Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở việt nam – thực trạng và một số kiến ...

Tài liệu Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở việt nam – thực trạng và một số kiến nghị

.PDF
83
289
66

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NGUYỄN THANH MAI Hà Nội, 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NGUYỄN THANH MAI CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 60380107 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HIỀN PHƯƠNG Hà Nội, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hiền Phương Khoa pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Người thực hiện Nguyễn Thanh Mai LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Viện Đại học Mở hà Nội – Khoa sau đại học, Khoa Luật kinh tế đã giúp đỡ em, cung cấp các kiến thức cần thiết, hướng dẫn em học tập, nghiên cứu trong suốt quá trình tham gia chương trình học tập tại nhà trường và thực hiện luận văn thạc sỹ này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Cô giáo, PGS.TS Nguyễn Hiền Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn thạc sỹ này. Ngày……tháng ……..năm 2017 Học viên Nguyễn Thanh Mai MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH ............ 7 1.1. Một số vấn đề lý luận về lao động giúp việc gia đình ................................ 7 1.1.1. Khái niệm lao động giúp việc gia đình ....................................................... 7 1.1.2. Phân loại lao động giúp việc gia đình ....................................................... 12 1.2. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình ... 14 1.3. Nội dung pháp luật về lao động giúp việc gia đình .................................. 16 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 24 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH .................................................................. 25 2.1 Các quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình ........................... 25 2.1.1 Việc làm và học nghề đối với lao động giúp việc gia đình ....................... 25 2.1.2 Quy định về hợp đồng lao động giúp việc gia đình.................................. 27 2.1.3 Các điều kiện sử dụng lao động giúp việc gia đình.................................. 32 2.1.4 Các quy định về xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp lao động giúp việc gia đình ............................................................................. 42 2.2 Thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam ... 43 2.2.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về việc làm, học nghề đối với lao động giúp việc gia đình ...................................................................................... 45 2.2.2 Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng lao động giúp việc gia đình 49 2.2.3 Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện sử dụng lao động giúp việc gia đình ............................................................................................................ 52 2.2.4. Thực tiễn xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp lao động giúp việc gia đình ...................................................................................... 57 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 59 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH ............................................................................................................. 60 3.1. Những yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật lao động giúp việc gia đình ............................................................................................. 60 3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về lao động giúp việc gia đình ... 62 3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lao động giúp việc gia đình ...................................................................................... 68 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 73 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLLD Bộ luật Lao động GFCD Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển cộng đồng GVGĐ Giúp việc gia đình ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labor Organization) SDLĐ sử dụng lao động MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, lao động giúp việc gia đình tại nhiều quốc gia trên thế giới đã được coi là một nghề chính thức. Theo thống kê năm 2010 của Tổ chức Lao động quốc tế, có ít nhất 52 triệu người trên thế giới, trong đó 83% là phụ nữ đang làm giúp việc gia đình. Họ chiếm tới 7,5% lao động nữ được trả lương trên toàn thế giới và chiếm một bộ phận còn lớn hơn nhiều ở một số khu vực, đặc biệt là châu Á Thái Bình Dương, châu Mỹ La tinh và vùng Caribe. Mặc dù đây là một nhóm lao động chiếm số lượng lớn nhưng rất nhiều lao động giúp việc gia đình phải làm việc trong điều kiện không đảm bảo và không được pháp luật bảo vệ đầy đủ [18]. Công ước số 189 về “Việc làm bền vững cho lao động giúp việc gia đình” đã được Tổ chức Lao động Quốc tế thông qua ngày 16/6/2011 tại Hội nghị thường niên lần thứ 100 đã đánh dấu sự kiện lịch sử đối với lao động giúp việc gia đình trên thế giới. Đây là khung pháp lý quốc tế đầu tiên về tiêu chuẩn lao động nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích tại nơi làm việc cũng như cải thiện các điều kiện làm việc cho lao động giúp việc gia đình. Ở Việt Nam, Nghị định 27/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình được ban hành ngày 7/4/2014 đã “gửi đi một thông điệp mạnh mẽ rằng nghề giúp việc gia đình, khi đảm bảo các yêu cầu quy định, là một nghề chuyên nghiệp, mang lại những lợi ích đáng kể về kinh tế và xã hội cho các gia đình thuê người giúp việc, cho bản thân người giúp việc và cả xã hội Việt Nam”. Điều đó thể hiện sự ghi nhận của Chính phủ rằng nghề giúp việc gia đình mang ý nghĩa quan trọng để các thị trường lao động có thể vận hành hiệu quả bằng cách tạo điều kiện để phụ nữ làm việc và duy trì năng suất lao động ngoài gia đình [351]. Cùng với sự phát triển khá nhanh về kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao trong những năm gần đây, lực lượng lao động giúp việc gia đình ở nước ta đang có xu hướng tăng, dự báo đến 1 năm 2020 cả nước có 350.000 lao động giúp việc gia đình [32]. Thực tế người làm công việc giúp việc gia đình ở nước ta không chỉ có phụ nữ mà còn có trẻ em, đa số xuất thân từ nông thôn và có trình độ học vấn thấp. Ở nước ta, giúp việc gia đình đã được công nhận là một nghề, sự phát triển của lực lượng này có ảnh hưởng đến cơ cấu lao động, đặc biệt là ở thành thị nhưng trên thực tế họ phải chịu nhiều thiệt thòi, chưa được bảo đảm các quyền của mình, chưa được đảm bảo các điều kiện phát triển nghề nghiệp và bản thân theo quy định của pháp luật lao động. Nhiều lao động giúp việc gia đình làm việc theo hợp đồng lao động nhưng không đầy đủ nội dung quy định, tiền lương bị cắt xén và việc tiếp cận các chính sách an sinh xã hội về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn rất hạn chế. Trong những năm gần đây, các vụ việc hình sự, xử phạt hành chính và tranh chấp liên quan đến giúp việc gia đình ngày càng nhiều, nảy sinh nhiều vấn đề trong xã hội liên quan đến lao động giúp việc gia đình cho thấy công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này cần được quan tâm thực hiện tốt hơn. Mặc dù các quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình đã có những tiến bộ, tạo điều kiện để lực lượng lao động này phát triển, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho xã hội song vẫn còn những hạn chế, chưa phù hợp với thực tế. Do đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam – thực trạng và một số kiến nghị” cho luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Theo khảo cứu của tác giả, lao động giúp việc gia đình đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều công trình khoa học, trong đó: Các ấn phẩm, báo cáo: - Khoa tâm lý học – Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội (2000), “Trẻ em làm thuê giúp việc gia đình ở Hà Nội”, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam (2015), “Xu hướng gia tăng lao động Việt Nam đi làm giúp việc gia đình ở nước ngoài”, Hà Nội. - Gyorgy Sziraczki – Giám đốc Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế tại 2 Việt Nam, “Bàn về vấn đề quyền lợi tối thiểu đối với lao động giúp việc gia đình Việt Nam”. - Yoshiteru Uramoto – Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế tại Châu Á – Thái Bình Dương, “Giúp việc gia đình, việc làm như những công việc khác”. - Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển cộng đồng (2015), “Báo cáo tóm tắt Tổng quan tình hình lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay”. Các bài viết đăng trên các tạp chí: - Chu Mạnh Hùng, “Vấn đề trẻ em gái giúp việc gia đình tại các thành phố lớn”, Tạp chí luật học Trường Đại học Luật Hà Nội số 5, năm 2005; - Phạm Thị Huệ và Lê Việt Nga, “Trẻ em làm thuê giúp việc gia đình và thái độ cộng đồng”, Tạp chí nghiên cứu gia đình và giới thuộc Viện Gia đình và giới, số 6, năm 2008; - Trần Thị Hồng, “Một số vấn đề xã hội của lao động giúp việc gia đình ở đô thị hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu gia đình và giới thuộc Viện Gia đình và giới số 2 năm 2011. - Nguyễn Thị Vân Anh, “Lao động giúp việc gia đình và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lao động và xã hội số 476, năm 2014. - Lã Trọng Đại, “Những vấn đề nảy sinh trong quan hệ lao động giúp việc gia đình và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Lao động và xã hội số 487, năm 2014. - Đào Mộng Điệp, “Pháp luật về lao động là người giúp việc gia đình và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Luật học số 12 năm 2014. Các luận án, luận văn, khóa luận: - Nguyễn Thị Lam (2013), Thực trạng lao động là người giúp việc gia đình ở Việt Nam và một số kiến nghị”, Luận văn thạc sĩ luật học. - Nguyễn Hữu Long (2014), “Lao động là người giúp việc gia đình theo Bộ 3 luật Lao động 2012”, Luận văn thạc sĩ luật học . - Phạm Trung Giang (2015), “Lao động giúp việc gia đình theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ luật học. - Sầm Thu Lan (2012), “Địa vị pháp lý của người lao động giúp việc gia đình theo pháp luật lao động Việt Nam và giải pháp hoàn thiện”, Khóa luận tốt nghiệp. - Lê Thị Thu Trang (2016), “Pháp luật về bảo vệ người lao động giúp việc gia đình - Thực trạng và một số kiến nghị”, Khóa luận tốt nghiệp. Các công trình khoa học nói trên đã tiếp cận nghiên cứu về lao động giúp việc gia đình từ nhiều góc độ khác nhau song những vấn đề pháp lý đặt ra đối với lao động giúp việc gia đình và người sử dụng lao động giúp việc gia đình và thực tiễn thực hiện vẫn còn rất ít, có một vài công trình nghiên cứu dừng lại ở hình thức là các khóa luận tốt nghiệp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp lý về lao động giúp việc gia đình, tìm hiểu pháp luật hiện hành về lao động giúp việc gia đình và thực tế tình hình lao động giúp việc gia đình ở nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lao động giúp việc gia đình và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Các nhiệm vụ nghiên cứu chính của luận văn: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về lao động giúp việc gia đình, sự điều chỉnh của pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình. Cụ thể là làm rõ về khái niệm lao động giúp việc gia đình, sự cần thiết và nội dung pháp luật về lao động giúp việc gia đình. 4 - Phân tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về lao động giúp việc gia đình theo Bộ luật lao động năm 2012. - Tìm hiểu, đánh giá thực trạng tình hình lao động giúp việc gia đinh ở nước ta hiện nay. - Đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lao động giúp việc gia đình và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lao động giúp việc gia đình trên thực tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động giúp việc gia đình, các quy định của pháp luật Việt Nam theo Bộ luật lao động năm 2012 về lao động giúp việc gia đình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành (Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn) về lao động giúp việc gia đình. Trong giới hạn cho phép, để phục vụ mục đích nghiên cứu, luận văn có thể có sự tiếp cận văn bản pháp luật trong lĩnh vực khác, ở phạm vi quốc tế và mức độ nhất định. Việc thống kê, theo dõi về lao động giúp việc gia đình ở nước ta còn chưa đầy đủ, lực lượng lao động giúp việc gia đình lại chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn. Do đó các nội dung nghiên cứu, đánh giá gắn với thực tiễn thực hiện chủ yếu là các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh từ khi Bộ luật lao động được ban hành năm 2012 cho đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, 5 Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan hệ lao động. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp. Các phương pháp này có thể được sử dụng riêng hoặc kết hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu, làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Nghiên cứu đề tài “Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam – Thực trạng và một số kiến nghị” có ý nghĩa về cả khoa học và thực tiễn. Về mặt khoa học, luận văn góp phần hệ thống hóa, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về lao động giúp việc gia đình. Về mặt thực tiễn, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về thực trạng pháp luật về lao động giúp việc gia đình sẽ giúp các cơ quan lập pháp có thêm nguồn tư liệu để hoàn thiện pháp luật. Đồng thời cũng là tư liệu phục vụ cho công tác các cán bộ quản lý lao động và các vấn đề xã hội liên quan đến lao động giúp việc gia đình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về lao động giúp việc gia đình và sự điều chỉnh pháp luật về lao động giúp việc gia đình. Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về lao động giúp việc gia đình. Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lao động giúp việc gia đình. 6 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH 1.1. Một số vấn đề lý luận về lao động giúp việc gia đình 1.1.1. Khái niệm lao động giúp việc gia đình Lao động GVGĐ là loại hình lao động xuất hiện trên thế giới từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, khi mà ngoài những người nô lệ làm việc trong các đồn điền, công xưởng thì những nô lệ nữ, nô lệ có sức khỏe không phù hợp làm những công việc nặng nhọc sẽ được giao làm các công việc nhẹ nhàng hơn ở trong nhà của người chủ nô. Ngày nay, ở các nước phát triển nền kinh tế thị trường đều tồn tại loại hình lao động GVGĐ và đã trở thành một nghề được xã hội thừa nhận. Trong mối quan hệ đó, người GVGĐ và người SDLĐ có địa vị pháp lý bình đẳng, quan hệ được tiến hành trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng, tôn trọng danh dự và nhân phẩm của nhau. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về lao động GVGĐ. Tại Công ước số 189 được ILO đã thông qua ngày 16/6/2011 tại Geneva Thụy Sĩ về “Việc làm bền vững cho lao động GVGĐ” đã nêu “lao động GVGĐ là bất cứ người nào được thuê để làm công việc GVGĐ trong mối quan hệ thuê mướn”. Theo đó, lao động GVGĐ trước hết phải là người thực hiện công việc gia đình, cũng theo Công ước này, “công việc GVGĐ nghĩa là công việc được thực hiện trong hoặc cho một hộ gia đình hoặc các hộ gia đình”, đó có thể là: chăm sóc trẻ em; chăm sóc người bị ốm đau, bị khuyết tật thể xác hoặc tinh thần hoặc suy yếu do tuổi già; quét dọn, lau chùi, giặt giũ;… Đây đều là những công việc gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của bất cứ hộ gia đình nào. Do đó đặc trưng quan trọng của lao động GVGĐ đó là phải thực hiện công việc một cách thường xuyên và mang tính nghề nghiệp, được nêu tại Điều 1 Công ước số 189 của ILO là “một người thực hiện 7 công việc gia đình một cách thất thường hoặc không thường xuyên và không mang tính nghề nghiệp không phải là một người lao động gia đình”. Các quốc gia trên thế giới cũng có các định nghĩa khác nhau, thể hiện cách tiếp cận chính sách và luật pháp khác nhau đối với lao động GVGĐ, chủ yếu ở phạm vi công việc của lao động GVGĐ và tính chất hỗ trợ thương mại trong việc sử dụng lao động GVGĐ. Một số quốc gia như Uruguay, Thụy Sĩ đưa những tiêu chuẩn lao động GVGĐ tập trung vào nhiệm vụ dẫn đến “lợi ích trực tiếp” của người sử dụng lao động, bao gồm cả lợi ích thương mại. Một số quốc gia như Argentina, Malaysia, Brazil, Việt Nam loại trừ sử dụng lao động GVGĐ trong công việc tìm kiếm lợi nhuận của người SDLĐ mà tập trung vào công việc của lao động GVGĐ là công việc trợ giúp người sử dụng lao động và các công việc gia đình nằm trong Tiêu chuẩn quốc tế về phân loại nghề (ISCO) [12]. Hầu hết pháp luật các nước chưa quy định cụ thể về bản chất công việc của lao động GVGĐ, chưa coi công việc gia đình như một nhóm nghề riêng biệt, có tiêu chuẩn của nghề nghiệp mà chỉ đưa ra danh mục công việc. Ví dụ như ở Costa Rica, tại Điều 139 của Nghị định No. 19010-G of 1999 liệt kê công việc của lao động GVGĐ là dọn dẹp, nấu ăn, là quần áo, giặt giũ và trợ giúp; Bồ Đào Nha, tại Điều 2 (2) của Nghị định pháp lý No.235/92 liệt kê công việc của lao động GVGĐ là giặt giũ và dọn dẹp, chăm sóc người già và người ốm, chăm sóc động vật trong nhà, chăm sóc vườn cây [12]. Điều này phản ánh thực tế ở các quốc gia trên thế giới, không chỉ chưa đồng nhất trong quan điểm về bản chất công việc của lao động GVGĐ mà còn chưa chặt chẽ trong việc quy định về nhóm nghề và nhiệm vụ của lao động GVGĐ. Ở Việt Nam, loại hình lao động GVGĐ cũng có từ rất lâu với những tên gọi khác nhau như con sen, con ở, gia nô trong thời kỳ phong kiến, phong kiến nửa thực dân, khi những người nghèo bán mình cho những người giàu, quan lại khá giả và làm không công, chỉ để được nuôi ăn, nuôi ở. Khi nước ta mở cửa hội nhập nền kinh tế thế giới, thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, loại hình lao động GVGĐ có cơ hội phát triển, phổ biến hơn, tuy nhiên những người lao động GVGĐ vẫn ở thế yếu trong xã hội. Tại BLLĐ năm 1994, vẫn chưa có quy định cụ 8 thể về lao động GVGĐ, lao động GVGĐ nằm trong “một số loại lao động khác” tại Điều 139 của Bộ luật này. Cho đến khi BLLĐ năm 2012 ra đời, lao động GVGĐ được định nghĩa tại khoản 1 Điều 179: “Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình”. Như vậy, trước hết đó là người lao động mà theo Điều 3 BLLĐ năm 2012 “là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người SDLĐ”, đồng thời đó là nhưng người làm công việc trong gia đình một cách thường xuyên. Có thể thấy pháp luật lao động Việt Nam đưa ra quy định về lao động GVGĐ tương đối phù hợp với quan điểm của ILO về lao động GVGĐ. * Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình Thứ nhất, lao động GVGĐ là người làm công việc gia đình một cách thường xuyên trong hộ gia đình. Công việc mà lao động GVGĐ làm có phạm vi thực hiện trong hộ gia đình. Công việc gia đình được hiểu là các công việc chăm sóc gia đình. Pháp luật mỗi quốc gia có thể quy định khác nhau về công việc mà lao động GVGĐ làm trong hộ gia đình. Theo Đạo luật về việc làm số 265 năm 1955 của Malaysia thì “Họ có thể là người nấu cơm, lau dọn nhà cửa, quản gia, chăm sóc trẻ, làm vườn, giặt giũ, bảo vệ, lái xe hoặc là rửa xe của gia đình đó”[11, tr7]. Trong Quy chế tiền lương của bang California, Mỹ thì đưa ra những ví dụ về “những nghề trong hộ gia đình” như: nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, bảo mẫu, chăm sóc bệnh nhân, v.v... Đạo luật về việc làm số 265 năm 1955 của Malaysia đưa ra định nghĩa về lao động GVGĐ (theo cách gọi của nước này là “domestic servant”), theo đó “Họ có thể là người nấu cơm, lau dọn nhà cửa, quản gia, chăm sóc trẻ, làm vườn, giặt giũ, bảo vệ, lái xe hoặc là rửa xe của gia đình đó” [10,tr.7]. Công việc mà lao động GVGĐ có tính chất thường xuyên, tức là được lặp đi lặp lại theo một khoảng thời gian nhất định, có thể là hằng giờ, hằng ngày, hằng tuần hoặc hằng tháng tùy theo thỏa thuận giữa người lao động và chủ hộ gia đình khi ký kết hợp đồng lao động. Lao động GVGĐ có thể là lao động làm việc toàn 9 thời gian hoặc bán thời gian. Những người GVGĐ làm việc toàn thời gian sẽ sống cùng với hộ gia đình thuê giúp việc, do đó họ phải làm các công việc gia đình hằng giờ, hằng ngày. Những lao động GVGĐ bán thời gian thì tùy thuộc vào nhu cầu thuê giúp việc của từng hộ gia đình mà họ có thể làm việc tính theo số tiếng trong ngày hoặc số tiếng, số ngày trong tuần, tính chất thường xuyên làm các công việc gia đình của họ khác so với những lao động GVGĐ toàn thời gian. Hai là, hoạt động của lao động GVGĐ không liên quan đến hoạt động thương mại. Công việc của lao động GVGĐ là những công việc trong phạm vi gia đình, mang tính chất giúp cho người SDLĐ những công việc phục vụ sinh hoạt hàng ngày do đó pháp luật các quốc gia đều có xu hướng ghi nhận đó là hoạt động không sinh lời. Pháp luật của một số quốc gia còn loại bỏ ra khỏi danh sách lao động GVGĐ các công việc hỗ trợ liên quan đến hoạt động thương mại, trực tiếp hoặc góp phần tạo ra thu nhập cho hộ hoặc cá nhân trong hộ gia đình mà có thể được thực hiện trong nhà của hộ gia đình. Trên thực tế có những gia đình, cá nhân trong hộ gia đình thực hiện các hoạt động thương mại ngay tại nhà của mình. Người lao động GVGĐ ở tại hộ gia đình người chủ SDLĐ và làm những công việc phục vụ cho hoạt động thương mại của hộ gia đình, cá nhân hộ gia đình một cách thường xuyên, ví dụ như bán hàng, lao động thủ công… Tuy nhiên hoạt động này không được coi là lao động GVGĐ. Phù hợp với tinh thần của ILO, pháp luật nước ta tại khoản 1 Điều 179 BLLĐ năm 2012 cũng quy định các công việc trong gia đình phải “không liên quan đến hoạt động thương mại”. Nghị định số 27/2014/NĐ-CP ngày 7/4/2014 có một khoản riêng quy định chi tiết về các công việc khác trong gia đình những không liên quan đến hoạt động thương mại để tránh lạm dụng, vi phạm pháp luật trên thực tế. Ba là, lao động GVGĐ làm việc cho người SDLĐ là hộ gia đình hoặc nhiều hộ gia đình. Người SDLĐ trong các quan hệ lao động thông thường có thể là cá nhân, cơ 10 qua nhà nước, doanh nghiệp… còn trong quan hệ lao động GVGĐ thì người SDLĐ lại là hộ gia đình. Đó có thể là một hộ gia đình hoặc nhiều hộ gia đình. Xuất phát từ đặc điểm lao động GVGĐ có thể làm việc toàn thời gian hoặc làm việc bán thời gian, theo giờ trong một gia đình nên người lao động GVGĐ có thể làm việc trong một hoặc nhiều hộ gia đình nếu như họ có thể sắp xếp, đảm bảo được công việc theo thỏa thuận với người SDLĐ. Đây cũng là quyền tự do lao động của lao động GVGĐ, họ có thể lựa chọn thỏa thuận với nhiều hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu của người SDLĐ đồng thời có nhiều cơ hội tăng thu nhập. Có những người SDLĐ không có nhu cầu thuê lao động GVGĐ toàn thời gian vì khối lượng công việc không nhiều, có thể sắp xếp thu gọn để giảm mức tiền lương phải trả cho NLĐ. Thậm chí, có những người SDLĐ lại không cảm thấy thoải mái, tự nhiên trong ngôi nhà của mình khi có sự xuất hiện của lao động GVGĐ một cách thường xuyên vì dù sao họ vẫn là người lao động làm thuê. Do đó, những người này thường ưu tiên lựa chọn lao động GVGĐ bán thời gian. Bốn là, lao động GVGĐ chủ yếu là nữ, có trình độ học vấn thấp, xuất thân từ nông thôn. Công việc của lao động GVGĐ là những việc phục vụ sinh hoạt hàng ngày trong gia đình, vì thế nó thường không phải là các công việc nặng nhọc, thậm chí còn đòi hỏi sự khéo léo, tỷ mẩn, phù hợp với lao động nữ. Điều này phù hợp với lý thuyết về phân công lao động xã hội và quan niệm của nhiều người trong xã hội rằng công việc trong gia đình là công việc của phụ nữ. Thực tế theo thống kê của ILO, trong khoảng 53 triệu người làm nghề GVGĐ thì phụ nữ chiếm đến 83% [33]. Công việc phục vụ sinh hoạt trong gia đình có tính chất không quá phức tạp do đó thông thường không đòi hỏi người lao động GVGĐ phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đa số vẫn coi lao động GVGĐ là công việc thấp hèn, thường chỉ có những người sống ở nông thôn và có trình độ học vấn thấp mới chấp nhận làm. Cũng vì quan niệm này mà nhiều người sống tại các thành thị dù khó khăn về kinh tế cũng không chấp nhận làm công việc GVGĐ. Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên 11 cứu xã hội, trường Đại học Chulalongkom năm 2008 cho thấy chủ yếu người lao động GVGĐ là phụ nữ và chủ yếu có trình độ học vấn bậc tiểu học. Hiện nay, với sự thay đổi trong quan niệm về nghề GVGĐ và cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, nhiều người SDLĐ có yêu cầu cao về học vấn, trình độ chuyên môn của lao động GVGĐ, họ chấp nhận trả lương cao để có được người GVGĐ ưng ý, có trình độ học vấn cao. Chính vì vậy trong xã hội xuất hiện một số người lao động GVGĐ có trình độ cao. Tuy nhiên số lượng người lao động GVGĐ có trình độ học vấn cao vẫn rất ít, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong lực lượng lao động GVGĐ. 1.1.2. Phân loại lao động giúp việc gia đình Lao động GVGĐ có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như thời gian làm việc, nhóm công việc, cách thức tính tiền thù lao,... Lao động GVGĐ thường được phân loại theo thời gian làm việc và nhóm công việc gia đình mà họ đảm nhiệm. * Theo thời gian làm việc Lao động GVGĐ làm việc toàn thời gian: Đây là những người lao động GVGĐ sống tại gia đình người SDLĐ, họ cùng sinh hoạt và làm các công việc theo yêu cầu của người SDLĐ. Đối với các loại hình lao động khác làm việc trọn thời gian sẽ là thời gian làm việc theo ngày theo quy định, ví dụ như ở Việt Nam là 8 tiếng/ngày nhưng đối với người lao động GVGĐ làm việc toàn thời gian thì người lao động có mặt tại gia đình người SDLĐ, ăn, ngủ tại đó và thực hiện công việc của mình theo thỏa thuận với người SDLĐ. Chính vì thế, đối với lao động GVGĐ toàn thời gian thì thời gian biểu thực hiện công việc của họ thường linh hoạt hơn. Việc phân biệt thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thường không rõ ràng. Trong thời gian làm việc, họ có thể vừa làm vừa được nghỉ ngơi nhưng cũng có khi phải làm việc một cách bất chợt theo yêu cầu của chủ nhà. Cũng chính vì sống tại gia đình người SDLĐ nên giữa người SDLĐ và lao động GVGĐ thường có mối quan hệ gắn bó, dễ cảm thông cho nhau hơn. Đây vừa là yếu tố tích cực, giúp lao động GVGĐ 12 tránh được những tâm lý khi phải xa gia đình nhưng cũng là yếu tố khó khăn, tạo nên sự thiếu rõ ràng, rành mạch trong công việc, việc xác định thời giờ làm việc, - Lao động GVGĐ làm việc bán thời gian (theo giờ, theo buổi): Căn cứ thỏa thuận với người SDLĐ, lao động GVGĐ có thể làm việc một vài giờ trong một ngày, vài buổi trong một tuần hay thậm chí chỉ một buổi trong một tuần. Công việc này được lặp lại thường xuyên, liên tục trong một khoảng thời gian nhất định. Lao động GVGĐ bán thời gian thường là những người nhanh nhẹn, làm việc cho nhiều hộ gia đình do đó họ phải có khả năng sắp xếp công việc, đảm bảo hoàn thành công việc theo đúng thời gian thỏa thuận với từng hộ gia đình. Lao động GVGĐ bán thời gian phải tự lo nơi ăn, chốn ngủ cho mình nên thường là những người có nhà ở, gia đình gần nơi làm việc hoặc ở trọ, là những người ưa tự do, tự chủ trong công việc và sinh hoạt. Ưu điểm của lao động GVGĐ bán thời gian là ít xảy ra những xung đột hay mâu thuẫn giữa hộ gia đình SDLĐ và người giúp việc, bởi lẽ thời gian làm việc, thời gian tiếp xúc với các thành viên trong hộ gia đình ít hơn so với lao động GVGĐ toàn thời gian. Hạn chế của lao động GVGĐ bán thời gian là đòi hỏi cả hai bên tham gia quan hệ lao động phải luôn có kế hoạch, công việc cụ thể rõ ràng cho thời gian làm việc của người lao động, hạn chế sự tùy tiện. * Theo nhóm công việc gia đình Tùy thuộc vào phạm vi công việc GVGĐ theo pháp luật mỗi nước mà có thể phân nhóm công việc gia đình khác nhau. Có quốc gia coi bảo vệ là công việc GVGĐ nhưng có quốc gia lại coi đây là một loại công việc, nghề nghiệp riêng, có quốc gia lại coi công việc quản gia đồng nghĩa với công việc nội trợ… Phân loại về Việc làm theo tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO năm 1988 (ISCO-88) đưa ra một danh sách công việc cụ thể mà người lao động giúp việc gia đình đảm nhiệm thuộc các nhóm công việc 5121 (quản gia), 5122 (nấu ăn), 5131 (chăm sóc trẻ em), 5133 (chăm sóc thành viên tại nhà), 5169 (bảo vệ), 9152 (trông coi nhà cửa), 6113 (làm vườn). Trong mỗi nhóm này sẽ bao gồm một số công việc. Tuy nhiên, trong cách phân loại này các công việc không dễ tách rời nhau, một số công việc còn gần như 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan