Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động...

Tài liệu Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

.PDF
129
1
109

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -------------------- NGUYỄN MINH HIẾU PHÁP LUẬT VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MINH HIẾU PHÁP LUẬT VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. LÊ NGỌC ANH Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Ngọc Anh – Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Các thông tin, vụ việc được đề cập trong khóa luận là chính xác, trung thực; các dữ liệu, luận điểm có tham khảo từ các nguồn khác nhau đều được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này. Người thực hiện khóa luận Nguyễn Minh Hiếu DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Từ được viết đầy đủ 1 BLLĐ Bộ luật Lao động 2 BLDS Bộ luật Dân sự 3 FTA Hiệp định thương mại tự do 4 HĐLĐ Hợp đồng lao động 5 ILO Tổ chức Lao động quốc tế 6 NLĐ Người lao động 7 NSDLĐ Người sử dụng lao động MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG..............................11 1.1. Khái niệm, đặc điểm về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động ...................................................................................................... 11 1.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật và ý nghĩa của các quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động ....... 14 1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh của pháp luật đối với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động ...................................................... 14 1.2.2. Ý nghĩa của quy định pháp luật về người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động .............................................................................................. 15 1.3. Nội dung điều chỉnh và thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành đối với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động ................................................................................................................................... 16 1.3.1. Quy định về các căn cứ để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ............................................................................................................ 17 1.3.2. Quy định về trình tự, thủ tục để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động..................................................................................................... 30 1.3.3. Quy định về hậu quả pháp lý khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động .............................................................................................. 34 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................41 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..............................................................42 2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động .................................................................... 42 2.1.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về căn cứ để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ....................................................................... 42 2.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về trình tự, thủ tục đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động....................................................................... 48 2.1.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả pháp lý khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ................................................................ 49 2.2. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động ................................................... 52 2.2.1. Đối với quy định về căn cứ để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động..................................................................................................... 52 2.2.2. Đối với quy định về trình tự, thủ tục người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động .............................................................................................. 58 2.2.3. Đối với quy định về hậu quả pháp lý khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động..................................................................................... 60 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................63 KẾT LUẬN ..............................................................................................................64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong nền kinh tế thị trường để đảm bảo sự bình đẳng và tự do cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể trong quan hệ lao động, Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn ra đời với mục đích không chỉ bảo vệ các quyền lợi của người lao động, đồng thời cũng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Một trong những quyền quan trọng của người sử dụng lao động được pháp luật ghi nhận là quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Nếu như trước đây, pháp luật lao động có xu hướng tập trung bảo vệ cho người lao động nên rất hạn chế về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động thì ngày nay với mục tiêu hướng đến tiêu chuẩn lao động quốc tế, bảo đảm năng lực cạnh tranh của người sử dụng lao động trong hoạt động kinh doanh, nhiều quốc gia đã sửa đổi quy định pháp luật theo hướng mở rộng thêm các căn cứ và đơn giản hơn về thủ tục đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động trên cơ sở cân nhắc giữa vấn đề an ninh việc làm, thu nhập của người lao động và nhu cầu linh hoạt của người sử dụng lao động trong sản xuất, kinh doanh. Theo xu hướng chung đó, tại Việt Nam, Bộ luật Lao động năm 2019 đã được thông qua với những quy định được sửa đổi, bổ sung về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Việc sửa đổi bổ sung này đã tạo điều kiện hơn cho người sử dụng lao động trong việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, giúp họ chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó vẫn còn hạn chế,bất cập nhất định từ việc vận dụng các quy định pháp luật này vào thực tiễn, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của cả người sử dụng lao động và người lao động. Do đó, cần phải có một nghiên cứu mang tính hệ thống và toàn diện về thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành kết hợp với đánh giá về thực tiễn áp dụng, vận dụng các quy định pháp luật. Việc nghiên cứu này để nhằm chỉ ra được những bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật hiện nay, từ đó đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện các quy định pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động, góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động và cả các quyền lợi của người lao động. Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động” làm đề tài nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 1 Bàn về “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động” dưới các góc độ như việc đánh giá sự phù hợp của quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật , đối với tình hình nghiên cứu tại Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều dạng khác nhau, có thể kể đến một số công trình như: Về giáo trình và sách chuyên khảo, có khá nhiều tác giả đã phân tích chuyên sâu về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động vì đây là một trong những vấn đề quan trọng của quan hệ lao động, làm ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động. Các công trình nghiên cứu dựa trên việc phân tích chi tiết quy định của pháp luật lao động về căn cứ, trình tự thủ tục và trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Trong đó, có thể kể đến các công trình sau: - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Luật Lao động, Trần Hoàng Hải (Chủ biên), Nxb. Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh: Chương IV của giáo trình phân tích những cơ sở lý luận về Hợp đồng lao động, trong đó có đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của người sử dụng lao động dưới sự điều chỉnh của Bộ luật Lao động năm 2019. Đây là một trong những nguồn tham khảo giá trị cao cho các công trình nghiên cứu về pháp luật lao động nói chung và pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động nói riêng. - Nguyễn Hữu Chí và Nguyễn Văn Bình (Đồng chủ biên) (2021), Bình luận khoa học Bộ luật Lao động năm 2019, Nxb. Tư pháp, Hà Nội: Đây là một trong những công trình nghiên cứu chi tiết và chuyên sâu về Bộ luật Lao động năm 2019, đặc biệt là pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Công trình là sự kết hợp giữa việc phân tích quy định pháp luật hiện hành và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật để từ đó đưa ra những bình luận về tính hợp lý trong lập pháp. - Trần Thị Thúy Lâm và Đỗ Thị Dung (Đồng chủ biên) (2021), Bình luận Những điểm mới của Bộ luật Lao động năm 2019, Nxb. Lao động, Hà Nội: Công trình nghiên cứu tập trung vào việc phân tích, bình luận những quy định mới của Bộ luật Lao động năm 2019 so với Bộ luật Lao động năm 2012. Đặc biệt, đối với pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng của người sử dụng lao động, các tác giả đã chỉ ra được Bộ luật Lao động năm 2019 đã mở rộng hơn quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động, cụ thể hóa các trường hợp đặc biệt về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. - Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Tập 1, 2 Nguyễn Hữu Chí và Nguyễn Thị Thúy Lâm (Đồng chủ biên), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội: Tại Chương IV của giáo trình cũng đã trình bày những cơ sở lý luận về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động với những điểm mới được sửa đổi, bổ sung và quy định Bộ luật Lao động năm 2019. Đây cũng được xem là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về Bộ luật Lao động năm 2019. Điều này đã tạo ra những nền tảng, gợi mở cho việc nghiên cứu sau này của các học giả. Những nguồn tài liệu này đã cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản, và phân tích, giới thiệu các quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam. Về các công trình nghiên cứu là các Luận văn thạc sĩ, các Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật thì có: - Vũ Thị Bích Hải (2017), Nguyên tắc bảo vệ người sử dụng lao động trong chế định hợp đồng lao động, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, đây là một công trình nghiên cứu chuyên sâu, có nhiều nội dung để tham khảo. Cụ thể, đề tài tập trung nghiên cứu về các vấn đề: Khái quát chung về nguyên tắc bảo vệ người sử dụng lao động trong chế định hợp đồng lao động; Quy định pháp luật về nguyên tắc bảo vệ người sử dụng lao động trong chế định hợp đồng lao động; Trên cơ sở đó tác giả đã đưa một số kiến nghị. Tuy nhiên có thể thấy rằng nội dung trọng tâm của đề tài này chủ yếu bàn về nguyên tắc bảo vệ người sử dụng lao động thông qua việc thể hiện nguyên tắc này trong chế định hợp đồng lao động, do đó, về vấn đề người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động chỉ được đề cập đến dưới góc độ là một trong những biểu hiện của nguyên tắc bảo vệ người sử dụng lao động. - Vũ Minh Quang (2017), Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Tác giả tiến hành phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật lao động năm 2012 về căn cứ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Từ đó, tác giả đề xuất một số căn cứ mới, góp phần vào quá trình hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Bộ luật lao động. Tuy nhiên, vì phạm vi nghiên cứu khá rộng nên bài viết chưa thực sự chuyên sâu về đối tượng nghiên cứu. Nhưng đối với một công trình nghiên cứu thuộc cấp độ sinh viên thì bài viết đã thể hiện được khái quát những vấn đề mà Bộ luật Lao động năm 2012 cần hoàn thiện. - Lê Thị Thùy Dương (2015), “Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động – Những vướng mắc và hướng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 3 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Đối với công trình nghiên cứu này, tác giả đã có những phân tích, đánh giá sâu sắc về hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 với các nội dung tiêu biểu như: căn cứ chấm dứt, trình tự thủ tục và hậu quả pháp lý của hành vi mang lại. Đây được xem là định hướng nghiên cứu cho các học giả về các quy định mới của Bộ luật Lao động năm 2019 về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. - Phan Văn Công Danh (2014), “Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Tác giả đã có những nghiên cứu khái quát về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nói chung, trong đó, tập trung phân tích những vấn đề cơ bản về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động và người sử dụng lao động. Từ đó dễ dàng đối chiếu được những quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động và người sử dụng lao động. Bài viết là một nguồn tham khảo, tạo cơ sở cho việc so sánh với quy định của Bộ luật Lao động năm 2019. Ngoài những công trình nghiên cứu chuyên sâu nêu trên thì còn phải kể đến một số bài viết, bài nghiên cứu có giá trị tham khảo trên các tạp chí như: - Phạm Thị Thùy Dương (2021), “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và hệ lụy pháp lý”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, [https://lsvn.vn/don-phuong-cham-duthop-dong-lao-dong-va-he-luy-phap-ly1612515791.html], (truy cập ngày 20/5/2022): Theo tác giả, khi nghiên cứu về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hai vấn đề cơ bản cần phải đánh giá, phân tích là: căn cứ chấm dứt hợp đồng lao động và thủ tục chấm dứt. Bài viết đã nghiên cứu một cách khái quát về căn cứ và thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động theo ý chí của cả người lao động và người sử dụng lao động. Định hướng chủ yếu của bài viết nhằm so sánh quy định của pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động và người sử dụng lao động để thể hiện sự “ưu ái” của pháp luật dành cho người lao động hơn so với người sử dụng lao động. Do đó, khi xét tổng quan các vấn đề cần khai thác khi nghiên cứu pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động thì bài viết chưa đánh giá được toàn diện chế định vì bỏ qua việc phân tích, đánh giá nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên, nhìn chung, bài viết góp phần vào quá trình hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam, đặc biệt là Bộ luật Lao động năm 2019. - Oanh, T. T. D.; An, N. B.. (2021), “Legal aspects and practice of guarantee of employees' rights in being unilaterally terminated labor contract in the context of COVID-19 pandemic in Vietnam”, Journal of Law and Political Sciences: Các tác giả 4 đã tiến hành đánh giá các hệ quả pháp lý của hành vi chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động và người sử dụng lao động trong thời gian diễn ra đại dịch COVID19. Bài viết tập trung vào hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động bao gồm: quyền và nghĩa vụ của người lao động khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật…Đây được xem là một nguồn tham khảo cho quá trình lập pháp khi tiến hành điều chỉnh quy định của pháp luật lao động trong giai đoạn quan hệ lao động bị ảnh hưởng nghiêm trong bởi đại dịch COVID-19 và các đại diện tương tự sẽ xảy ra trong tương lai. - Nguyễn Thanh Việt (2021), “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động”, Tạp chí Pháp luật và Kinh tế, số 2 (347): Bài viết trình bày khái quát những điểm mới liên quan đến quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động: căn cứ để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (điểm mới so với Bộ luật Lao động năm 2012) và thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động. Bài viết mặc dù chưa nghiên cứu một cách toàn diện quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động nhưng đã phát hiện và phân tích được một số điểm mới của Bộ luật Lao động năm 2019. - Đinh Thị Chiến (2019), “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, số 09 (130): Bài viết tác giả tiến hành nghiên cứu, phân tích những điểm mới của Dự thảo so với Bộ luật Lao động năm 2012 về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động và đưa ra những góp ý cho từng trường hợp. Đây được xem là một bài viết nghiên cứu đặc biệt so với những bài viết, công trình khác vì tiến hành phân tích, đánh giá các nội dung của Dự thảo. Từ đó, trực tiếp nêu lên ý kiến về những “dự định” sửa đổi, bổ sung của các nhà lập pháp về quy định của pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. - Đoàn Xuân Trường (2018), “Thực trạng thực hiện quy định của Bộ luật lao động năm 2012 về hợp đồng lao động và một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (359). Bài viết bàn về tổng quan các quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 về hợp đồng lao động nói chung trong đó có nội dung liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng lao động, thực trạng thực hiện quy định pháp luật về hợp đồng lao động, từ đó đề xuất một số kiến nghị đối với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng lao động nói chung. - Đỗ Ngân Bình (2017), “Hoàn thiện chế định hợp đồng lao động - Từ thực tiễn 5 hoạt động của doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, số 6. Bài viết bàn về việc áp dụng, vận dụng các quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 về hợp đồng lao động nói chung trong đó có việc chấm dứt hợp đồng lao động nói riêng trong thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp. Từ đó chỉ ra các bất cập, hạn chế của các quy định trong Bộ luật Lao động năm 2012 và đề xuất giải pháp hoàn thiện chúng. - Nguyễn Cường (2017), “Về lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Lao động”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7. Bài viết này trực tiếp bàn về việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tuy nhiên, nội dung chính, trọng tâm của bài viết chỉ đề cập đến lý do/căn cứ để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. - Nguyễn Thanh Huyền (2017), “Một số vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng lao động”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (349). Bài viết đã đưa ra và phân tích một số vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng lao động nói chung và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nói riêng (bao gồm cả trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt và trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt). Do phạm vi nghiên cứu rộng và khá bao quát, bài viết chỉ nêu lên những vấn đề gợi mở có liên quan đến việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, không chuyên sâu riêng về trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. - Phan Thông Anh, Vũ Thị Bích Hải (2016), “Sự cần thiết phải bảo vệ người sử dụng lao động trong chế định hợp đồng lao động”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 292. Bài viết này tập trung nghiên cứu, phân tích và chỉ rõ về các lý do để chứng minh rằng trong chế định hợp đồng lao động nói chung, các quy định về chấm dứt hợp đồng lao động nói riêng, pháp luật lao động bên cạnh việc quy định nhằm bảo vệ cho người lao động cũng cần có các quy định nhằm bảo vệ người sử dụng lao động để đảm bảo hài hòa giữa quyền lợi của người lao động với các lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. - Nguyễn Thị Hoa Tâm (2016), “Một số ý kiến về áp dụng pháp luật lao động trong giải quyết các tranh chấp về chấm dứt hợp động lao động”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 533. Nội dung bài viết tập trung nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật lao động khi giải quyết các tranh chấp về chấm dứt hợp đồng lao động. Bài viết cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập trên thực tế áp dụng các quy định này và gợi mở một số hướng nghiên cứu. - Lê Thị Hoài Thu (2015), “Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật 6 về hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8 (288). Bài viết nghiên cứu về việc thực thi pháp luật về hợp đồng lao động nói chung, đặc biệt phân tích chuyên sâu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi các quy định pháp luật này. Đây chính là cơ sở nền tảng chung để tác giả tham khảo để lý giải nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hiện nay. - Nguyễn Thị Bích (2012), “Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định về hợp đồng lao động trong Bộ luật Lao động năm 2012”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích tổng quan về thực trạng và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật của Bộ luật Lao động năm 2012 về hợp đồng lao động nói chung, trong đó có một phần nhỏ về trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về hợp đồng lao động trong Bộ luật Lao động năm 2012 nói chung. Có thể thấy rằng, đối với các nghiên cứu dưới dạng các giáo trình, sách chuyên khảo hay các bài viết trên các tạp chí đã có những phân tích, cập nhật, đánh giá đối với các quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành. Tuy nhiên, do giới hạn của các loại hình nghiên cứu này khá ngắn gọn về dung lượng nên nội dung chỉ chủ yếu dưới dạng phân tích, cập nhật mà chưa thể đi vào nghiên cứu đánh giá một cách chuyên sâu, toàn diện riêng đối với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu toàn diện như luận văn, khoá luận lại chủ yếu là các công trình nghiên cứu trước khi Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực áp dụng, do đó những phân tích, đánh giá về các quy định pháp luật tại các công trình này có phần đã lỗi thời, những đề xuất kiến nghị có thể đã được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành hiện nay. Do đó, việc công trình nghiên cứu của tác giả sẽ hệ thống hoá, cập nhật các quy định mới của Bộ luật Lao động năm 2019 hiện hành và phân tích, đánh giá về thực tiễn áp dụng các quy định này cũng như có các đề xuất, kiến nghị phù hợp sẽ có giá trị riêng nhất định so với các công trình nghiên cứu nêu trên. 2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài Bên cạnh việc khảo sát về tình hình nghiên cứu tại Việt Nam, tác giả cũng thực hiện khảo sát về các công trình nghiên cứu khác trên phạm vi các quốc gia khác, có thể liệt kê một số công trình mà tác giả đã tiếp cận như: Akin, Levent (2004), “Termination of Labor Contracts and Unfair Dismissal under Turkish Labor Law”, Comparative Labor Law & Policy Journal 25 Comp. Lab. 7 L. & Po: Bài viết tập trung nghiên cứu về quy định chấm dứt hợp đồng lao động theo Luật lao động Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm: thủ tục đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động và người sử dụng lao động, hậu quả pháp lý trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Sturua, Nata (2015), “Termination of Employment Contract”, Journal of Law (TSU) 2015 J. Law (2015): Tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu về chấm dứt hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động Georgian với hai vấn đề chính: căn cứ chấm dứt hợp đồng lao động và thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động. Bằng việt phân tích, đối chiếu với pháp luật lao động của Liên minh Châu Âu (EU) và các nước Đức, Hoa Kỳ, Hà Lan, tác giả đã đưa ra những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật lao động Georgian về căn cứ và thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động. Macovei, Dumitru, “Termination of Employment Contract in Comparative Law Studies”, Analele Stiintifice Ale Universitatii Alexandru Ioan Cuza Di: Bài viết đánh giá hậu quả pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động Rumania. Tác giả đã tiến hành hoạt động so sánh luật của nước Cộng hòa Pháp, pháp luật của Liên minh Châu Âu (EU), Luật lao động Cộng hòa Albania và Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Từ đó, tác giả đã đưa ra những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật lao động Rumania. Trong những công trình được liệt kê trên, các tác giả đã đi phân tích và đánh giá những vấn đề lí luận liên quan đến đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Từ đó, đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật của những quốc gia mà các tác giả nghiên cứu. Mặc dù, các nghiên cứu của công trình này chưa thực sự hoàn toàn phù hợp với bối cảnh, tình hình của nước ta nhưng đây là những tài liệu tham khảo khá hữu ích để tác giả chọn lọc phục vụ cho quá trình nghiên cứu khóa luận. 3. Mục đích nghiên cứu Khóa luận được thực hiện với các mục đích nghiên cứu như sau: Thứ nhất, nghiên cứu có hệ thống quy định pháp luật lao động Việt Nam về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Thứ hai, đánh giá tác động của các quy định hiện hành của pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động đối với thực tiễn áp dụng pháp luật. Thứ ba, thông qua việc nghiên cứu các quy định pháp luật lao động Việt Nam 8 hiện nay về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động kết hợp với đánh giá thực trạng để chỉ tra những kết quả đạt được, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế trong lập pháp từ khi Bộ luật Lao động năm 2019 bắt đầu điều chỉnh các quan hệ lao động cho đến nay. Thứ tư, đề xuất những kiến nghị để giải quyết những bất cập, hạn chế đã phát hiện trong quá trình nghiên cứu. Qua đó, đề tài góp phần vào quá trình hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam nói chung và pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động nói riêng. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Trong khóa luận này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động thông qua 03 vấn đề: (1) Căn cứ; (2) Trình tự, thủ tục và (3) Nghĩa vụ/Hậu quả pháp lý khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của khóa luận tập trung vào các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng áp dụng pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Cụ thể: Thứ nhất, nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động, chủ yếu là Bộ luật lao động 2019. Thứ hai, để phong phú hơn nội dung nghiên cứu, đồng thời tham khảo những ưu điểm để làm cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị về việc hoàn thiện quy định của pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động, tác giả đã tiến hành nghiên cứu thêm quy định pháp luật của một số quốc gia về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động như: Hàn Quốc, Pháp. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được thực hiện thông qua việc kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh pháp luật, đánh giá thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phân tích, đánh giá và tổng hợp. Phương pháp phân tích được áp dụng với các trường hợp cần làm rõ khái niệm, phân loại, căn cứ, thủ tục... của quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động 9 của người sử dụng lao động. Phương pháp tổng hợp áp dụng sau những vấn đề lớn đã được triển khai trong các mục, chương; và trên sự đan xen của phương pháp so sánh, đánh giá thực tiễn. Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp luật được sử dụng nhiều ở những phần của đề tài đề cập đến các vấn đề cơ bản mang tính lý luận và quy định pháp luật về người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Chương 1). Chương 2 của đề tài, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp khảo sát, đánh giá thực tiễn, đối chiếu với những gì đã phân tích, tổng hợp tại Chương 1; từ đó tổng hợp cuối cùng để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện đề tài đang nghiên cứu. 6. Ý nghĩa khoa học của khóa luận Về mặt lý luận: khóa luận góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Về mặt thực tiễn: Việc làm rõ nội dung, những vấn đề còn vướng mắc khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện, khóa luận giúp các chủ thể có quan tâm về vấn đề này nắm rõ nội dung của quy định, trường hợp áp dụng, cơ sở, thủ tục, vướng mắc khi thực hiện các quy định người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động để từ đó có cơ sở vững chắc cho việc áp dụng các quy định này một cách hiệu quả. Nghiên cứu khóa luận trên tác giả góp phần chỉ ra những vấn đề vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật cần được làm rõ/sửa đổi, bổ sung, đồng thời có một số đề xuất kiến nghị mong muốn được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành luật, cũng như các đối tượng khác có quan tâm. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của khóa luận gồm 2 chương: Chương 1. Khái quát chung về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và một số kiến nghị. 10 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động Thuật ngữ “đơn phương chấm dứt HĐLĐ” hiện nay chưa được định nghĩa trong pháp luật Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới1. Về phương diện cấu tạo từ, đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là một cụm từ ghép trong đó có từ “đơn phương”, theo Từ điển tiếng Việt “đơn phương” có nghĩa là “có tính chất riêng của một bên, mà ở đây là NSDLĐ”2, và “chấm dứt HĐLĐ là sự kiện pháp lý mà một hoặc cả hai bên không tiếp tục thực hiện HĐLĐ, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của hai bên đã thỏa thuận trong HĐLĐ”3. Và, “đơn phương chấm dứt HĐLĐ” là “việc tự ý chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn mà không có sự cùng thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ của một trong các bên tham gia quan hệ lao động”4. Do đó, “đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ” là việc NSDLĐ tự ý không tiếp tục thực hiện HĐLĐ, chấm dứt quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong HĐLĐ theo ý chí của riêng NSDLĐ mà không cần sự thoả thuận với NLĐ là một bên tham gia vào quan hệ lao động. Trên cơ sở đó, một số tác giả cũng đã đưa ra các khái niệm và cách hiểu về đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói chung như sau:“Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi pháp lý trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm chấm dứt quan hệ lao động với bên kia”5. Hay cách giải thích khác thì “Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi pháp lý của bên chủ thể nhằm làm chấm dứt hiệu lực pháp lý của hợp đồng trước thời hạn mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia”6. Hoặc: “Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi của một chủ thể trong quan hệ HĐLĐ có thể dẫn đến việc chấm dứt hiệu lực pháp lý của HĐLĐ trước thời hạn theo quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia”7. Trong Giáo trình Luật Lao động của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng đưa ra khái niệm về đơn phương chấm dứt HĐLĐ là việc “chấm dứt Vũ Minh Quang (2017), Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.8. 1 Bộ Giáo dục và đào tạo –Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, tr.672. 2 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học (Luật lao động, luật đất đai, tư pháp quốc tế), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.93. 3 4 Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, tr.273. 5 Đào Thị Hằng (2001), “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, Tạp chí Luật học, (4), tr.16. Nguyễn Thị Kiều My (2010), Quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ - Thực trạng tại các doanh nghiệp, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP HCM, tr. 20. 6 Nguyễn Thị Hoa Tâm (2013), Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP HCM, tr 24. 7 11 HĐLĐ dựa trên ý chí của một bên, là trường hợp HĐLĐ đang có hiệu lực bị chấm dứt dựa trên ý chí của bên kia”8. Nhìn chung, các cách giải thích nêu trên đều tương đồng về nội dung khi đưa ra khái niệm cho thuật ngữ “đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ”. Từ đó đó, tác giả có thể khái quát lại rằng đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là việc NSDLĐ tự ý không tiếp tục thực hiện HĐLĐ, chấm dứt quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong HĐLĐ trước thời hạn, theo ý chí của riêng NSDLĐ mà không cần sự thoả thuận với NLĐ . Từ khái niệm này, có thể rút ra những đặc điểm đặc trưng về đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ: Thứ nhất, đây là hành vi đơn phương của NSDLĐ, xuất phát từ ý chí của riêng NSDLĐ. Không giống với khi giao kết hợp đồng, đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của cả hai bên chủ thể tham gia vào quan hệ lao động, đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ được thực hiện bởi ý chí của NSDLĐ vì không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng, nhưng được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện khi có các căn cứ luật địnhTrong đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, chỉ cần NSDLĐ có ý chí chấm dứt quan hệ với bên kia, ý chí này được biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức nhất định để cho NLĐ được biết mà không nhất thiết phải nhận được sự chấp nhận của bên kia. Ý chí đơn phương xuất phát từ NSDLĐ là đặc trưng cơ bản của việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Đặc điểm này giúp phân biệt đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ với trường hợp chấm dứt HĐLĐ do ý chí đơn phương của NLĐ hoặc do ý chí của hai bên; ý chí của người thứ ba. Trong đó, chấm dứt HĐLĐ do ý chí của hai bên được hiểu là trường hợp hai bên đều thể hiện, bày tỏ sự mong muốn được chấm dứt quan hệ hoặc một bên đề nghị và bên kia chấp nhận; còn chấm dứt HĐLĐ theo ý chí của người thứ ba là những trường hợp chấm dứt không phụ thuộc vào ý chí của hai bên chủ thể trong quan hệ lao động. Thứ hai, hành vi đơn phương này của NSDLĐ nhằm chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn hoặc trước khi công việc được hoàn thành, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên đã thoả thuận trong HĐLĐ, chấm dứt quan hệ lao động với NLĐ. Về mặt lý luận, HĐLĐ là sự thỏa thuận giữa NLĐ và NSDLĐ về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Luật Lao động, Trần Hoàng Hải (Chủ biên), Nxb. Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, tr. 196. 8 12 động.9 Với tư cách là một loại hợp đồng, HĐLĐ có vai trò quan trọng trong việc xác lập và thực hiện một quan hệ pháp luật và là cơ sở pháp lý để các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong suốt thời gian còn hiệu lực pháp lý. Khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì HĐLĐ bị chấm dứt trước thời hạn. Điều này dẫn đến việc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận trong HĐLĐ. Đồng thời, hành vi này còn làm chấm dứt quan hệ lao động Thông thường, khi một quan hệ lao động được giao kết, các bên sẽ thỏa thuận về thời gian, khối lượng công việc phải hoàn thành và tuân thủ theo những thỏa thuận đó. Tuy nhiên, trong đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, khi NSDLĐ thực hiện việc đơn phương thì quan hệ HĐLĐ sẽ có thể bị chấm dứt trước thời hạn, trước tiến độ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, NLĐ sẽ bị mất việc làm. Đặc điểm này giúp phân biệt đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói chung và đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ nói riêng với trường hợp chấm dứt HĐLĐ do hết thời hạn hoặc do công việc đã hoàn thành. Tức là trong đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ, mặc dù HĐLĐ vẫn đang trong thời gian thực hiện hoặc chưa hoàn thành công việc nhưng NSDLĐ đã quyết định chấm dứt HĐLĐ. Thứ ba, xuất phát từ hai đặc trưng trên mà pháp luật quy định rất chặt chẽ đối với đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NSDLĐ hay nói cách khác, để đơn phương chấm dứt HĐLĐ, NSDLĐ phải tuân thủ những điều kiện rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Trên nguyên tắc NLĐ được đảm bảo về quyền tự do làm việc, NSDLĐ được tự do tuyển chọn, bố trí lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh, pháp luật lao động ghi nhận quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ trong một số trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, hệ luỵ lớn nhất từ việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là có thể dẫn đến việc NLĐ bị chấm dứt QHLĐ ngoài ý muốn của họ, NLĐ rơi vào tình trạng mất việc làm, vậy nên pháp luật lao động quy định NSDLĐ để thực hiện việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ phải có các căn cứ luật định, và phải tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục, ngoài ra pháp luật còn quy định về những trường hợp NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Khi NSDLĐ tuân thủ đầy đủ các quy định trên thì mới được pháp luật lao động bảo vệ, còn không sẽ phải chịu những chế tài nghiêm khắc do hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật. Tóm lại, đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ là hành vi pháp lý đơn phương của NSDLĐ nhằm làm chấm dứt quan hệ lao động mà không cần sự đồng ý của 9 Điều 13 BLLĐ năm 2019. 13 NLĐ. Đơn phương chấm dứt HĐLĐ phải tuân thủ các điều kiện về căn cứ, thủ tục chấm dứt cũng như các trường hợp loại trừ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ; việc không tuân thủ các điều kiện này sẽ được xác định là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật và phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định. 1.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật và ý nghĩa của các quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động 1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh của pháp luật đối với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động Pháp luật lao động Việt Nam luôn đặt ra vấn đề cân bằng quyền lợi của các bên trong quan hệ lao động sao cho vừa đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của NSDLĐ, vừa đảm bảo được vấn đề việc làm cho NLĐ. Nếu pháp luật chỉ trao cho NSDLĐ quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà không có cơ chế pháp lý hữu hiệu để điều chỉnh thì NLĐ dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường lao động. Tổ chức Lao động Quốc tế cũng khẳng định rằng bảo vệ NLĐ là một sứ mệnh trọng tâm, là nguyên tắc chủ đạo cần được tuân thủ trong pháp luật lao động quốc tế và pháp luật lao động quốc gia.10 Do đó, việc ban hành và hoàn thiện quy định về đơn phương chấm dứt HĐLĐ là điều cần thiết và phải luôn đặt lên hàng đầu. Tóm lại, sự cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ được cụ thể hóa qua một số vấn đề chính sau đây: Thứ nhất, khi có sự điều chỉnh của pháp luật đối với đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ thì quyền lợi của các bên trong quan hệ lao động được bảo đảm. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều biến động và luôn đổi mới, đòi hỏi NSDLĐ phải có những thay đổi về chiến lược kinh doanh, cơ cấu bộ máy nhân sự sao cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp theo từng thời kỳ. Từ đó, buộc NSDLĐ phải giảm cơ cấu nhân sự, chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Chính vì thế cần có cơ chế pháp lý cho phép NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, trong đó phải quy định về căn cứ, trình tự thủ tục và trách nhiệm của các bên khi phát sinh sự kiện pháp lý này. Khi pháp luật có những quy định cụ thể và phù hợp để đáp ứng được nhu cầu kinh doanh của NSDLĐ, vừa có những biện pháp “đền bù” thỏa đáng cho NLĐ thì quyền tự do kinh doanh, tự chủ trong việc điều hành doanh nghiệp của NSDLĐ mới được thực thi trên thực tế và nhận được sự hợp tác từ NLĐ. Đồng thời, dưới sự điều chỉnh của pháp luật, NLĐ – bên yếu thế trong quan hệ 10 Lời nói đầu của Khuyến nghị 198 ILO. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan