử dụng lao động nhưng khác ở chỗ những người lao động này
là những NCTN và khi nói đến NCTN thì sẽ có các cách hiểu và các cách tiếp cận
khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “thành niên là người đến độ tuổi trưởng thành. Chưa
thành niên là người chưa đến tuổi trưởng thành”3. Hoặc theo Từ điển Longman
Dictionary of Business English của J.H.Adam thì “người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi”4. Tương tự, Từ điển Black’s Law Dictionary of Business English của
Bryan.A.Garner cũng định nghĩa: “người chưa thành niên là trẻ em và trẻ em là người
dưới 18 tuổi”5. Như vậy, xét từ định nghĩa của các từ điển trên, ta có thể thấy các từ
điển trên đã phân định NCTN dựa trên mốc tuổi của một con người và giới hạn độ
tuổi này là dưới 18 tuổi.
Trong một số bài viết nghiên cứu của các ngành tâm lý học, y học, sinh lý học
và các ngành khoa học khác có liên quan được đề cập trong các bài viết “Lao động
chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” của thạc sĩ Luật học
Nguyễn Thị Nhàn6 và bài viết “Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên
trong điều kiện hội nhập quốc tế” của Trần Thắng Lợi7 đều đề cập tới việc xác định
Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019
Bùi Thị Mỹ Viện (2016), Pháp luật Việt Nam về sử dụng lao động chưa thành niên, Trường đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, tr. 7.
4
Bùi Thị Mỹ Viện (2016), tlđd 3, tr. 7.
5
Bryan.A.Garner, Từ điển Black’s Law Dictionary, (2009), Publisher Company trích từ Bùi Thị Mỹ Viện
(2016), tlđd 3, tr.7.
6
Xem Nguyễn Thị Nhàn (2013), Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay,
chương 1, tr. 8.
7
Xem Trần Thắng Lợi (2012), Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập
quốc tế, chương 1, tr. 15, 16.
2
3
6
NTCN là người dưới 18 tuổi. Ở độ tuổi này, nhóm người này vẫn chưa hoàn toàn phát
triển đến mức độ hoàn chỉnh về trí tuệ và thể chất. Bên cạnh đó, ở lứa tuổi từ khoảng
15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Đây là khoảng thời gian mà đa số NCTN đang học trung
học cơ sở, ở cấp này NCTN đã có một lượng kiến thức khá phong phú giúp cho việc
tư duy logic hơn và biết cách suy nghĩ độc lập. Đồng thời ở tuổi này, các em đã bắt
đầu có định hướng và hướng về nghề nghiệp một cách hiện thực, nhiều em đã bắt đầu
có khả năng tạo ra của cải vật chất và kiếm tiền8 (ví dụ như đi làm thêm ngoài giờ
học). Không những thế, ở độ tuổi này các yếu tố đặc trưng như chiều cao, cân nặng,
sức mạnh cơ bắp, hệ xương dần đi vào sự phát triển ổn định, đồng thời sức mạnh cơ
bắp và khả năng làm việc tăng lên một cách rõ rệt. Hay nói cách khác, nhóm người
này đủ khả năng thực hiện một số công việc nhất định.
Về mặt pháp lý, các nhà luật học thường sử dụng cụm từ “người chưa thành
niên” để ám chỉ những người chưa đủ năng lực hành vi, chưa bị ràng buộc quá nhiều
về quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào các quan hệ pháp lý, thông qua đó để có những
chính sách và quy định pháp luật phù hợp cho đối tượng này9. Theo luật pháp quốc
tế: Tại Điều 1 Công quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
thông qua ngày 20/11/1989 ghi nhận “trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định
tuổi thành niên sớm hơn”. Theo Quy tắc của Liên Hiệp Quốc về bảo vệ NCTN bị
tước quyền tự do được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 14/12/1990, tại
mục I, điểm 11 nêu rõ: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi
dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của
người chưa thành niên”. Như vậy, đối với pháp luật quốc tế, NCTN là người dưới 18
tuổi, nhưng tùy theo tình hình chính trị cũng như điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
thì mỗi quốc gia có thể ấn định độ tuổi là khác nhau.
Trong pháp luật Việt Nam, khi giải thích khái niệm NCTN, chúng ta có Bộ luật
Dân sự 2015 (BLDS 2015) điều chỉnh: “người chưa thành niên là người chưa đủ 18
tuổi”10. Tiếp nối tinh thần của BLDS 2015, BLLĐ 2019 khi giải thích về khái niệm
“người lao động chưa thành niên” cũng xác định: “Người lao động chưa thành niên
Trần Thắng Lợi (2012), tlđd 7 , tr. 15.
Trần Thắng Lợi (2012), tlđd 7 , tr. 16
10
Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015.
8
9
7
là người chưa đủ 18 tuổi”11. Như vậy, BLLĐ 2019 đã dựa trên cơ sở về độ tuổi để nói
đến những người chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất, tinh thần tham gia vào lao
động. Ngoài việc quy định về mức tuổi được xem là NLĐCTN, BLLĐ còn giới hạn
độ tuổi tối thiểu được tham gia vào quan hệ lao động là 15 tuổi12, độ tuổi tối thiểu
được phép lao động tương đồng với cách quy định của Công ước 13813. Nhưng không
phải công việc nào NLĐCTN cũng có thể tham gia vào lao động, người lao động từ
đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ được phép làm những công việc mà pháp luật không
cấm14. Ngoài ra để đảm bảo quyền lao động của NCTN cũng như đảm bảo việc học
tập, lao động cho nhóm người này được diễn ra một cách an toàn, nhà nước đã cho
phép người sử dụng lao động có thể tuyển dụng người lao động dưới 15 tuổi để thực
hiện những công việc mà pháp luật cho phép15.
Nhìn chung các cách tiếp cận trên đều xác định NCTN là người dưới 18 tuổi.
Tổng hợp lại, ngoài những đặc điểm chung giống với người lao động nói chung thì
NLĐCTN còn có các đặc điểm là người chưa đủ 18 tuổi (độ tuổi có thể thay đổi theo
quy định của pháp luật từng nước), đang trong quá trình phát triển để hoàn thiện bản
thân về mặt tự nhiên và xã hội; chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần cũng như
trí tuệ.
Như vậy, NLĐCTN là người lao động dưới 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự
chưa đầy đủ và được phép tham gia lao động nhưng phải tuân theo quy định của pháp
luật.
1.1.2. Các khái niệm liên quan
NLĐCTN là một vấn đề luôn được sự chú ý của thế giới nhưng trong các văn
bản quốc tế lại không có các quy định giải thích về lao động NCTN mà xuất hiện khái
niệm “lao động trẻ em”, “trẻ em lao động”. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng có
Khoản 1 Điều 143 Bộ luật Lao động 2019.
Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019.
13
Điều 2 Công ước về độ tuổi tối thiểu, năm 1973 (số 138) quy định: “3. Tuổi tối thiểu ghi theo Đoạn 1
Điều này sẽ không được dưới độ tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc và bất kỳ trường hợp nào
cũng không được dưới 15 tuổi. 4. Mặc dù có những quy định tại Đoạn 3 Điều này, mọi nước thành viên mà
nền kinh tế và các phương tiện giáo dục chưa phát triển đầy đủ thì, sau khi tham khảo ý kiến của các tổ
chức hữu quan nếu có, của người sử dụng lao động và của người lao động có thể ghi mức tối thiểu là 14
trong giai đoạn đầu”.
14
Xem danh mục công việc, nơi làm việc gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của NCTN
được quy định tại Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2020.
15
Xem danh mục nghề, công việc, nơi làm việc áp dụng đối với lao động chưa thành niên được ban hành
kèm theo Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH
11
12
8
sự xuất hiện của khái niệm “trẻ em” (được xác định là những người dưới 16 tuổi16),
đây là độ tuổi nằm trong độ tuổi lao động chưa thành niên, vậy NLĐCTN với “lao
động trẻ em”, “trẻ em tham gia lao động” có được hiểu giống nhau hay không. Rất
nhiều người không tránh khỏi sự nhầm lẫn giữa các khái niệm này với nhau. Chính
vì lẽ đó, tác giả sẽ đề cập tới những khái niệm trên để cung cấp lý luận một cách toàn
diện cho NLĐCTN.
1.1.2.1. Lao động trẻ em
Hiện nay, Tổ chức Lao động quốc tế xác định rằng lao động trẻ em là vấn đề
mang tính toàn cầu. Trong bối cảnh ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tổ chức này
cảnh báo số lao động trẻ em trên toàn thế giới sẽ tăng lên đáng kể. Tại Việt Nam, theo
kết quả khảo sát quốc gia về lao động trẻ em năm 2018, lao động trẻ em từ 5 - 17 là
1.031.944 trẻ. Qua đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vừa phối hợp cùng Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tổ chức
Hội thảo trực tiếp kết hợp trực tuyến toàn quốc để triển khai Chương trình quốc gia
về phòng ngừa và giảm thiểu trẻ em lao động trái quy định của pháp luật giai đoạn
2021-2025, định hướng đến năm 2030. Việt Nam cũng là một trong những nước có
sử dụng lao động trẻ em. Vậy “lao động trẻ em” được hiểu như thế nào mà lại cần
được xóa bỏ17.
Thuật ngữ lao động trẻ em dùng để chỉ những người lao động là nhóm trẻ em
tham gia vào mối quan hệ lao động. Theo Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em
năm 1989 của Liên hợp quốc thì: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường
hợp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Theo Công ước,
mốc tuổi để phân định giữa người thành niên và trẻ em là 18 tuổi, theo đó trẻ em là
người chưa đủ 18 tuổi. Hay như Công ước về các hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất số 182 quy định tại Điều 2: “Thuật ngữ trẻ em sẽ được áp dụng cho người dưới
18 tuổi”. Có thể thấy trong Công ước không có khái niệm NCTN nhưng đối tượng
của khái niệm “trẻ em” và “NCTN” đều hướng tới là người dưới 18 tuổi.
Các văn bản công ước quốc tế không có quy định nào xác định cụ thể về “lao
động trẻ em”. Như đã đề cập ở trên, trẻ em là người dưới 18 tuổi, theo tinh thần của
Điều 1 Luật Trẻ em 2016.
Cảnh báo lao động trẻ em sẽ tăng vào năm 2022, https://nld.com.vn/cong-doan/canh-bao-lao-dong-treem-se-tang-vao-nam-2022-20211202093515399.htm?fbclid=IwAR21TbXMn_scP_XjAD8vZ1tYA936WYB0Rd7MZqb4ik0JgSWZsghmkIsRnw, truy cập ngày 8/4/2022.
16
17
9
Công ước số 138 và Công ước 182 thì có thể hiểu lao động trẻ em là những lao động
cần được bãi bỏ18.
Thuật ngữ “lao động trẻ em” được tổ chức ILO định nghĩa là “công việc làm
mất đi tuổi thơ, tiềm năng và phẩm giá của trẻ em, đồng thời có hại cho sự phát triển
tinh thần và thể chất19”. Với cách giải thích này, ta có thể hiểu được rằng những lao
động trẻ em là những người dưới 18 tuổi tham gia lao động vào những công việc có
tác động xấu đến trẻ, cách giải thích này dựa trên hậu quả mà lao động gây ra cho trẻ
em. Tổ chức ILO còn đưa ra mô tả những loại hình công việc mà có tính chất như
trên, cụ thể:
“Nguy hiểm về tinh thần, thể chất, xã hội hoặc đạo đức và có hại cho trẻ
em; và / hoặc.
Cản trở việc đi học của các em bằng cách: tước đi cơ hội đến trường của
các em; buộc các em nghỉ học sớm; hoặc yêu cầu các em cố gắng kết hợp việc
đi học với các công việc nặng và quá lâu.20”.
Tương tự như các công ước quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng không có những
văn bản xác định như thế nào là “lao động trẻ em” nhưng thay vào đó, Luật Trẻ em
2014 lại đưa ra khái niệm: “Bóc lột trẻ em là hành vi bắt trẻ em lao động trái quy
định của pháp luật về lao động; trình diễn hoặc sản xuất sản phẩm khiêu dâm; tổ
chức, hỗ trợ hoạt động du lịch nhằm mục đích xâm hại tình dục trẻ em; cho, nhận
hoặc cung cấp trẻ em để hoạt động mại dâm và các hành vi khác sử dụng trẻ em để
trục lợi.21” Hoặc trẻ em có quyền được bảo vệ không bị bóc lột sức lao động22. Có
thể thấy, thay vì sử dụng thuật ngữ “lao động trẻ em”, Việt Nam lại sử dụng thuật ngữ
“bóc lột trẻ em” nhưng bản chất lại đề cập những lao động trái với quy định của pháp
luật về lao động, những công việc mà ở đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thể
chất, tinh thần, nhân cách của trẻ em và đều bị cấm. Bên cạnh đó, trong kết quả điều
tra quốc gia về lao động trẻ em năm 2018 lại định nghĩa:
Theo Điều 1, Công ước về độ tuổi tối thiểu, năm 1973 (số 138) quy định: “Mọi Thành viên mà ở đó Công
ước này có hiệu lực cam kết theo đuổi một chính sách quốc gia, nhằm đảm bảo hiện quả việc bãi bỏ lao
động trẻ em và nâng dần Tuổi tối thiểu được đi làm việc hoặc được lao động tới độ tuổi mà các thiếu niên
có thể phát triển đầy đủ nhất về trí lực và thể lực.”
19
What is child labour?, https://www.ilo.org/ipec/facts/lang--en/index.htm, truy cập ngày 8/4/2022.
20
What is child labour?, https://www.ilo.org/ipec/facts/lang--en/index.htm, truy cập ngày 8/4/2022.
21
Khoản 7 Điều 4 Luật Trẻ em 2014.
22
Xem Điều 26 Luật Trẻ em 2014.
18
10
“Lao động trẻ em là lao động trái với quy định của pháp luật và hoạt
động lao động cản trở hoặc có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thể lực,
trí lực, nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em23”.
Mà đối tượng “trẻ em” trong ấn phẩm “kết quả điều tra quốc gia về lao động trẻ
em năm 2018” được xác định bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và người lao
động chưa thành niên24.
Bên cạnh đó, Cẩm nang về các cam kết quốc tế liên quan tới lao động trẻ em
cũng định nghĩa:
Lao động trẻ em là trẻ em và người chưa thành niên làm các công việc
trái quy định pháp luật về lao động, tham gia lao động mà hoạt động lao động
đó cản trở hoặc tác động tiêu cực đến sự phát triển thể chất, trí tuệ, nhân cách
và sự phát triển toàn diện25”.
Như vậy, với Việt Nam, đối tượng “trẻ em” khi nói về lao động trẻ em được
ngầm hiểu bao gồm trẻ em và người chưa thành niên.
Tóm lại, cả pháp luật quốc tế và Việt Nam đều xác định rằng lao động trẻ em
chỉ nhóm người lao động có độ tuổi là dưới 18 tuổi, tham gia lao động trái với quy
định của pháp luật lao động, làm những công việc hoặc nơi làm việc gây ảnh hưởng
tiêu cực đến sức khỏe, tinh thần của nhóm người này. Còn NLĐCTN là nhóm người
lao động tham gia lao động phù hợp với quy định của pháp luật về lao động. Nhìn
chung, khái niệm NLĐCTN và khái niệm trẻ em lao động khác biệt ở chỗ: NLĐCTN
mang ý nghĩa tích cực, đây là lao động được pháp luật lao động cho phép, mang lại
giá trị có ích cho xã hội. Còn đối với khái niệm lao động trẻ em thì đây là khái niệm
mang ý nghĩa tiêu cực, chỉ những trường hợp lạm dụng trẻ em, sử dụng trẻ em vào
những công việc hoặc bắt trẻ em làm việc ở những địa điểm trái pháp luật lao động
gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của trẻ, xa hơn nữa là làm suy yếu
năng lực của lực lượng lao động tương lai.
1.1.2.2. Trẻ em tham gia lao động
ILO và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, khảo sát lao động trẻ em quốc gia Việt Nam
2018: Những phát hiện chính, Geneva: Tổ chức Lao động quốc tế, 2020, tr. 6.
24
ILO và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, tlđd 23, tr. 5.
25
Cẩm nang về các cam kết quốc tế liên quan tới lao động trẻ em, Hà Nội, Tổ chức Lao động Quốc tế 2021,
tr. 7.
23
11
Khái niệm “trẻ em làm việc” hay “trẻ em tham gia lao động” có thể được hiểu
là những người dưới 18 tuổi tham gia bất cứ hoạt động sản xuất hàng hóa hoặc cung
cấp dịch vụ cho người khác sử dụng hoặc tự sản tự tiêu dùng26. Trong pháp luật quốc
tế. cụm từ “trẻ em làm việc” được nhắc đến trong Công ước 138 ở điểm a khoản 4
Điều 5, đồng thời Công ước cho phép tuyển dụng những người dưới độ tuổi tối thiểu
để tham gia lao động nhưng phải đảm bảo: “Không gây hại đến sức khỏe và sự phát
triển của họ và không phương hại việc tham gia học tập, việc họ tham gia vào chương
trình hướng nghiệp hay đào tạo nghề đã được cơ quan có thẩm quyền, hoặc khả năng
được hưởng lợi từ việc được giáo dục” (xem khoản 1 Điều 7 Công ước số 138).
Trong pháp luật Việt Nam, theo BLLĐ 2019 thì người sử dụng lao động có thể
tuyển dụng người lao động dưới 18 tuổi; “Người sử dụng lao động chỉ được tuyển
dụng và sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi vào làm các công việc nhẹ27”
và “Người sử dụng lao động không được tuyển dụng và sử dụng người chưa đủ 13
tuổi làm việc, trừ các công việc nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn
hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi28”. Luật Trẻ
em 2016 quy định về trách nhiệm của nhà nước29và trách nhiệm của người sử dụng
lao động30phải tạo điều kiện làm việc phù hợp với khả năng lứa tuổi của trẻ em nhưng
Luật Trẻ em 2016 lại xác định độ tuổi trẻ em là người dưới 16 tuổi31. Cũng trong kết
quả Điều tra quốc gia về lao động trẻ em năm 2018 xác định rằng trẻ em tham gia lao
động bao gồm trẻ em từ 5-17 tuổi tham gia các hoạt động sản xuất - kinh doanh –
dịch vụ32.
Như vậy, cả pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đều cho phép trẻ em tham
gia vào lao động làm việc miễn là những công việc mà các em tham gia không được
ảnh hưởng đến đặc điểm, thể chất, tinh thần và trí tuệ của trẻ em. Nếu tuân theo pháp
luật thì việc trẻ em tham gia vào lao động là hoạt động có ích, giúp cho trẻ tập được
tính tự lập, rèn giũa bản thân, phát huy tài năng và góp phần tạo thu nhập phụ giúp
gia đình.
Cẩm nang về các cam kết quốc tế liên quan tới lao động trẻ em, tlđd 25, tr.6.
Khoản 2 Điều 145 Bộ luật Lao động 2019.
28
Khoản 3 Điều 145 Bộ luật Lao động 2019.
29
Khoản 1 Điều 44 Luật Trẻ em 2016.
30
Khoản 3 Điều 93 Luật Trẻ em 2016.
31
Xem Điều 1 Luật Trẻ em 2016.
32
ILO và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, tlđd 23, tr. 6.
26
27
12
Đối với mối quan hệ giữa khái niệm “NLĐCTN” và “trẻ em tham gia lao động”,
nếu theo quy định của pháp luật Việt Nam thì “NLĐCTN’ sẽ bao hàm khái niệm “trẻ
em tham gia lao động” còn nếu theo cách giải thích của tác phẩm Điều tra quốc gia
về lao động trẻ em năm 2018 thì lại ngược lại. Đối với khái niệm “lao động trẻ em”
và “trẻ em tham gia lao động” thì chúng ta sẽ dựa vào hậu quả của công việc gây ra
khi các em tham gia vào lao động để phân biệt hai khái niệm này.
1.1.3. Đặc điểm của người lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên là nhóm người lao động được sự chú ý rất nhiều từ
nhà nước và xã hội vì đây là nguồn lao động chính cho sau này, góp phần vào sự phát
triển cho đất nước. Những người trong nhóm lao động này đều trong độ tuổi ăn học,
đang phát triển về thể chất, tinh thần và tâm sinh lý. Nếu nhóm người lao động này
làm những công việc không tốt ảnh hưởng đến sự phát triển sau này sẽ gây ra tầm
ảnh hưởng nghiêm trọng cho tương lai. Chính vì vậy, các nhà làm luật đã xây dựng
các quy định về nhóm người này dựa trên sự phát triển theo từng giai đoạn phát triển
phù hợp với lứa tuổi. Tâm lý học và các khoa học có liên quan đều chỉ ra rằng lao
động được tổ chức một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm của lứa tuổi là con
đường, là cơ chế và nhân tố phát triển thể chất, năng lực tư duy và đời sống tình cảm
của NCTN33.
Về thể chất
Khác với người lao động đã thành niên, NLĐCTN vẫn chưa phát triển đầy đủ
về mặt thể chất. Vào giai đoạn dưới 18 tuổi, “là giai đoạn có sự phát triển mang tính
đột biến về sinh lý, biểu hiện ở việc các em phát triển nhanh về chiều cao và trọng
lượng cơ thể; hệ xương, cơ bắp phát triển mạnh, đặc biệt xương tay, xương chân34”.
Chính vì vậy, khi phải lao động nặng nhọc như khiêng vác những vật thể nặng, hoặc
với cường độ làm việc quá cao sẽ ảnh hưởng đến hệ xương của các em cũng như các
sự phát triển khác của cơ thể. Bên cạnh đó, “trong sự tăng trưởng của hệ tim mạch,
quả tim có thể quá nhỏ không chống đỡ nổi stress và các căng thẳng35”. Trong lứa
tuổi này các em vẫn còn là lứa tuổi học sinh, việc phải vừa học vừa làm sẽ tạo rất
Lê Thị Hồng Vân (2013), Pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên, trường đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 14.
34
Trần Thắng Lợi (2012), tlđd 7, tr. 15.
35
Lê Thị Hồng Vân (2013), tlđd 33, tr. 15.
33
13
nhiều áp lực cho NCTN khiến cho họ khó có thể tiếp thu bài học và dẫn đến việc bị
kiệt sức.
Về tinh thần và và nhận thức
Đặc trưng của tâm lý ở lứa tuổi này là khuynh hướng làm người lớn36, khuynh
hướng này có nghĩa là trong tâm trí của NCTN đã coi mình là người lớn nhưng trong
thực tế về độ tuổi các em vẫn chưa trưởng thành. Chính vì tâm lý đã coi mình là người
lớn, NCTN luôn muốn chứng tỏ bản thân mình đã lớn với gia đình, bạn bè, khẳng
định bản thân nên rất hăng hái trong học tập, lao động. Chính vì tâm lý đó, các em rất
dễ bị lợi dụng làm những công việc không phù hợp với lứa tuổi, ảnh hưởng đến sự
phát triển bình thường của bản thân. Năng lực quan sát, tổng hợp, phân tích vấn đề
bắt đầu có tính logic chính vì vậy đây là giai đoạn quan trọng trong việc định hình
nhân cách, nhận thức của các em. Nếu làm những công việc ở những nơi độc hại (như
quán bar, nhà hàng, phòng hát karaoke, cơ sở xoa bóp,…) nhận thức của người chưa
thành về cuộc sống có thể xấu đi, dễ học những thói hư tật xấu và sa đọa vào những
tệ nạn xã hội.
Nói tóm lại, NLĐCTN có những đặc điểm rất hạn chế vì vậy khi tham gia vào
quan hệ lao động sẽ có rất nhiều hạn chế nên cần những quy định riêng biệt để quy
định đảm bảo NLĐCTN có thể dễ dàng tham gia vào quan hệ lao động mà không bị
ép buộc lao động, đảm bảo sự phát triển đầy đủ và ổn định cho NCTN.
1.1.4. Ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa
thành niên
Trong cuộc sống, việc NCTN tham gia vào lao động là một điều tất yếu không
thể tránh khỏi, NCTN tham gia vào lao động được thể hiện qua hai khía cạnh pháp lý
và thực tiễn. Về mặt pháp lý thì tại khoản 1 Điều 35 Hiến pháp 2013 có quy định: “1.
Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”, hoặc
trong BLLĐ 2019 cũng quy định một chương riêng về NLĐCTN (xem chương XI).
Về thực tiễn, trong ấn phẩm Điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2018 thì ước tính
trong tổng số 19.254.271 trẻ em 5-17 tuổi của cả nước có 1.754.066 em (chiếm 9,1%
36
Lê Thị Hồng Vân (2013), tlđd 33, tr. 15.
14
tổng số) tham gia hoạt động kinh tế. Vì vậy, để đảm bảo quyền được lao động của
NCTN pháp luật phải đặt ra các quy định riêng để điều chỉnh.
Pháp luật lao động luôn dành một sự quan tâm đặc biệt đến nhóm đối tượng lao
động chưa thành niên. Bởi đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về tinh thần, thể
chất và sức khỏe; nhận thức còn non trẻ và nhân cách vẫn đang trong giai đoạn hình
thành. Vì những lý do này, nhóm người lao động này rất dễ bị ảnh hưởng khi phải
làm việc trong một môi trường không lành mạnh. Chính vì nhận thức non trẻ và trải
nghiệm cuộc sống không nhiều, NCTN rất dễ bị dụ dỗ làm những công việc nặng
nhọc, không phù hợp với lứa tuổi và dễ bị bóc lột sức lao động. Do đó, cần đến sự
điều chỉnh của pháp luật lao động để điều chỉnh về độ tuổi tối thiểu, thời gian làm
việc cũng như công việc được phép tuyển dụng hay không được tuyển dụng
NLĐCTN. Giảm thiểu việc NLĐCTN phải tham gia làm việc không phù hợp với lứa
tuổi và xa hơn nữa là đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nhóm lao động này.
Bên cạnh đó, NCTN vẫn còn đang trong độ tuổi đi học, đây là lúc mà các em
có thể tiếp thu kiến thức cũng như xây dựng con đường tương lai cho mình sau này.
Nhưng trên thực tế, không phải gia đình nào cũng có thể đủ điều kiện cho NCTN có
thể tham gia học tập. Vì hoàn cảnh gia đình, NCTN phải tham gia vào lao động rất
sớm, điều này vừa làm cho nhóm người này mất đi quyền được học tập vừa tạo ra
cảm giác tư ti với các bạn cùng trang lứa hoặc cũng có thể tiếp xúc với những thành
phần không tốt trong xã hội rồi dần trở nên “sa lầy” vào những việc xấu. Hiểu được
điều này, pháp luật lao động luôn có những điều chỉnh liên quan đến vấn đề thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý để NCTN có thể vừa lao động vừa tham gia học
tập. Điều này giúp cho cuộc sống của NTCN được cải thiện, xây dựng tốt hơn đời
sống tinh của NCTN.
Nói tóm lại, việc điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa thành niên có ba ý
nghĩa như sau: (i) đảm bảo quyền lao động của NCTN; (ii) đảm bảo cho sự phát triển
ổn định của trẻ và (iii) đảm bảo quyền được học tập của NCTN.
1.2. Quy định pháp luật về người lao động chưa thành niên
Vì NLĐCTN là nhóm đối tượng lao động đặc biệt, còn trong giai đoạn phát
triển để bước vào tuổi trưởng thành. Chính vì thế, ngoài các quy định điều chỉnh
chung cho người lao động, NLĐCTN còn được quy định một chương riêng liên quan
đến các vấn đề về tuyển dụng, giao kết hợp đồng, những quy định này không chỉ đưa
15
ra những quy định về NLĐCTN mà còn đưa ra những điều kiện, quy định bắt buộc
cho người sử dụng lao động chưa thành niên,.
1.2.1. Các quy định về tuyển dụng người lao động chưa thành niên
1.2.1.1. Quy định của ILO và một số quốc gia
Để NCTN được xem là NLĐCTN và chịu sự điều chỉnh của pháp luật phù hợp
thì bước tiên quyết nhất mà NCTN phải đáp ứng được đó là có quan hệ lao động.
Nhưng để phát sinh được quan hệ lao động thì cần có quá trình tuyển dụng của người
sử dụng lao động. Như vậy, việc tuyển dụng giữa NLĐCTN và người sử dụng lao
động là vấn đề đầu tiên cần phải điều chỉnh vì nó là một sự khởi đầu, làm phát sinh
mối quan hệ lao động.
* Quy định của ILO
Về việc tuyển dụng NLĐCTN được quy định chủ yếu tại Công ước số 138 ngày
26/7/1973, cụ thể theo quy định của công ước thì cần có đủ các điều kiện sau đây thì
người sử dụng lao động mới được phép tuyển dụng lao động chưa thành niên:
Thứ nhất, lao động chưa thành niên phải đạt độ tuổi tối thiểu khi tham gia lao
động. Công ước số 138 đã thiết lập độ tuổi tối thiểu cho mọi quốc gia tại khoản 3
Điều 1 Công ước 138: “không được dưới độ tuổi kết thúc chương trình bắt buộc và
bất kì trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi”. Đối với tổ chức ILO thì đây
là độ tuổi mà khi tham gia lao động, NCTN đã có sự phát triển đẩy đủ nhất về thể
chất và trí lực. Tuy đã giới hạn về độ tuổi nhưng như vậy là chưa đủ, điều quan trọng
là các các quốc gia phải đảm bảo rằng các em phải được đi học đầy đủ đến hết độ tuổi
này. Lao động có sự kết hợp với nền tảng của giáo dục sẽ giúp cho NCTN có thể
chuẩn bị cho công việc một cách hiệu quả và phát huy tiềm năng vốn có của mình,
góp phần xây dựng một nguồn lực lao động chất lượng cho tương lai. Hiểu được điều
đó, ngay từ những quy định đầu tiên ILO đã đưa ra nguyên tắc “không một ai ở dưới
mức tuổi tối thiểu đó có thể được tuyển dụng hoặc được làm việc trong bất cứ nghề
nào”. Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi cũng như tạo điều kiện cho các nước đang phát
triển còn đang trong quá trình củng cố hệ thống giáo dục và nền kinh tế thì công ước
cho phép các nước này được áp dụng độ tuổi tối thiểu là 14 tuổi, “trong số 171 quốc
gia thành viên đã phê chuẩn Công ước 138, 51 quốc gia đã ấn định độ tuổi lao động
- Xem thêm -