ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
NHÓM 5
TIỂU LUẬN
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRƯỚC SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA FINTECH TRONG LĨNH VỰC THANH
TOÁN
0
TP. HỒ CHÍ MINH - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
NHÓM 5
TIỂU LUẬN
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRƯỚC SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA FINTECH TRONG LĨNH VỰC THANH
TOÁN
NHÓM 5:
TP. HỒ CHÍ MINH - 2019
1
0
MỤC LỤC
Tóm tắt
1. Giới thiệu
2. Cơ sở lý thuyết
2.1 Thanh toán di động
2.2 Ví điện tử
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Kết quả và thảo luận
4.1 Tiềm năng
4.2 Tác động tích cực
4.2.1 Người tiêu dùng và cộng đồng
4.2.2 Nền kinh tế
4.3 Những vấn đề đặt ra cho Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
4.3.1 Quan điểm của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
4.3.2 Nhận thức và sự chấp nhận của cộng đồng
4.3.3 Những rủi ro công nghệ, an ninh và bảo mật thông tin.
4.3.4 Các vấn đề về an ninh tiền tệ
4.4.5 Sự hợp tác giữa ngân hàng và các công ty Fintech
5. Kết luận
1
TÓM TẮT
Số hóa các dịch vụ tài chính hay có thể nói ứng dụng những công nghệ
thông tin và truyền thông mới vào lĩnh vực tài chính đang là một trong những vấn
đề nóng được đề cập trong và ngoài nước suốt thời gian vừa qua. Do đó thông qua
phương pháp nghiên cứu định tính bằng việc thu thập các dữ liệu thứ cấp nhóm đã
khái quát những tiềm năng và lợi ích nhằm chứng minh cho sự phát triển trong
mảng thanh toán ở thị trường Việt Nam trước những đổi mới về công nghệ và hạ
tầng kỹ thuật. Để từ đó nhóm có những nhận định một số vấn đề được đặt ra đối
với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) trong thời điểm hiện tại bao gồm:
thứ nhất là nhận thức và sự chấp nhận về thanh toán điện tử vẫn chưa trở thành lợi
thế cho sự phát triển của fintech khi một bộ phận lớn người dân vẫn còn sử dụng
phương thức thanh toán bằng tiền mặt; thứ hai là những vấn đề về rủi ro an ninh
mạng; thứ ba là vấn đề về an ninh tiền tệ và cuối cùng là những vấn đề liên quan
đến mối quan hệ giữa ngân hàng và các công ty Fintech thuộc lĩnh vực thanh toán.
Từ khóa: NHNNVN, thanh toán di động, ví điện tử, fintech.
1. Giới thiệu
Trong thời đại công nghệ số hiện nay, ứng dụng công nghệ số hiện đại vào
ngành tài chính là một trong những vấn đề quan trọng trong hệ thống tài chính
ngân hàng. Một trong những định hướng chính của Chính phủ là thực hiện Đề án
thanh toán không dùng tiền mặt trong giai đoạn 2016-2020 trong việc thanh toán
qua lại giữa người tiêu dùng với các nhà cung cấp hàng hóa. Nhưng để thực hiện
được đề án trên cần có sự phối hợp các thành phần kinh tế trong xã hội và người
tiêu dùng. Bài viết này, thể hiện rõ sự thuận lợi, khó khăn trong nhận thức và sự
chấp nhận thanh toán điện tử chưa khả thi ở người dân trong việc sử dụng các dịch
vụ thanh toán điện tử; các vấn đề rủi ro về an ninh mạng trong việc khuyến khích
các thành phần kinh tế, người dân tham gia vào đề án; những vấn đề về an ninh
tiền tệ đối với NHNNVN và hệ thống tài chính, rủi ro trong hoạt động của các
công ty fintech trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Lãm rõ các khái niệm về
thanh toán di động, ví điện tử trong hoạt động kinh tế giao dịch thanh toán.
2
Từ đó, nhóm đi đến những vấn đề đang đặt ra và cần được giải quyết để thúc
đẩy sự phát triển của đề án thanh toán không dùng tiền mặt. Giải quyết và quan
trọng nhất là làm sao cho phần lớn người dân, các tổ chức kinh tế để chấp nhận sự
thay đổi trong thói quen dùng tiền mặt chuyển dần qua các công cụ thanh toán hiện
đại nhanh chóng. Song bên cạnh đó, cần có những chính sách, cơ chế, quy định của
Chính phú, của NHNNVN đặt ra để kiểm soát, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của
các dịch vụ thanh toán tài chính an toàn, hiệu quả theo đúng định hướng đề án đã
đặt ra.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1 Thanh toán di động
Cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin đó là sự xuất hiện những cách
tiếp cận hay truy cập mới đến tài khoản thanh toán và thực hiện các dịch vụ thanh
toán thông qua điện thoại di động hay các thiết bị kết nối không dây. Như vậy
những thanh toán được thực hiện thông qua điện thoại di động hoặc các thiết bị
tương tự thì được định nghĩa là thanh toán di động (Hartmann, 2006). Committee
on Payment and Settlement Systems – CPSS (2012) cũng đưa ra khái niệm tương
tự thanh toán di động có thể được hiểu chính là những thanh toán được thao tác và
luân chuyển bằng các thiết bị mà các thiết bị này được kết nối tới mạng lưới di
động truyền thông như điện thoại di động, máy tính bảng hay máy tính để bàn và
máy tính xách tay. Mặt khác thanh toán di động còn được xem là bước phát triển
mới nhất của thanh toán điện tử và nó được định nghĩa là bất cứ thanh toán nào
phát sinh mà các thiết bị di động được sử dụng để thực hiện, giám sát và xác nhận
việc mua bán, chi trả hàng hóa dịch vụ (Omarini, 2018).
Như vậy nói tóm lại thanh toán di động là việc khách hàng chi trả cho một
dịch vụ hay hàng hóa bằng các phương tiện di động có kết nối mạng viễn thông.
2.2 Ví điện tử
Ví điện tử là một dịch vụ được truy cập bằng một thiết bị điện tử chẳng hạn
như máy tính để bàn, máy tính bảng hay điện thoại di động cho phép chủ ví truy
cập vào ứng dụng ví điện tử để quản lý và sử dụng các dịch vụ trong đó bao gồm
cả dịch vụ tài chính như thanh toán (European Payment Council, 2014).
3
Ở Việt Nam hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về chiếc ví điện
tử mà khái niệm này được NHNNVN đề cập ví điện tử theo cụm “dịch vụ ví điện
tử”. Vậy “Dịch vụ Ví điện tử là dịch vụ cung cấp cho khách hàng một tài khoản
điện tử định danh do các tổ chức cung ứng dịch vụ tạo lập trên vật mang tin (như
chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính, v.v.), cho phép lưu giữ một giá trị
tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi tương đương với số tiền được chuyển từ
tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng vào tài khoản đảm bảo thanh
toán của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử theo tỷ lệ 1:1 và được sử dụng làm
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt” (NHNNVN, 2014)
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và để làm rõ những lập
luận cũng như đưa ra những bằng chứng cụ thể cho các vấn đề trong bài nhóm đã
tiến hành thu thập thông tin và số liệu thứ cấp từ các báo cáo quốc tế được công bố
những năm gần đây. Ngoài ra nhóm cũng tham khao thêm định nghĩa, mô hình và
các kết quả từ những bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí trong và ngoài
nước. Đồng thời những văn bản luật như Nghị định, Thông tư, Dự thảo sửa đổi bổ
sung thông tư được nhóm lấy từ các trang mạng điện tử của chính phủ để làm rõ
hơn những vấn đề trong bài.
4. Kết quả và thảo luận
4.1 Tiềm năng
Những năm vừa qua làn sóng Fintech đã và đang phát triển không ngừng
trên toàn thế giới từ những ông lớn như Trung Quốc, Mỹ, Thụy Điển hay đến
những quốc gia như Nigeria, Thái Lan, Malaysia và Việt Nam cũng nằm trong số
điểm đến đầy tiềm năng trước những sự đổi mới trong lĩnh vực tài chính nói chung
và mảng thanh toán nói riêng. Vậy vì sao nói là tiềm năng?
Thứ nhất, về mặt nhân khẩu học dân số Việt Nam đạt khoảng 96.96 triệu dân
tính đến tháng 1 năm 2019, độ tuổi bình quân là 31 tuổi và dân số ở độ tuổi 25 đến
29, 30 đến 34 chiếm tỷ lệ cao nhất với 4.6% và 4.3% (Hootsuite & We Are Social
(2019), Dân số Việt Nam (2019), Population Pyramids of the World
(2019)). Thêm vào đó dân số trên 15 tuổi được ghi nhận là khoảng trên 70 triệu
4
dân theo PPRO (2018). Với dân số đông và trẻ cho thấy khả năng tiếp cận và thích
ứng những công nghệ mới trong lĩnh vực thanh toán sẽ dễ dàng hơn.
Năm 2019, theo khảo sát của Cimigo (2019) thì tỷ lệ người lớn trên 15 tuổi
ở Việt Nam dùng điện thoại thông minh chiếm đến 85%. Song song đó là mức độ
tiếp cận mạng Internet ở Việt Nam trong những năm vừa qua có sự tăng trưởng có
thể nói là khả quan với tỷ lệ tăng trưởng hằng năm vào khoảng 7% giai đoạn 2013
- 2016 (Solidiance, 2018). Cũng là chỉ số về độ phổ biến của mạng Internet thì
trong một báo cáo khác năm 2019 là có đến 64 triệu người dùng truy cập mạng
Internet tương đương 66% dân số Việt Nam vào thời điểm tháng 1 năm 2019
(Hootsuite & We Are Social, 2019).Ngoài ra, báo cáo của Hootsuite & We Are
Socia (2019) đã cụ thể hóa những con số về thuê bao di động ở Việt Nam qua con
số 143.3 triệu thuê bao so với dân số là 96.9 triệu dân. Như vậy với những dữ liệu
được đưa ra như trên cho thấy được khả năng để phát triển mảng thanh toán được
ứng dụng những sự phát triển của công nghệ như thanh toán di động là khả quan ở
thị trường Việt Nam.
Thứ ba, dư địa phát triển của những chiếc ví điện tử ở Việt Nam là khá lớn
bởi lần lượt chỉ có 50% và 39% người dùng Internet sử dụng dịch vụ ngân hàng
điện tử và thanh toán di động. Ở một phương diện khác số liệu về người trên 15
tuổi có tài khoản trong các định chế tài chính được ghi nhận vào đầu năm 2019 là
31%. (Hootsuite & We Are Social, 2019). Tương tự, báo cáo của PPRO (2018)
cũng cho thấy những kênh thanh toán mà người Việt Nam hay sử dụng là tiền mặt,
ví điện tử, chuyển khỏa ngân hàng, thẻ mà trong đó tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ lớn
vào khoảng 51% và người dùng ví điện tử chỉ chiếm khoảng 6%. Về cơ bản thị
trường cho các dịch vụ về thanh toán di động hay ví điện tử vẫn còn những
khoảng trống khá lớn ở Việt Nam.
Quan trọng hơn là NHNNVN và Chính phủ cũng có những nhìn nhận đối
với sự phát triển lĩnh vực Fintech và các dịch vụ thanh toán được áp dụng công
nghệ mới như trong dự thảo sửa đổi bổ sung thông tư 39/2016/TT-NHNN đã có
những bổ sung cụ thể hơn đối với dịch vụ ví điện tử như những ràng buộc những
hành vi bị cấm trong hoạt động dịch vụ ví điện tử, các hạn mức giao dịch theo
5
ngày và theo tháng, v.v. Ở một khía cạnh bao quát hơn, văn bản 2198/NHNN-TT
được ban hành gần đây 29/03/2019 nhằm đẩy mạnh thanh toán điện tử trong khu
vực công cho thấy quan điểm ủng hộ của NHNNVN về việc thúc đẩy sự phát triển
của lĩnh vực thanh toán mới này. Bên cạnh đó, trong Nghị định 101/2012/NĐ-CP
được đề nghị bởi Thống đốc NHNNVN đã khẳng định một trong những trụ cột để
phát triển thanh toán không dùng tiền mặt là thanh toán điện tử. (NHNNVN
(2019a), NHNNVN (2019b), Chính Phủ (2012)).
4.2 Tác động tích cực
Số hóa dịch vụ thanh toán không chỉ mang lại những lợi ích đối với bản thân
người tiêu dùng, người dân, xã hội mà còn tác động tích cực lên nền kinh tế.
4.2.1 Người tiêu dùng và cộng đồng
Quan điểm của World Bank (2014) về lợi ích của thanh toán điện tử được
nêu như sau “Sự dịch chuyển từ thanh toán dựa trên nền tảng là tiền mặt sang
thanh toán số mang lại những lợi ích đó chính là làm cho sự thanh toán trở nên
hiệu quả hơn bằng việc giảm chi phí cho phân phối và nhận thanh toán”. Visa
(2016) cũng đưa ra những mặt tích cực của thanh toán điện tử so với việc sử dụng
tiền mặt là đối với khách hàng thì giờ đây không phải mất thời gian để tìm một trụ
ATM để rút tiền hay trong trường hợp cần một lượng lớn tiền mặt thì cần phải mất
một lượng thời gian để lấy số, xếp hàng và thực hiện các giao dịch ở các trung gian
tài chính truyền thống như ngân hàng. Thương mại điện tử và thanh toán di động
giờ đây có thể được thực hiện ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào khách hàng phát sinh
nhu cầu. Mặt khác, mọi thanh toán được tích hợp chỉ trên một chiếc điện thoại thì
nhu cầu mang theo tiền mặt bên người hoặc tích trữ tiền mặt tại nhà, cơ sở kinh
doanh sẽ girm dần. Điều này làm giảm rủi ro có thể phát sinh như tiền giả và trộm
cướp (Thông tấn xã Việt Nam (2019), Visa (2017)). Bên cạnh đó, chương trình
dịch chuyển từ sử dụng tiền mặt sang hệ thống thanh toán số (EBT) đã cho thấy
mối quan hệ nghịch chiều với tỷ lệ tội phạm ở Mỹ, cụ thể là về tổng quan thì tỷ lệ
phạm tội giảm 9.8 % trong mối quan hệ với chương trình EBT (Wright at al.,
2017). Hay theo như nghiên cứu của Trần Thị Khánh Trâm (2019) đã đưa ra những
lợi ích của dịch vụ ví điện tử khi khảo sát trên 480 người tiêu dùng đang sinh sống
6
ở thành phố Huế gồm tiết kiếm thời gian và chi phí đi lại, có được thêm những ưu
đãi và chương trình khuyến mãi, khách hàng có thể thực hiện được giao dịch mọi
lúc mọi nơi và khả năng kiểm soát giao dịch thanh toán trực tuyến được dễ dàng
hơn.
4.2.3 Nền kinh tế
Báo cáo Visa (2017) đã chia mức độ phát triển công nghệ số ra năm mức,
trong đó những thành phố ở mốc thấp nhất là mốc 1 trong đó có thành phố Hà Nội
– Việt Nam mang những đặc điểm như khả năng tiếp nhận thấp, mức độ sử dụng
thanh toán điện tử thấp và có tỷ lệ dân số không có tài khoản ngân hàng cao. Theo
đánh giá của báo cáo này thì nếu Hà Nội giảm được việc sử dụng tiền mặt và
chuyển sang hệ thống thống thanh toán giống như các thành phố dẫn đầu thì có thể
sẽ giúp cho tốc độ tăng trưởng GDP tăng khoảng 36.4 điểm hằng năm từ 2017 đến
2032, về tỷ lệ lao động sẽ có thêm được 67 ngàn công việc mới tính đến 2032 và
năng suất lao động sẽ tăng bình quân 0.23% hằng năm từ 2017 đến 2032.
So với sử dụng tiền mặt thì thanh toán di động hay ví điện tử sẽ giúp minh
bạch hóa các giao dịch, càng ít tiền mặt thì tỷ lệ tham nhũng cũng sẽ giảm. Vấn đề
này được mình chứng trong báo cáo của Capgemini (2018) các quốc gia như Hàn
Quốc, Thụy Điển, Mỹ, Anh, v.v có số lượng giao dịch bằng tiền mặt trên đầu
người khoảng 400 đến 500 thì tỷ lệ mức tham nhũng ở các quốc gia này giảm dần.
Ngược lại các quốc gia có số giao dịch bằng tiền mặt thấp thì lại cho thấy tỷ lệ
tham nhũng cao điển hình là Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhìn ở góc độ khác, việc gia tăng sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử
thay cho tiền mặt còn mang lại lợi ích cho chủ thể là chính phủ. Trung bình chính
phủ được kỳ vọng có thể tiết kiệm đến 710 triệu USD mỗi năm cho việc in ấn tiền
và quản lý tiền mặt, 53 triệu USD sẽ được tiết kiệm cho việc xử lý hậu quả từ các
hành vi phạm tội và nguồn thu thuế cũng sẽ tăng hằng năm ở mức 534 triệu USD
(Visa, 2017)
Xét trong hệ sinh thái Fintech thì sự phát triển của lĩnh vực đã mang lại một
phương thức thanh toán tiện lợi và thân thiện hơn với khả năng tiết kiệm chi phí
cao vô hình chung đã đặt ra một áp lực lên các định chế tài chính truyền thống phải
7
đổi mới sáng tạo những sản phẩm dịch vụ của mình để có thể cạnh tranh và hướng
đến thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu dùng.
4.3 Những vấn đề đặt ra cho NHNNVN
4.3.1 Quan điểm của NHNNVN
Qua những chứng minh bên trên cho thấy xu hướng phát triển của Fintech
nói chung và những thay đổi cốt lõi trong lĩnh vực thanh toán nói riêng mang trong
mình những tiềm năng và tác động tiêu cực rất lớn đối với những người tiêu dùng,
nền kinh tế và các định chế tài chính truyền thống. Liên quan đến đề tài này, nhóm
ủng hộ quan điểm của NHNNVNhiện tại khi nhận định một là những sáng tạo đổi
mới được áp dụng trong lĩnh vực công nghệ tài chính là xu hướng tất yếu qua việc
Ban chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính đã được thành lập dựa trên quyết điịnh
328/QĐ-NHNN được được ban hành ngày 16/03/2017 (NHNNVN, 2017). Ngoài
ra, những ứng dụng như ví điện tử hay thanh toán di động được xem là mối nối từ
ngân hàng đến những tầng lớp chưa có điều kiện tiếp xúc với những dịch vụ tài
chính ngày nay và đây cũng được xem như một trong những trụ cột để đi đến tài
chính toàn diện.
4.3.2 Nhận thức và sự chấp nhận của cộng đồng
Đề cập một cách chính xác hơn thì đây chính là thói quen sử dụng tiền mặt
trong mọi thanh toán mà đã ăn sâu và tồn tại trong văn hóa của cộng đồng người
Việt Nam. Từ bài học các quốc gia trên thế giới như Thụy Điển hay Hàn Quốc thì
để có một động lực cũng như nền tảng phát triển Fintech lĩnh vực thanh toán vững
mạnh thì hệ sinh thái thanh toán không sử dụng tiền mặt là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu đặc biệt là khi lĩnh vực thanh toán được áp dụng những công
nghệ sáng tạo mới.
Mặc dù Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai
đoạn 2016 – 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 2545/QĐ-TTg và đang tiến
dần đến những giai đoạn chạy nước rút nhưng tỷ lệ tiền mặt trong nền tế vẫn còn
chiếm tỷ trọng rất lớn khi ở Malaysia tỷ lệ giao dịch phi tiền mặt đạt đến 89% hay
ở Thái Lan là 59.7% thì ở Việt Nam tỷ lệ này chỉ đạt 4.9% (Lê Huy Khôi, 2018).
Mặc dù thương mại điện tử ở Việt Nam được đánh giá là có tăng trưởng tích cực
8
nhưng về hình thức thanh toán thì vẫn là tiền mặt chiếm đa số khi có tới 80%
khách hàng chi trả bằng hình thức thanh toán tiền mặt (Q&Me, 2018) khi nhận
hàng.
Song song đó là văn bản 2198/NHNN-TT đã được NHNNVN ban hành
nhằm đẩy mạnh và khuyến khích người dân thay đổi thói quen thanh toán qua ngân
hàng đối với các dịch vụ công như điện, nước, học phí, viện phí. Các dịch vụ này
cũng được mở rộng và phát triển trên nền tảng ví điện tử nhưng cho đến nay là
giữa năm 2019 những tiện ích này vẫn ít được người dùng ví điện tử sử dụng mà
thực trạng chủ yếu là phần lớn khách hàng mang tiền mặt đến ngân hàng để tiến
hành thanh toán.
Ngoài ra thách thức cũng đến từ quy định về việc ví điện tử phải kết nối với
tài khoản ngân hàng (NHNNVN, 2014). Điều này cũng có nghĩa là những người sử
dụng ví điện tử bắt buộc phải có tài khoản ngân hàng nhưng trên thực tế tỷ lệ dân
số trưởng thành có tài khoản thanh toán tại các ngân hàng ở Việt Nam lại chỉ đang
chiếm số ít so với tổng dân số và sự tiếp cận này còn khó khăn hơn đặc biệt là dân
cư ở những vùng nông thôn. Từ năm 2011 cho đến năm 2017 mặc dù tỷ lệ phần
trăm người trưởng thành ở Việt Nam có tài khoản thanh toán ở ngân hàng tăng từ
21% lên 31% nhưng nhìn chung vẫn còn thấp (Worldbank, 2018). Buzzmetrics
(2018) cũng cung cấp thêm 49% tức chiếm gần nửa khách hàng đang sử dụng dịch
vụ ví điện tử thể hiện sự không hài lòng đối với dịch vụ mà họ đang sử dụng trong
đó phần lớn phản hồi tiêu cực liên quan đến việc các thao tác kết nối với tài khoản
ngân hàng, đăng ký sử dụng dịch vụ và nhận mã xác nhận.
Như vậy việc triển khai các phương tiện thanh toán tiên tiến như thanh toán
điện tử, thanh toán di động hay ví điện tử cho cộng đồng vẫn còn là thách thức đối
với NHNVN. Không những vậy việc nhận thức và chấp nhận một hệ thống thanh
toán mới không qua tiền mặt còn liên quan đến nhiều yếu tố không chỉ dừng lại ở
việc thay đổi thói quen mà còn là mức độ phổ biến của các dịch vụ sản phẩm trong
người dân, những vấn đề liên quan đến an ninh, tạo sự tin tưởng đối với các sản
phẩm dịch vụ mới lạ so với sự hiểu biết của cộng đồng và cuối cùng là tính minh
9
bạch để người dân có thể tự tin vào sản phẩm mà mình đang dùng. (Lim Choon
Seng, 2008)
4.3.3 Những rủi ro công nghệ, an ninh và bảo mật thông tin.
Các hoạt động tài chính có mức độ số hóa càng cao và phụ thuộc vào nền
tảng điện tử và công nghệ thông tin thì sẽ có nguy cơ bị tấn công bởi chính những
cuộc tấn công mạng. Rủi ro này được xếp vào loại rủi ro hoạt động mà không loại
trừ bất cứ nạn nhân nào cho dù có là doanh nghiệp có nền tảng công nghệ vững
mạnh mà nó có thể xảy ra đối với bất kỳ hệ thống tài chính nào mang tính số hóa.
Rebecca Moody (2019) đã có những đánh giá chung về an ninh mạng trên toàn cầu
mà Việt Nam được xếp vào nhóm những nước có mức độ an toàn mạng thấp nhất
các quốc gia khảo sát. Trong đó chỉ số về những phòng ngừa cho việc bị tấn công
mạng được đánh giá thâp nhất là 0.245 điểm so với các nước trong khu vực là
Indonesia 0.424 điểm, Philippines 0.594 điểm thâm chí Singapore còn đứng đầu
danh sách với 0.925 điểm. Năm xu hướng về an toàn, an ninh mạng trong năm
2019 được khối An toàn thông tin thuộc bộ thông tin truyền thông đưa ra trong đó
có các vấn đề tấn công mạng vào các hệ thống thương mại điện tử, tài chính ngân
hàng với mục tiêu là đánh cắp thông tin và dữ liệu của người sử dụng.
Trước những những tác động tiêu cực từ những rủi ro về công nghệ, an ninh
và bảo mật thông tin NHNNVN cũng ban hành quyết định 630/QĐ-NHNN
(NHNNVN, 2017b) để tăng cường các giải pháp về an toàn bảo mật trong thanh
toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng. Những nội dung trong quyết định này
được xem là những giải pháp tăng khả năng chống chịu cho hệ thống thanh toán
nhưng chỉ dừng lại ở hệ thống thanh toán trực tuyến của ngân hàng và hệ thống các
ứng dụng của ngân hàng trên di động chứ chưa khái quát được những vấn đề về an
ninh trong dịch vụ thanh toán có ứng dụng công nghệ mới như ví điện tử. Bên cạnh
đó hiện nay chưa có những quy định rõ ràng về bảo vệ quyền lợi của người dùng
hay những khung pháp lý về quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả các bên bao gồm
10
khách hàng, ngân hàng liên kết hay bên cung cấp dịch vụ thanh toán khi có những
rủi ro về bảo mật hay an ninh mạng xảy ra.
4.3.4 Các vấn đề an ninh tiền tệ
Khách
thanh
toán qua ví điện
tử hoặc quét mã
qua ứng dụng
Alipay, Wechat
Tiềền được chuyển
đềến tài khoản
thanh toán của
người bán được
mở ở ngân hàng
nước ngoài
Sau đó mới
được chuyển lại
điểm bán hàng
tại Việt Nam
Bên trên là dòng tiền của những du khách Trung Quốc được nhóm tự tổng
hợp khi thực hiện mua sắm các sản phẩm dịch vụ trong lãnh thổ Việt Nam cụ thể là
các địa phương du lịch như Khánh Hòa, Đà Nẵng, Quảng Bình, v.v. nhưng điều
đáng nói ở đây là dòng tiền đi trực tiếp trong nội địa đến thẳng tài khoản thanh
toán của người cung cấp (người bán) mở ở ngân hàng Trung Quốc. Xét ở một khía
cạnh nào đó thực trạng này một hình thức sử dụng hệ thống thanh toán nước ngoài
ở ngay trên lãnh thổ quốc gia. Đây là một bức tranh khá phổ biến được ghi nhận
trên các phương tiện báo chí truyền thông trong năm 2017 và điều này này ảnh
hưởng nguồn thu ngân sách nhà nước khi không thu được thuế từ các giao dịch bất
hợp pháp này do dòng thông tin và dòng luân chuyển tiền không được kiểm soát.
Vấn đề được đặt ra ở đây đối với NHNNVN là về mặt pháp lý cần cân nhắc có nên
ban hành một khung quy định về điều khoản ràng buộc trong lĩnh vực thanh toán
thông qua dịch vụ ví điện tử nước ngoại tại Việt Nam hay không?. Từ đây cho thấy
khung khổ luật pháp ở Việt Nam vẫn còn chậm nhịp so với sự phát triển của công
nghệ tài chính. Chỉ khi thực trạng dòng tiền chảy thẳng từ Việt Nam về Trung
Quốc xuất hiện ngày càng nhiều và lượng ngân sách bị thất thu có thể lên nhiều
con số thì NHNNVN mới bắt đầu quan tâm đến việc ban hành các quy định luật
định về thanh tra, giám sát và kiểm soát. Điển hình là vai trò thanh kiểm tra các
11
hoạt động về dịch vụ ví điện tử hay đối tượng áp dụng của thông tư mới chỉ được
dự thảo chứ chưa được ban hành một cách chính thức.
4.4.5 Sự hợp tác giữa ngân hàng và các công ty Fintech
Trên thực tế sự hợp tác này đối với hai chủ thể chính là các ngân hàng
truyền thống và các công ty Fintech cung cấp các dịch vụ thanh toán mới đều có
lợi khi bù trừ khuyết điểm của nhau. Báo cáo PwC (2017) cho thấy xu hướng hợp
tác diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu là những dịch vụ sản phẩm thuộc lĩnh vực thanh
toán. Nhưng làm thế nào để việc liên kết hay sáp nhập giữa hai đối tượng này đạt
hiệu quả và tạo sự lành mạnh cho những hoạt động thuộc lĩnh vực thanh toán là
một trong những vấn đề được đặt ra cho NHNNVN. Cốt lõi là những sản phẩm
được cung cấp bởi các công ty Fintech đa số đều là những sáng tạo dựa trên nền
tảng công nghệ thông tin và truyền thông mới do đó còn tồn tại những mặt chưa
hoàn thiện. Khi một công ty Fintech cung ứng các dịch vụ tài chính giữ tiền của
người sử dụng dịch vụ (như thanh toán, chuyển tiền, nhận tiền gửi) bị đổ vỡ hoặc
yếu kém thì sẽ tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng lan truyền tới các tổ chức tài chính
khác, cũng như ảnh hưởng tới sự an toàn, ổn định của cả hệ thống tài chính của
một quốc gia. Vì vậy NHNNVN cần nhanh chóng đẩy mạnh Đề án Cơ chế thử
nghiệm có kiểm soát (Regulatory Sandbox) tạo một môi trường cho những sản
phẩm của Fintech được hoàn thiện hơn nữa.
Ngoài ra, việc sử dụng công nghệ mới tạo ra những cơ hội cho khách hàng
tự động thay đổi các tài khoản tiết kiệm hay quỹ hỗ tương nhằm tăng thu lợi nhuận,
nhưng cũng tác động đến mức độ trung thành của khách hàng và làm tăng bất ổn
về tiền gửi, ảnh hưởng tiêu cực đến tính thanh khoản của ngân hàng. Bên cạnh đó,
các công ty cung cấp các ứng dụng hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng cũng tiềm ẩn
rủi ro trực tiếp đối với sự lành mạnh, an toàn của ngân hàng thương mại sử dụng
dịch vụ. Cụ thể sự gia tăng các sản phẩm và dịch vụ mới có thể làm tăng tính phức
tạp trong việc cung cấp dịch vụ tài chính, gây khó khăn cho quản lý và kiểm soát
rủi ro hoạt động, hệ thống lõi của ngân hàng không đáp ứng đầy đủ các thay đổi và
có thể không thích hợp. Vì vậy, các ngân hàng sẽ kết nối với các công ty Fintech
nên làm gia tăng rủi ro an toàn dữ liệu, bảo vệ khách hàng, thông tin mật và an
12
ninh mạng. Từ đó, có thể làm tăng mức độ tổn thương cho hệ thống ngân hàng, đòi
hỏi phải có thêm nhiều lớp dữ liệu để ngăn ngừa những vi phạm tiềm tàng.
Mặt khác, sự thiếu minh bạch trong các hoạt động của các công ty fintech
trong việc kêu gọi huy động vốn, quản lý tài khoản, giữ tiền của người sử dụng để
phục vụ cho các mục đích khác với những cam kết khi sử dụng vốn của người tiêu
dùng. Dẫn đến việc khi công ty Fintech không đủ khă năng tài chính để chi trả lại
những món tiền đầu tư nhận của khách hàng (tiền gửi hoặc tiền của khách hàng sử
dụng dịch vụ thanh toán, chuyển tiền).
5. Kết luận
Từ những nội dung nghiên cứu trên ta rút ra được các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cần làm sao để các thành phần kinh tế xã hội và đặc biệt là bộ
phận người tiêu dùng từ bỏ thói quen thanh toán tiền mặt chuyển qua hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt. Ứng dụng các dịch vụ thanh toán tài chính hiện
đại trong giao dịch hàng ngày.
Thứ hai, những lợi ích đem lại từ dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt,
giảm thiểu được rủi ro trong đời sống hằng ngày và hướng tới một xã hội số hóa
toàn diện trong thời đại công nghệ số.
Thứ ba, những đóng góp to lớn của thanh toán điện tử với nền kinh tế như
việc tăng được sự minh bạch khi dùng ví điện tử, giảm được tỷ lệ tham nhũng, dân
trí người dân được nâng cao, tốc độ tăng trưởng GDP được cải thiện, giảm được
các chi phí in ấn và quản lý tiền mặt.
Thứ tư, những vấn đề cần đặt ra cho NHNNVN trong việc thúc đẩy sự phát
triển của các dịch vụ thanh toán điện tử nói riêng và sự phát triển của các công ty
Fintech theo xu hướng toàn cầu. Những thông tư, nghị định, dự thảo,.. cần được
đưa ra thực hiện nhằm đảm bảo cho việc phát triển của các dịch vụ công nghệ tài
chính vững mạnh, an toàn trong hệ thống thị trường tài chính. Chính phú,
NHNNVN cần can thiệp kịp thời và hành động ngay với sự phát triển tốc độ của
công nghệ tài chính để đảm bảo hệ thống tài chính ổn định, tránh gặp khó khăn
trong việc thanh khoản thị trường, những rủi ro tiềm ẩn nguy cơ làm tan vỡ hệ
thống ngân hàng nói riêng và thị trường nói chung.
13
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BuzzMetrics (2018), Thị trường ví điện tử - Công thức thành công và cơ hội tiềm
ẩn do người dùng cung cấp, Việt Nam.
Capgemini (2018), World Payments Report 2018, France.
Chính Phủ (2012), Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền
mặt, ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2012.
Chính phủ (2016), Quyết định số 2545/QĐ-TTg phê duyệt đề án phát triển thanh
toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020, ban hành ngày 30
tháng 12 năm 2016.
Cimigo (2019), E-payments, e-wallet and the future of payments, Ho Chi Minh
city.
Committee on Payment and Settlement Systems (2012), Innovations in Retail
Payments, Germany.
Dân số Việt Nam (2019), truy cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm 2019, từ
https://danso.org/viet-nam/
European Payment Council (2014), White Paper Mobile Wallet Payments, Cours
Saint.
Hartmann, M. E. (2006), “E-Payments Evolution”, Handbuch E-Money, EPayment & M-Payment, 7-18.
Hootsuite & We Are Social (2019), Digital 2019, USA.
Lê Huy Khôi (2018), “Phát triển thanh toán di động tại Việt Nam: Hiện trạng và
thách thức”, truy cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm 2019, từ
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/phat-trien-thanh-toan-di-dong-tai-vietnam-hien-trang-va-thach-thuc-300485.html.
Lim Choon Seng, V. (2008), “The Development of E-payments and Challenges for
Central Banks in the SEACEN Countries”, Research Studies.
NHNNVN (2014), Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung
gian thanh toán, ban hành ngày 11 tháng 12 năm 2014.
NHNNVN (2017a), Quyết định số 328/QĐ-NHNN về việc thành lập Ban Chỉ đạo
về lĩnh vực công nghệ tài chính, ban hành ngày 16 tháng 03 năm 2017.
NHNNVN (2017b), Quyết định số 630/QĐ-NHNN Ban hành Kế hoạch áp dụng
các giải pháp an toàn về bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ
ngân hàng, ban hành ngày 30 tháng 03 năm 2017.
15
NHNNVN (2019a), “Dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung và thông tư số
39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán”,
truy cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm 2019, từ https://napas.com.vn/Ti%20liu
%20vn%20bn%20php%20quy/(2)%20TT20_2016_Sua
%20doi_bo_sung_TT39_(Trung_gian_thanh_toan)_va_TT36.doc
NHNNVN (2019b), Văn bản số 2198/NHNN-TT về việc đẩy mạnh thanh toán
trong lĩnh vực dịch vụ công, ban hành ngày 29 tháng 03 năm 2019.
Omarini, A. E. (2018), “Fintech and the Future of the Payment Landscape: The
Mobile Wallet Ecosystem-A challenge for Retail Banks?”, International Journal
of Financial Research, 9 (4), 97-116.
Population Pyramids of the World (2019), truy cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm
2019, từ https://www.populationpyramid.net/viet-nam/2019/
PPRO (2018), Payment & E-commerce Report, United Kingdom.
PwC (2017), Global Fintech Report 2017, England.
Q&Me (2018), Vietnam EC Report, Ho Chi Minh City.
Rebecca Moody (2019), “Which countries have the worst (and best)
cybersecurity?”, truy cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm 2019, từ
https://www.comparitech.com/blog/vpn-privacy/cybersecurity-by-country/
Solidiance (2018), Unlocking Vietnam’s Fintech Growth Potential, Singapore.
Thông Tấn Xã Việt Nam (2019), “9 lợi ích của thanh toán không dùng tiền mặt”,
truy cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm 2019, từ https://plo.vn/video-photo-hihoa/infographic/9-loi-ich-cua-thanh-toan-khong-dung-tien-mat-815050.html
Trần Thị Khánh Trâm (2019), “Thực trạng sử dụng dịch vụ ví điện tử tại TP. Huế”,
truy cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm 2019, từ http://tapchitaichinh.vn/nganhang/thuc-trang-su-dung-dich-vu-vi-dien-tu-tai-tp-hue-302823.html.
Visa (2016), Are Cashless payments good for business?, USA.
Visa (2017), Cashless Cities: Realizing the Benefits of Digital Payments, USA.
World Bank (2014), The opportunities of digitizing payments, USA.
World Bank (2018), “Global Financial Inclusion (Global Findex) Database”, truy
cập lần cuối ngày 06 tháng 06 năm 2019, từ cơ sở dữ liệu của World Bank
Wright, R., Tekin, E., Topalli, V., McClellan, C., Dickinson, T., & Rosenfeld, R.
(2017), “Less cash, less crime: Evidence from the electronic benefit transfer
program”, The Journal of Law and Economics, 60 (2), 361-383.
16
- Xem thêm -