TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***-----------
NGÔ THỊ LẠI
MSSV: 1853801015092
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ TIẾP NHẬN NGƯỜI TỊ NẠN
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2022
Người hướng dẫn: ThS. Vũ Lê Hải Giang
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022
LỜI CẢM ƠN VÀ CAM KẾT
Tác giả cam kết luận văn là công trình nghiên cứu của bản thân, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Vũ Lê Hải Giang. Các số
liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình, luận văn, luận án nào trước đây. Luận văn có kế
thừa các tư tưởng, kết quả nghiên cứu từ những người đi trước. Các thông tin
tham khảo trong luận văn đều được tác giả trích dẫn trung thực và đáng tin cậy.
Tác giả luận văn
Ngô Thị Lại
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................. 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .............................................................. 6
7. Kết cấu đề tài .......................................................................................... 7
CHƯƠNG 1...................................................................................................... 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỊ NẠN VÀ NGƯỜI TỊ NẠN ............. 8
1.1. Khái niệm tị nạn ................................................................................. 8
1.2. Khái niệm người tị nạn ...................................................................... 9
1.2.1. Khái niệm người tị nạn ................................................................. 9
1.2.2. Đặc điểm người tị nạn................................................................. 13
1.3. Vấn đề tiếp nhận người tị nạn ......................................................... 16
1.3.1. Thực trạng tiếp nhận người tị nạn ............................................. 16
1.3.2. Các vấn đề đặt ra cho quốc gia khi tiếp nhận người tị nạn ...... 16
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 19
CHƯƠNG 2.................................................................................................... 20
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN
THẾ GIỚI VỀ TIẾP NHẬN NGƯỜI TỊ NẠN .......................................... 20
2.1. Pháp luật quốc tế .............................................................................. 20
2.1.1. Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư
về vị thế của người tị nạn năm 1967 ....................................................... 21
2.1.2.
Pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Phi............. 22
2.1.3.
Pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Âu.............. 24
2.1.4.
Pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Mỹ ............. 25
2.1.5. Pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại Trung Đông và
châu Á 26
2.2. Pháp luật tiếp nhận người tị nạn tại một số quốc gia trên thế giới
27
2.2.1. Tính đủ điều kiện để được bảo vệ người tị nạn: khái niệm, loại
trừ và chấm dứt tình trạng tị nạn............................................................ 29
2.2.2. Điều khoản về sự hợp tác với UNHCR ...................................... 35
2.2.3. Cấm trục xuất hoặc hồi hương người tị nạn về nơi họ phải đối
mặt với sự nguy hiểm ............................................................................... 37
2.2.4. Bảo mật thông tin cá nhân người tị nạn .................................... 38
2.2.5. Hỗ trợ ban đầu cho người xin tị nạn ......................................... 39
2.2.6. Thủ tục xác định tình trạng tị nạn ............................................. 40
2.2.7. Đảm bảo quyền đoàn tụ gia đình cho người tị nạn ................... 50
2.2.8. Quyền được thường trú và quốc tịch ......................................... 51
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 55
CHƯƠNG 3.................................................................................................... 56
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TIẾP NHẬN NGƯỜI TỊ NẠN VÀ MỘT
SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ...................................................... 56
3.1. Lịch sử tiếp nhận người tị nạn tại Việt Nam ................................. 56
3.2. Cơ sở xây dựng Luật tiếp nhận người tị nạn tại Việt Nam .......... 56
3.3. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam khi xây dựng pháp luật tiếp
nhận người tị nạn ....................................................................................... 61
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 70
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai dòng người tị nạn đã bùng nổ
nhiều nơi trên thế giới và có xu hướng tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây.
Theo thống kê của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (sau đây gọi là
UNHCR), tính đến cuối năm 2020 đã có ít nhất 82,4 triệu người trên thế giới
buộc phải rời bỏ nhà cửa, quê hương. Trong số đó có gần 26,4 triệu người tị
nạn, khoảng một nửa trong số họ dưới 18 tuổi. Trung bình 95 người trên trái
đất thì có 1 người bỏ nhà ra đi do xung đột hoặc bắt bớ1.
Đối mặt với thực trạng này, hiện nay nhiều nước trên thế giới đã
thiết lập một khung pháp lý để điều chỉnh vấn đề tị nạn. Việt Nam khẳng định
luôn coi trọng hợp tác khu vực và quốc tế trong vấn đề tị nạn, tôn trọng pháp
luật quốc tế, trong đó có việc thực hiện các nghĩa vụ liên quan nhằm giải quyết
thách thức toàn cầu một cách tích cực và có trách nhiệm2.
Tại Việt Nam, quyền tị nạn là một quyền Hiến định. Trong Hiến pháp
năm 1946, quyền tị nạn được quy định sơ khai tại Điều 16: “Những người ngoại
quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên
đất Việt Nam”. Các bản Hiến pháp tiếp theo vẫn tiếp tục ghi nhận nội hàm của
quyền tị nạn. Cụ thể, Điều 37 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Những người
nước ngoài vì đấu tranh cho tự do, cho chính nghĩa, cho hoà bình và cho sự
nghiệp khoa học mà bị bức hại đều được Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
cho phép trú ngụ”, Điều 81 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Những người nước
ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và
hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép cư trú”, Điều 82 Hiến pháp năm 1992
quy định: “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ
nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình, hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại
thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư
trú”, Điều 49 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Người nước ngoài đấu tranh vì
1.
UNHCR, “Figures at a Glance”, https://www.unhcr.org/figures-at-a-glance.html, truy cập ngày 24/6/2022
Đại sứ Phạm Hải Anh phát biểu tại New York 7/12/2021 của Liên Hợp Quốc thảo luận về Báo Cáo của Cao
ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn Filippo Grandi về tình hình người tị nạn trên khắp toàn cầu
“Hội đồng Bảo an thảo luận tình hình người tị nạn trên toàn cầu”, https://vov.gov.vn/hoi-dong-bao-an-thaoluan-tinh-hinh-nguoi-ti-nan-tren-toan-cau-dtnew-331759, truy cập ngày 24/6/2022
1
2
2
tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự
nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam xem xét cho cư trú”. Tuy nhiên, cho đến nay nước ta vẫn không có
bất kỳ văn bản nào hướng dẫn, cụ thể thi hành quyền tị nạn.
Trong những năm trở lại đây, tình trạng xung đột có xu hướng tăng
trên thế giới và khu vực. Việc nghiên cứu về pháp luật tị nạn là vô cùng cần
thiết. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề đơn giản, có thể ảnh hưởng đến các
lợi ích về an ninh, chính trị, xã hội của nước ta. Vì vậy, nước ta cần nhìn nhận
một cách thấu đáo, khách quan, thông qua học tập kinh nghiệm của các quốc
gia trên thế giới nhằm đưa ra những chính sách hiệu quả nhất, phù hợp nhất cho
Việt Nam.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật
quốc tế về tiếp nhận người tị nạn và kinh nghiệm cho Việt Nam” để làm
luận văn tốt nghiệp. Tác giả hy vọng rằng, khóa luận này có thể phần nào đóng
góp giá trị tham khảo cho Việt Nam trong xây dựng pháp luật tiếp nhận người
tị nạn.
Tình hình nghiên cứu
Về tình hình nghiên cứu tại Việt Nam: hiện nay các công trình nghiên
cứu về pháp luật tiếp nhận người tị nạn còn khá ít, hầu hết chỉ nghiên cứu khái
quát tại một số khu vực nhất định trên thế giới mà chưa đi nghiên cứu sâu về
cấu trúc của một đạo luật tiếp nhận người tị nạn cụ thể. Một số khác, nghiên
cứu về các vấn đề liên quan như di cư, nhập cư mà chưa đi sâu vào phân tích
khía cạnh pháp lý về người tị nạn, luật tiếp nhận người tị nạn. Có thể kể đến
một số công trình tiêu biểu như:
Luận văn Thạc sĩ Giải pháp ứng phó với nhập cư ở Liên minh châu
Âu (năm 2018) của tác giả Lê Thị Kim Oanh tại Học viện Khoa học xã hội: bài
viết đã trình bày về nguyên nhân, tác động của nhập cư, thực trạng nhập cư, các
giải pháp ứng phó nhập cư của Liên minh châu Âu và rút ra kinh nghiệm cho
ASEAN về vấn đề nhập cư. Luận văn tiếp cận vấn đề tị nạn như là một hình
thức nhập cư ở Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ tìm hiểu vấn đề
người tị nạn một cách chung chung và chưa đi sâu nghiên cứu về luật tiếp nhận
người tị nạn.
2.
3
Khóa luận tốt nghiệp Người tị nạn. Lý luận và thực tiễn (2016) của
tác giả Phạm Cao Phúc Trí tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh:
bài viết trình bày tổng quát các vấn đề xoay quanh người tị nạn từ góc độ pháp
luật đến hiện thực hoàn cảnh người tị nạn tới thời điểm lúc bấy giờ.
Luận văn Thạc sĩ Quy định của Liên minh châu Âu về người tị nạn
và kinh nghiệm đối với ASEAN (2017) của tác giả Vũ Thu Trang tại Trường
Đại học Luật Hà Nội: bài viết phân tích chuyên sâu về vấn đề tị nạn cũng như
pháp luật tị nạn tại Liên Minh châu Âu như: định nghĩa người tị nạn, quyền
người tị nạn, các thủ tục tiếp nhận và các cơ quan hỗ trợ người tị nạn từ đó đưa
ra những kinh nghiệm cho ASEAN.
Luận văn Thạc sĩ Vấn đề di cư trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh
lạnh (2010) của tác giả Nghiêm Tuấn Hùng tại Đại học Quốc gia Hà Nội: bài
viết đề cập tới tình hình di cư quốc tế và những tác động của nó trong quan hệ
quốc tế. Bài viết cung cấp những thông tin cơ bản mô tả thực trạng hiện tượng
di cư quốc tế trên phạm vi thế giới và các khu vực nhưng lại không bao gồm
người tị nạn trong đó.
Tạp chí pháp lý Quy định của Liên minh châu Âu về người tị nạn và
một số kinh nghiệm đối với ASEAN (Số 9/2015) của tác giả Phạm Hồng Hạnh
đăng trên tạp chí Luật học: trong bài viết này, tác giả đã phân tích những nội
dung cơ bản nhất của pháp luật châu Âu về người tị nạn. Trong đó, tác giả mới
chỉ chủ yếu tập trung phân tích khái niệm về người tị nạn, điều kiện để được
cấp quy chế tị nạn và nêu ra bài học kinh nghiệm cho ASEAN.
Công trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên Địa vị pháp lý của
người tị nạn trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam (2017-2018) của
Đào Mạnh Nghĩa, Phan Huy Thắng, Đinh Sỹ Thắng tại Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh: bài viết đã khái quát về người tị nạn trong pháp luật quốc tế,
pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật về người tị nạn ở một số khu
vực trên thế giới. Tuy nhiên, không phân tích sâu về pháp luật tiếp nhận tị nạn
và kinh nghiệm cho Việt Nam mà chỉ đưa ra các kết luận kiến nghị cho các
quốc gia châu Á nói chung.
Về tình hình nghiên cứu nước ngoài: nhìn chung các công trình
nghiên cứu nước ngoài về vấn đề tị nạn khá phổ biến và có cái nhìn đa chiều.
Tuy nhiên, tất nhiên những nghiên cứu này rất khó áp dụng trực tiếp tại Việt
4
Nam do những khác biệt về thể chế, hệ thống pháp luật một số công trình có
thể kể đến như:
Bài viết Human Rights, Refugees, and The Right ‘To Enjoy’Asylum
(2005) của tác giả Alice Edwards, xuất bản bởi Oxford University Press: bài
viết đã phân tích về quyền con người của người tị nạn trong đó nổi bật là quyền
đoàn tụ gia đình và quyền làm việc của họ.
Bài viết Asylum as a General Principle of International Law (2015)
của tác giả María-Teresa Gil-Bazo, xuất bản bởi International Journal of
Refugee Law: bài viết đã phân tích sự hiện diện liên tục trong lịch sử của tị nạn
trên khắp các nền văn minh và theo thời gian, cũng như sự kết tinh của nó trong
hiến pháp của các quốc gia trên toàn thế giới và kết luận rằng tị nạn tạo thành
một nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế và có giá trị ràng buộc pháp lý
nghĩa vụ của các quốc gia đối với các cá nhân tìm kiếm sự bảo vệ.
Bài viết Refugees right, and, Responsibilities Bridging the
Integration Gap (2017) của tác giả Megan j. Ballard, xuất bản bởi University
of Pennsylvania Journal of International Law: bài viết cho thấy sự không hiệu
quả của mô hình hội nhập người tị nạn tại Hoa Kỳ, nghiên cứu về mô hình hội
nhập có hiệu quả ở Canada và đưa ra đề xuất cho Hoa Kỳ để giải quyết các
thách thức mà họ gặp phải khi xây dựng mô hình hội nhập cho người tị nạn.
Bài viết Refugee Law and Policy In Selected Countries, The Law
Library of Congress (2016) của tác giả Luis Acosta xuất bản bởi Global Legal
Research Center: bài viết mô tả luật pháp và chính sách về người tị nạn ở 22
quốc gia phân tán về mặt địa lý và ở cấp độ siêu quốc gia trong Liên minh châu
Âu (EU).
Mục tiêu nghiên cứu
a.
Mục tiêu phổ quát
Đề tài hướng tới mục tiêu chung nhất là nghiên cứu về pháp luật quốc
tế về tiếp nhận người tị nạn và rút ra một số đề xuất cho Việt Nam.
b.
Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, tìm hiểu về một số vấn đề lý luận về tị nạn, người tị nạn và
vấn đề tiếp nhận người tị nạn.
Thứ hai, nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia
trên thế giới về tiếp nhận người tị nạn.
3.
5
Thứ ba, dựa trên những phân tích, đánh giá về pháp luật tiếp nhận
người tị nạn, đề tài đưa ra một số đề xuất về việc xây dựng pháp luật tiếp nhận
người tị nạn sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội tại Việt
Nam hiện nay.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: khóa luận nghiên cứu quy định về tiếp nhận
người tị nạn trong các văn bản pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và các báo
cáo của các tổ chức có liên quan đến lĩnh vực này. Tác giả chọn đối tượng
nghiên cứu này bởi vì:
Thứ nhất, hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau như chiến tranh,
phân biệt chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch… mà nhiều người phải rời bỏ quê
hương để đến định cư tại một vùng lãnh thổ khác. Họ là người tị nạn, nhóm
người yếu thế dễ bị tổn thương và tiếng nói của họ ít có giá trị. Vì vậy, hơn ai
hết chúng ta những người được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích nên góp
tiếng nói của mình góp phần bảo vệ người tị nạn.
Thứ hai, tác giả chỉ nghiên cứu pháp luật về tiếp nhận người tị nạn
và không đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác vì pháp luật được xem là công
cụ hiệu quả nhất hướng tới mục tiêu đảm bảo chất lượng sống của người tị nạn.
b.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu theo thời gian: tác giả tập trung nghiên cứu các
văn bản pháp luật kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945 – mốc lịch
sử đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của thế giới nói chung và vấn đề tiếp
nhận người tị nạn nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu theo không gian: đề tài tập trung nghiên cứu các
văn bản quốc tế, pháp luật bốn quốc gia bao gồm Canada, Đức, Hoa Kỳ, Hàn
Quốc và pháp luật Việt Nam về tiếp nhận người tị nạn.
Về văn bản pháp lý: khóa luận sẽ nghiên cứu các luật tiếp nhận người
tị nạn và pháp luật liên quan đang có hiệu lực tại các quốc gia: Canada, Đức,
Hàn Quốc, Hoa Kỳ; riêng đối với Việt Nam, khóa luận sẽ tìm hiểu quyền tị nạn
trong các bản Hiến pháp từ 1946 đến nay.
4.
a.
6
Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm đổi mới nhà nước
và pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Phương pháp luận: đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó, tác giả đặt các vấn đề người tị nạn
trong mối quan hệ với nhau, không nghiên cứu một cách riêng lẻ đồng thời so
sánh quy định pháp luật các quốc gia về vấn đề này.
Một số phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài:
Phương pháp lịch sử: được vận dụng trong Chương 1 và Chương 3
của đề tài để tìm hiểu khái niệm tị nạn và lịch sử tiếp nhận người tị nạn tại Việt
Nam.
Phương pháp so sánh: được sử dụng chủ yếu trong Chương 2 nhằm
đối chiếu pháp luật về tiếp nhận người tị nạn giữa các quốc gia trên thế giới.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: được vận dụng xuyên suốt đề tài,
tác giả lồng ghép phân tích và tổng hợp để đưa ra các kết luận nhằm mục đích
cung cấp kinh nghiệm cho pháp luật tiếp nhận người tị nạn tại Việt Nam.
5.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Quyền tị nạn đã được đề cập từ Hiến pháp năm 1946, nhưng cho đến
nay vẫn chưa có một văn bản luật nào quy định cụ thể. Vì lẽ đó, tác giả nghiên
cứu đề tài này mong có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
Về ý nghĩa khoa học: đề tài đưa ra khái niệm tị nạn, người tị nạn, đặc
điểm người tị nạn, phân biệt tị nạn với di cư, xem xét quyền tị nạn trong mối
tương quan với quyền con người, phân tích những mặt tích cực và tiêu cực của
việc tiếp nhận tị nạn. Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu, so sánh và đánh giá pháp
luật về tị nạn tại một số quốc gia trên thế giới như Canada, Đức, Hàn Quốc và
Hoa Kỳ, từ đó rút ra một số kinh nghiệm mà Việt Nam trong quá trình xây dựng
luật tiếp nhận tị nạn. Đề tài nhằm cung cấp tài liệu nghiên cứu khoa học có giá
trị tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này liên quan đến pháp luật
tiếp nhận người tị nạn.
6.
7
Về ý nghĩa thực tiễn: trong đề tài, tác giả có đề xuất một số nội dung
cơ bản trong luật về tiếp nhận tị nạn và những kiến nghị giúp công tác xây dựng
luật trở nên hiệu quả hơn. Bài viết có giá trị tham khảo cho các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đặc biệt là cơ quan lập pháp khi nghiên cứu về pháp luật
tiếp nhận người tị nạn.
7.
Kết cấu đề tài
Về kết cấu, khóa luận bao gồm Phần mở đầu, Phần kết luận và ba
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tị nạn và người tị nạn
Chương 2: Pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia trên thế
giới về tiếp nhận người tị nạn
Chương 3: Pháp luật Việt Nam về tiếp nhận người tị nạn và một số
kinh nghiệm cho Việt Nam
8
CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỊ NẠN VÀ NGƯỜI TỊ NẠN
1.1.
Khái niệm tị nạn
Tị nạn là hiện tượng đã xuất hiện từ lâu nhưng đến nay, trên thế giới
chưa có một khái niệm về tị nạn thật sự thống nhất. Lịch sử châu Âu thời Trung
cổ, những kẻ đào tẩu có thể thoát khỏi án tử hình bằng cách cư ngụ tại một nhà
thờ và không ai có thể vào làm hại, bắt giữ hoặc loại bỏ người đó để trừng phạt3.
Theo tiếng Anh thuật ngữ refuge (nơi ẩn náu) để chỉ nơi mang lại sự bảo vệ
hoặc trú ẩn khỏi nguy hiểm, rắc rối, bất hạnh4. Trong từ điển Hán việt, tị nạn
được viết dưới dạng 避難. Trong đó tị (避) có nghĩa là “tránh né, lánh, trốn”5.
Còn nạn (難) có nghĩa là “hoạn nạn”6. Tị nạn (避難) tức tránh điều không may
xảy tới7. Theo từ điển tiếng việt tị nạn (động từ) là “lánh đi ở nơi khác để khỏi
bị những nguy hiểm, đe dọa do chiến tranh hoặc tình hình chính trị gây ra”8.
Cho đến nay, pháp luật quốc tế không đưa ra khái niệm pháp lý về tị
nạn nhưng thuật ngữ này hiện diện trong một số văn bản. Tuyên ngôn Quốc tế
về Quyền con người năm 1948 tại Điều 14 đã nêu rằng: “Khi bị đàn áp, ai cũng
có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại các quốc gia khác”.
Hiến chương châu Phi về quyền con người và nhân dân năm 1981 tại khoản 3
Điều 12 quy định: “Mọi cá nhân sẽ có quyền khi bị đàn áp, tìm kiếm và xin tị
nạn ở các quốc gia khác phù hợp với luật pháp của các quốc gia đó và các
công ước quốc tế”. Theo khoản 7 Điều 22 Công ước châu Mỹ về Nhân quyền
năm 1969 quy định: “Mọi người có quyền xin và được tị nạn ở nước ngoài, phù
hợp với pháp luật của nhà nước và các công ước quốc tế, trong trường hợp
người đó bị truy nã vì các tội chính trị hoặc các tội thông thường có liên quan”.
Trong Hiến pháp một số quốc gia trên thế giới thuật ngữ tị nạn được
ghi nhận như một quyền của người tị nạn và quốc gia có nghĩa vụ cấp tị nạn
Becky Little, “Claiming ‘Sanctuary’ in a Medieval Church Could Save Your Life—But Lead to Exile For
over 1,000 years, European fugitives found asylum in churches”, https://www.history.com/news/churchsanctuary-asylum-middle-ages, truy cập ngày 24/6/2022
4
Theo Từ điển tiếng Anh Cambridge online, https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/english/refuge,
truy cập ngày 24/6/2022
5
Từ điển Hán Nôm online, https://hvdic.thivien.net/hv/tị, truy cập ngày 24/6/2022
6
Từ điển Hán Nôm online, https://hvdic.thivien.net/hv/nạn, truy cập ngày 24/6/2022
7
Từ điển Hán Nôm online, https://hvdic.thivien.net/hv/tị%20nạn, truy cập ngày 24/6/2022
8
Viện Ngôn Ngữ Học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm Từ Điển Học (đồng xuất bản),
tr 979
3
9
cho họ. Điều 16a Hiến pháp Đức năm 1949 quy định: “Những người bị đàn áp
vì lý do chính trị sẽ có quyền tị nạn”, Điều 28G Hiến pháp của Cộng hòa
Indonesia năm 1945 quy định: “Mọi người sẽ có quyền không bị tra tấn hoặc
đối xử vô nhân đạo và hèn hạ, và sẽ có quyền xin tị nạn chính trị từ một quốc
gia khác”, Điều 27 Hiến pháp của Cộng hòa Bulgaria năm 1991 quy định:
“Cộng hòa Bulgaria sẽ cấp quyền tị nạn cho những người nước ngoài bị đàn
áp vì ý kiến hoặc hoạt động của họ nhằm bảo vệ các quyền và tự do được quốc
tế công nhận”.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có văn bản nào chính thức và
trong khoa học pháp lý cũng chưa có nhà khoa học nào đưa ra khái niệm về tị
nạn. Tuy nhiên, từ những khái niệm nêu trên tác giả có thể rút ra định nghĩa tị
nạn như sau: “Tị nạn được hiểu là sự bảo vệ mà một quốc gia dành cho những
người chạy trốn khỏi sự đàn áp, ngược đãi từ nơi xuất xứ của họ đến lãnh thổ
của quốc gia hoặc ở nơi khác dưới sự kiểm soát của quốc gia”. Định nghĩa tị
nạn còn được hiểu toàn diện và sâu sắc hơn bằng cách tìm hiểu về khái niệm
người tị nạn.
1.2.
Khái niệm người tị nạn
Khái niệm người tị nạn
Thuật ngữ người tị nạn xuất phát trực tiếp từ tiếng Pháp “réfugié” với
một ý nghĩa cụ thể: dùng để chỉ những người Tin lành bỏ trốn khỏi Pháp sau
khi Sắc lệnh Nantes bị thu hồi vào năm 1685. Trong vòng một thập kỷ, thuật
ngữ người tị nạn đã được sử dụng phổ biến hơn trong tiếng Anh để chỉ bất kỳ
ai bị buộc phải chạy trốn đến một nơi an toàn, thường là vì nguy hiểm hoặc bị
ngược đãi vì niềm tin tôn giáo hoặc chính trị9. Chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc, một số lượng lớn người chạy khỏi Đông Âu. Trước tình hình đó, Công
ước về vị thế của người tị nạn năm 195110 của Liên Hợp Quốc đã ghi nhận khái
niệm “người tị nạn” là bất kỳ người nào “Do kết quả của các sự kiện xảy ra
trước ngày 01/01/1951, và do sự sợ hãi có cơ sở là sự bị ngược đãi vì những lý
do chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, hoặc do là thành viên của một nhóm xã hội cụ
thể nào đó, hay vì quan điểm chính trị, đang ở ngoài đất nước mà người đó có
1.2.1.
Merriam-Webster, “The Origin of 'Refugee' The word originally referred to the Huguenots”,
https://www.merriam-webster.com/words-at-play/origin-and-meaning-of-refugee, truy cập 24/6/2022
10
Điều 1.A.2 Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951
9
10
quốc tịch và không thể, hoặc, do sự sợ hãi như vậy, không muốn tiếp nhận sự
bảo vệ của quốc gia đó; hoặc người không có quốc tịch đang sống ở ngoài
quốc gia mà trước đó họ đã từng cư trú do kết quả của những sự kiện đó mà
không thể, hoặc do sự sợ hãi, mà không muốn trở lại quốc gia đó”. Đến năm
1967, Nghị định thư về vị thế của người tị nạn11 đã cơ bản khẳng định lại khái
niệm trên và xóa bỏ giới hạn về địa lý, thời gian trong Công ước về vị thế của
người tị nạn ban đầu. Theo đó, không chỉ những người châu Âu tham gia vào
các sự kiện xảy ra trước ngày 01 tháng 01 năm 1951 mới có thể nộp đơn xin
quy chế tị nạn mà nó dành cho tất cả mọi người.
Trong khái niệm trên bao hàm nhiều thuật ngữ khó xác định cần được
lý giải một cách rõ ràng như sau:
Thứ nhất, về “sự sợ hãi có cơ sở” được hiểu là trạng thái mang tính
chủ quan của cá nhân người tị nạn kết hợp với hoàn cảnh khách quan, làm cơ
sở cho quyết định công nhận tị nạn12. Để xác định chính xác liệu có sự sợ hãi
thực tế hay không, cần phải xem xét cẩn thận các yếu tố xung quanh người đó.
Chẳng hạn, một người có thể có niềm tin chính trị hoặc tôn giáo mạnh mẽ, việc
coi thường chúng sẽ khiến họ không thể dung thứ được, ngược lại người khác
có thể không có niềm tin mạnh mẽ như vậy. Một người có thể đưa ra quyết định
để trốn thoát khỏi sự khinh thường đó để bảo vệ niềm tin của mình nhưng cũng
có người lên kế hoạch cẩn thận cho chuyến đi của mình13.
Thứ hai, “sự ngược đãi” không có khái niệm chính thức và những nỗ
lực để xây dựng một khái niệm như vậy đã không thành công. Từ Điều 33 của
Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951, có thể suy ra rằng những mối
đe dọa đến tính mạng hoặc quyền tự do vì chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, quan
điểm chính trị hoặc tư cách thành viên của một nhóm xã hội cụ thể luôn dẫn tới
sự ngược đãi14.
Khoản 2 Điều 1 Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967 quy định: “Trong phạm vi Nghị định thư
này, thuật ngữ “người tị nạn”, trừ trường hợp áp dụng khoản 3 của điều này, sẽ có nghĩa là bất cứ người nào
thuộc khái niệm tại Điều 1 của Công ước, trong đó bỏ đi cụm từ “là nạn nhân của những cuộc xung đột diễn
ra trước ngày 01/01/1951...” và “là nạn nhân của những cuộc xung đột như vậy...” trong Điều 1A(2) của Công
ước”.
12
UNHCR (2019), Handbook on Procedures and Criteria for Determining Refugee Status and Guidelines on
International Protection Under the 1951 Convention and the 1967 Protocol Relating to the Status of Refugees,
Geneva, p. 19
13
UNHCR (2019), tlđd (12), p.19
14
UNHCR (2019), tlđd (12), p. 21
11
11
Ngoài ra, còn có năm nguyên nhân gây nên nỗi sợ hãi bao gồm:
“Chủng tộc” được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm tất cả các loại
dân tộc có chung nguồn gốc, tạo thành một thiểu số trong một nhóm dân số lớn
hơn15. Sự phân biệt chủng tộc là một hành vi xâm hại đến quyền con người vì
nó kéo theo nhiều hành động và hậu quả nghiêm trọng. Chúng ta đã biết đến
Chế độ A-pac-thai (Apartheid) phân biệt giữa người da trắng và người da màu,
da đen khiến họ không còn tự do dân chủ, tước bỏ đi nhiều quyền con người
của họ. Do đó, phân biệt chủng tộc thể hiện một yếu tố quan trọng trong việc
xác định sự tồn tại của sự ngược đãi.
“Tôn giáo” là văn hoá, tín ngưỡng, đức tin của con người. Xâm phạm
đến nó là xâm phạm đến nhân phẩm của họ. Vì vậy, có thể cấu thành một sự
ngược đãi về tinh thần, nó có thể xảy ra nhiều hình thức khác nhau như cấm gia
nhập cộng đồng tôn giáo, xâm phạm đến những nơi thờ tự hoặc các biện pháp
phân biệt đối xử nghiêm trọng được áp dụng đối với những người chỉ vì họ theo
một tôn giáo nhất định16.
Thuật ngữ “quốc tịch” theo UNHCR không chỉ được hiểu là “quyền
công dân” mà có thể đề cập đến thành viên của một nhóm dân tộc hoặc ngôn
ngữ và đôi khi có thể trùng lặp với thuật ngữ “chủng tộc”. Sự ngược đãi vì lý
do quốc tịch có thể bao gồm những thái độ và biện pháp bất lợi nhằm vào một
dân tộc thiểu số (dân tộc, ngôn ngữ)17.
Một “nhóm xã hội cụ thể” thường bao gồm những người có nền tảng,
thói quen hoặc địa vị xã hội tương tự và có thể bao gồm các trường hợp ở trên
như chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch. Nhóm xã hội này có thể không tin tưởng
vào cơ quan chính quyền và khiến cho họ có nguy cơ bị ngược đãi bởi sự tồn
tại của mình18.
Giữ “quan điểm chính trị” khác với quan điểm của Chính phủ tự nó
không phải là cơ sở để yêu cầu quy chế tị nạn. Người xin tị nạn phải chứng
minh vì giữ những ý kiến đó mà họ phải đối mặt với một sự ngược đãi. Có thể
là một sự trừng phạt quá mức và tùy tiện của cơ quan có thẩm quyền về quan
điểm chính trị. UNHCR khuyến khích để xác định xem một người phạm tội
UNHCR (2019), tlđd (12), p.23
UNHCR (2019), tlđd (12), p. 23
17
UNHCR (2019), tlđd (12), p. 24
18
UNHCR (2019), tlđd (12), p. 24
15
16
12
chính trị có thể được coi là người tị nạn hay không, cần phải xem xét các yếu
tố sau: nhân cách của người nộp đơn, quan điểm chính trị của họ, động cơ đằng
sau hành vi, bản chất của vi phạm, bản chất của truy tố và động cơ của nó, bản
chất của luật mà việc truy tố dựa trên đó. Những yếu tố này có thể cho thấy
rằng đương sự sợ bị ngược đãi chứ không đơn thuần là sợ bị truy tố và trừng
phạt theo luật đối với một hành mà họ thực hiện19.
Công ước về các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi
do Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) thông qua năm 1969 đã mở rộng khái
niệm của Công ước về vị thế của người tị nạn năm 195120. Người tị nạn còn
bao gồm những người bị buộc phải rời khỏi đất nước còn xuất phát từ các
nguyên nhân: xâm lược bên ngoài, chiếm đóng, sự thống trị của nước ngoài
hoặc các sự kiện gây rối trật tự công cộng nghiêm trọng. Điều này bao gồm các
tình huống ngẫu nhiên không dựa trên hành động cố ý của nhà nước. Đơn cử là
những người đang chạy trốn các thảm họa môi trường như hạn hán và đói kém.
Tuyên bố Cartagena về người tị nạn năm 198421 ngoài việc chứa
đựng các yếu tố của Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị
định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967 còn bao gồm cả những người tị
nạn đã bỏ trốn khỏi đất nước của họ vì tính mạng, sự an toàn hoặc tự do đã bị
đe dọa bởi bạo lực, ngoại xâm, xung đột nội bộ. Tương tự như khái niệm trong
Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 người tị nạn phải cho thấy mối
liên hệ giữa bản thân họ với nguy cơ bị tổn hại thực sự, khi tất cả những người
UNHCR (2019), tlđd (12), p. 24-25
Điều 1 Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969 khái niệm
thuật ngữ "Người tị nạn" như sau:
“1. Theo mục đích của Công ước này, thuật ngữ "người tị nạn" có nghĩa là mọi người, do có căn cứ lo sợ bị
đàn áp vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính
trị, đang ở bên ngoài quốc gia mang quốc tịch của anh ta và không thể hoặc, do sợ hãi như vậy, không sẵn
sàng tận dụng sự bảo vệ của quốc gia đó, hoặc người không có quốc tịch và ở ngoài quốc gia nơi thường trú
trước đây của anh ta do hậu quả của những sự kiện đó không thể hoặc, do nỗi sợ hãi như vậy, không muốn
quay trở lại với nó.
2. Thuật ngữ "người tị nạn" cũng sẽ áp dụng cho mọi người, vì sự xâm lược, chiếm đóng, thống trị của nước
ngoài hoặc các sự kiện gây rối trật tự công cộng nghiêm trọng ở một phần hoặc toàn bộ quốc gia xuất xứ
hoặc quốc tịch của mình, buộc phải rời khỏi nơi ở của mình. nơi cư trú thường xuyên để tìm kiếm nơi ẩn náu
ở một nơi khác bên ngoài quốc gia xuất xứ hoặc quốc tịch của mình”.
21
Điều 3.3 Tuyên bố Cartagena về người tị nạn năm 1984 quy định: “Để nhắc lại rằng, dựa trên kinh nghiệm
thu được từ dòng người tị nạn ồ ạt ở khu vực Trung Mỹ, cần phải xem xét việc mở rộng khái niệm người tị
nạn, trong tâm trí, chừng nào thích hợp và trên cơ sở tình hình phổ biến trong khu vực, tiền lệ của Công ước
OAU (điều 1, khoản 2) và học thuyết được sử dụng trong các báo cáo của Ủy ban Nhân quyền Liên Mỹ. Do
đó, khái niệm về người tị nạn được khuyến nghị sử dụng trong khu vực là định nghĩa, ngoài việc chứa đựng
các yếu tố của Công ước 1951 và Nghị định thư năm 1967, bao gồm cả những người tị nạn đã bỏ trốn khỏi
đất nước của họ vì tính mạng, sự an toàn hoặc tự do đã bị đe dọa bởi bạo lực, ngoại xâm, xung đột nội bộ”.
19
20
13
nộp đơn phải chứng minh rằng: “Cuộc sống, sự an toàn hoặc tự do của họ đã
bị đe dọa”. Mặc dù không ràng buộc về mặt chính thức, nhưng Tuyên bố
Cartagena đã trở thành cơ sở cho chính sách tị nạn trong khu vực.
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm tương tự
khái niệm được nêu trong Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 bởi
công ước đã ghi nhận tương đối đầy đủ về các yếu tố cần thiết của người tị nạn
(như nỗi sợ hãi có cơ sở, sự ngược đãi, nguyên nhân của những sự sợ hãi đó)
và đã được đông đảo các quốc gia trên thế giới đồng tình, nhiều quốc gia đã
dẫn chiếu trực tiếp vào luật pháp của mình: “Người tị nạn là những người ở
bên ngoài quốc gia mang quốc tịch hoặc nơi cư trú thường xuyên, đang phải
đối mặt với một nỗi sợ hãi có cơ sở bởi sự ngược đãi về chủng tộc, tôn giáo,
quốc tịch, thành viện nhóm xã hội, quan điểm chính trị mà không muốn hoặc
không thể tận dụng sự bảo vệ của quốc gia xuất xứ của mình”.
Đặc điểm người tị nạn
Người tị nạn là một nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương nên được
bảo vệ trong các công cụ pháp lý đặc thù. Tuy nhiên, hiện nay vẫn tồn tại tình
trạng nhầm lẫn giữa người di cư và người tị nạn. Cả hai được sử dụng lẫn lộn
và thay thế nhau có thể dẫn đến hiểu sai lệch bản chất của vấn đề. Nắm được
các đặc điểm của người tị nạn giúp xây dựng cơ sở pháp lý hiệu quả nhằm bảo
vệ tốt nhất cho người tị nạn cũng như không nhầm lẫn các đối tượng khác. Theo
đó, trên cơ sở Tuyên bố New York về người di cư và người tị nạn được thông
qua vào tháng 9 năm 2016, Hiệp ước Toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và
trật tự (GCM) năm 2018 và Hiệp ước Toàn cầu về Người tị nạn (GCR) năm
2018 đã được xây dựng cho thấy sự phân biệt rõ ràng giữa hai đối tượng người
di cư và người tị nạn. Mặc dù, cả hai đều là những nhóm người sống bên ngoài
quốc gia xuất xứ của họ, nhưng vẫn có sự khác biệt cơ bản về bản chất.
Hiện nay, chưa có một khái niệm chính thức về người di cư. Tuy
nhiên, tác giả có thể đúc kết các đặc điểm của nhóm người này trong sự so sánh
với người tị nạn như sau: người di cư có sự lựa chọn và mục đích rõ ràng khi
rời bỏ đất nước của họ để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn ở nơi khác. Trước
khi quyết định, người di cư tìm hiểu thông tin về nơi ở mới, học ngôn ngữ và
khám phá các cơ hội việc làm. Họ có thể lên kế hoạch mang theo đồ đạc và chia
tay những người thân. Họ có thể tự do trở về nhà nếu họ nhớ nhà hoặc muốn
1.2.2.
14
thăm các thành viên gia đình và bạn bè. Ngược lại, những người tị nạn buộc
phải rời khỏi đất nước của họ vì họ có nguy cơ hoặc đã trải qua cuộc đàn áp.
Mối quan tâm của những người tị nạn là nhân quyền và sự an toàn, không phải
lợi ích kinh tế. Họ bỏ lại nhà cửa, đồ đạc, các thành viên trong gia đình và bạn
bè. Một số bị buộc phải bỏ trốn mà không được báo trước và nhiều người đã
trải qua chấn thương nặng, bị tra tấn hoặc bị đối xử tệ hại, hành trình đến nơi
an toàn đầy rẫy nguy hiểm. Họ không thể quay trở lại trừ khi tình hình quốc gia
xuất xứ được cải thiện.
Dựa trên khái niệm đã được tác giả trình bày tại Mục 1.2.1 người tị
nạn có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, người tị nạn phải ở bên ngoài quốc gia mang quốc tịch của
mình hoặc quốc gia người đó cư trú đối như người không quốc tịch: không có
ngoại lệ cho quy tắc này bởi sự bảo hộ quốc tế không thể phát huy tác dụng khi
một người ở trong phạm vi quyền tài phán lãnh thổ quốc gia họ. Có thể suy ra
rằng, nếu một cá nhân đang sống trong một trại tị nạn trên đất nước của họ thì
người đó không phải là người tị nạn mà thay vào đó thường được gọi là “người
di cư nội bộ”.
Thứ hai, để được công nhận là người tị nạn họ phải có một nỗi sợ hãi
có cơ sở: họ phải chứng tỏ rằng mình đang nói sự thật, nếu toàn bộ lời tường
thuật về những gì đã xảy ra là sai thì thông thường sẽ bị coi là không có cơ sở
sợ hãi và sẽ bị từ chối. Nỗi sợ hãi đó phải thực sự có trên thực tế và đang tồn
tại hiện hữu chứ không phải là từ chủ quan của người tị nạn.
Thứ ba, bị đối xử tệ đến mức bị ngược đãi: dựa vào Điều 33 của Công
ước về vị thế của người tị nạn năm 1951, có thể suy ra rằng mối đe dọa đến
quyền tự do hoặc tính mạng do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, quan điểm chính
trị hoặc tư cách thành viên của một nhóm xã hội cụ thể tạo nên một sự ngược
đãi. Ta có thể định lượng sự ngược đãi là kết quả của sự tác động trên cộng với
sự thất bại của nhà nước trong việc bảo vệ người tị nạn.
Thứ tư, sự sợ hãi xuất phát vì một trong năm lý do bao gồm: chủng
tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm
chính trị.
Thứ năm, họ không thể hoặc không muốn nhận được sự bảo vệ ở
quốc gia đó: kẻ bức hại là nhà nước thì không có gì để bàn cãi. Ngược lại, đối
15
với một chủ thể không thuộc Nhà nước thì yếu tố thứ năm cấu thành khi nhà
nước đã không sẵn lòng hoặc không có khả năng bảo vệ khiến người tị nạn phải
tìm đến một quốc gia khác.
Một câu hỏi đặt ra là liệu quyền tị nạn có phải là một quyền con người
và các quốc gia có nghĩa vụ bắt buộc phải tiếp nhận người tị nạn hay không?
Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền con người năm 1948 tại Điều 14 tuyên bố rằng:
“Khi bị đàn áp, ai cũng có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại
các quốc gia khác”. Công thức này được cho là tương đương với quyền được
tị nạn: người tị nạn được phép ra nước ngoài đến một quốc gia khác và các quốc
gia tiếp nhận sẽ có nghĩa vụ tiếp nhận và bảo vệ những người tị nạn. Tuy nhiên,
quyền tị nạn chỉ dừng lại như một quy định hình thức mà không có thêm một
bổ sung nào. Điều này cho thấy rằng cơ quan soạn thảo không muốn áp đặt
nghĩa vụ cho các quốc gia mà chỉ ghi nhận cho có. Nhà phê bình gay gắt nhất
và nổi tiếng nhất trong lịch sử - Hersch Lauterpacht, người đã mô tả Điều 14 là
một trong những quy định công cụ quốc tế trong đó sử dụng một hình thức
ngôn từ khéo léo và lừa bịp, viết bằng ngôn ngữ được tính toán để đánh lừa và
gợi nhớ một cách sống động nhằm mục đích che giấu quyết tâm của các quốc
gia để duy trì hoàn toàn quyền tự do tiếp nhận người tị nạn. Với một điều khoản
như vậy, không tạo nên nghĩa vụ ràng buộc quốc gia về mặt pháp lý, thậm chí
ngay cả một nghĩa vụ đạo đức cũng không có và quyền xin tị nạn không song
song với quyền cấp tị nạn22. Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 (và
Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967) hoàn toàn không đề cập
đến quyền tị nạn. Thay vào đó, nó chứa điều khoản cấm trừng phạt người tị nạn
khi xâm nhập bất hợp pháp (Điều 31), nguyên tắc “cấm trục xuất hoặc hồi
hương” - người tị nạn phải không bị dẫn độ, trục xuất đến các quốc gia nơi họ
có thể bị bức hại (Điều 33) cùng với đó là các quy định về quyền và nghĩa vụ
người tị nạn.
Cuộc tranh luận về sự phân mảnh của luật pháp quốc tế liệu rằng luật
tị nạn và luật nhân quyền có là hai nhánh pháp luật độc lập. Trong khi một số
học giả quan niệm mỗi nhánh là một chế độ độc lập, một số khác coi hai nhánh
này như một hệ thống quy phạm lớn hơn nhằm bảo vệ quyền mọi người vào
22
Ralph Janik (Researcher and Lecturer ) (2017), The Right to Asylum in International Law:One Step forward,
two Steps back?, University of Vienna and Webster University Vienna, p.5
16
mọi thời điểm. Nhìn chung, sự khác biệt chính của chúng là cách thức mà luật
tị nạn quốc tế thừa nhận chủ quyền của nhà nước trong khi luật nhân quyền
quốc tế thì không. Tuy nhiên, luật tị nạn quốc tế lại bị ràng buộc bởi nguyên
tắc “cấm trục xuất hoặc hồi hương” và đây được xem như là sự hạn chế ở một
mức độ nhất định liên quan đến chủ quyền quốc gia.
Vấn đề tiếp nhận người tị nạn
Thực trạng tiếp nhận người tị nạn
Theo thống kê của UNHCR vào năm 2020, bất chấp đại dịch Covid
-19, 11,2 triệu người mới phải di dời trên toàn thế giới. Đại dịch cũng đe dọa
tiến trình xóa bỏ đói nghèo và bất bình đẳng thu nhập, đồng thời khiến tình
trạng mất việc làm của những người tị nạn trở nên tồi tệ hơn. Syria đứng đầu
danh sách với 6,8 triệu người, tiếp theo là Venezuela với 4,9 triệu, Afghanistan
và Nam Sudan đứng sau lần lượt là 2,8 và 2,2 triệu. Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục là điểm
đến số lượng lớn người xin tị nạn với khoảng 4 triệu người (phần lớn là người
tị nạn Syria chiếm 92%), Colombia với hơn 1,7 triệu người Venezuela di tản,
Đức có dân số lớn thứ ba - gần 1,5 triệu người. Nhiều người trong số họ có
nguy cơ phải sống lưu vong trong nhiều năm tới, một số có khả năng suốt đời.
Ước tính có khoảng 42% người tị nạn là trẻ em, trong số đó có khoảng 1 triệu
trẻ được sinh ra từ năm 2018-2020. Trẻ em bị ảnh hưởng đặc biệt trong các
cuộc khủng hoảng, nhất là khi việc di dời của chúng kéo dài trong nhiều năm.
Tây và Trung Phi có nhiều phụ nữ và trẻ em gái tị nạn (54%) hơn bất kỳ khu
vực nào khác23.
Cuộc khủng hoảng tăng cao khiến một số quốc gia trên thế giới điển
hình là châu Âu dựng lên các hàng rào thép gai nhằm ngăn chặn làn sóng tị nạn.
Những người tị nạn chạy trốn chiến tranh, nghèo đói và bị ngược đãi ở quê nhà
thường xuyên phải đối mặt với nguy hiểm về tính mạng, sức khỏe, sự nghi ngờ
và thái độ thù địch khi họ đổ bộ trước ngưỡng cửa châu Âu.
1.3.
1.3.1.
Các vấn đề đặt ra cho quốc gia khi tiếp nhận người tị nạn
Một lượng lớn người tị nạn tràn vào là một thách thức lớn đối với bất
kỳ quốc gia tiếp nhận nào. Ngay sau khi đặt chân đến, những người tị nạn yêu
cầu chỗ ở và các dịch vụ công cộng quan trọng như chăm sóc sức khỏe và giáo
1.3.2.
23
Theo thống kê của UNHCR (2021), Global Trends Forced Displacement In 2020, Denmark
- Xem thêm -