ĐỀ CƯƠNG
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thuế trong nền kinh tế
1. Quan niệm về thuế
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế
3. Quản lý thuế.
II. Đánh giá về công tác quản lý thuế ở Việt Nam thời gian qua
1. Thực trạng quản lý thuế qua các giai đoạn:
a, Trước năm 1990:
- Giai đoạn vừa kháng chiến vừa kiến quốc (1945-1954)
- Giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước (1955-1975)
- Giai đoạn cả nước đi lên CNXH (1975-1990)
b, Sau năm 1990:
- Giai đoạn cải cách bước I, II (tổ chức bộ máy theo Nghị định 281/HĐBT ngày
7/8/1990)
- Tổ chức bộ máy theo Quyết định 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003
- Chương trình cải cách và hiện đại hệ thống thuế theo Quyết định số
201/2004/QĐ-TTg.
2. Những kết quả đạt được:
- Sau 2 cuộc cải cách thuế (1986-2005)
- Sau 2 năm thực hiện Chương trình cải cách và hiện đại hệ thống thuế theo
Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg.
3. Hạn chế về công tác quản lý thuế.
III. Giải pháp
C. KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Có ai đó đã từng nói: Trong đời có hai thứ mà bạn không thể tránh: chết và
thuế. Có những người cho rằng thuế còn tệ hơn là chết.
Vậy, “ Thuế là gì”? Thuế là nguồn thu chủ yếu và lâu dài của ngân sách Nhà
nước. Ngân sách có thể huy động nguồn thu bằng nhiều cách khác nhau như đi
vay, bán tài nguyên hay tài sản quốc gia, nhận viện trợ, in tiền…nhưng không có
nguồn thu nào mang tính chất bền vững và cơ bản như thuế.
Thuế là vấn đề đại cục của mỗi quốc gia. Ngày nay, trong tiến trình hội nhập,
thuế lại đang có vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Chính vì vậy, việc quản
lý thuế đang trở thành vấn đề quan tâm ngày càng lớn của các nhà nước, dù là
nước phát triển hay đang phát triển.
Đặc biệt là nước ta đang tiếp tục triển khai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, điều này đã và đang
cần một nguồn lực tài chính đủ mạnh chẳng những đảm bảo nhu cầu chi tiêu
thường xuyên của nhà nước và giành một phần lớn nguồn lực tài chính cho tích
luỹ phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh như vậy,
việc hoàn thiện quản lý thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là rất
cần thiết.
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Những đánh giá về công tác quản lý
thuế ở Việt Nam thời gian qua” để qua đó có thể nhận thức rõ hơn về thuế và
quản lý thuế, những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, tồn tại trong
công tác quản lý thuế ở Việt Nam, em nghĩ đó là những tri thức rất cần thiết cho
những cán bộ thuế tương lai như mình.
I. Những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thuế trong nền kinh tế:
1. Quan niệm về thuế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, phản ánh bản chất của
chế độ xã hội. Ra đời và tồn tại cùng Nhà nước, từ đó đến nay thuế đã trải qua
quá trình tồn tại và hoàn thiện lâu dài, đồng thời người ta cũng đưa ra không ít
các khái niệm về thuế trên các góc độ khác nhau:
- Các nhà kinh điển cho rằng “thuế là cái Nhà nước thu của dân nhưng không
bù lại” và “thuế cấu thành nên phần thu của chính phủ, nó được lấy ra từ sản
phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư
bản hay thu nhập của người chịu thuế” (Lênin toàn tập-tập 15)
- Hiện nay trong một số tài liệu, các tác giả viết: Thuế là khoản đóng góp
theo qui định của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân phải
có nghĩa vụ nộp vào cho ngân sách Nhà nước.
2
Trên góc độ phân phối thu nhập: Thuế là hình thức phân phối và phân phối
lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành nên quỹ tiền tệ
tập trung lớn nhất của Nhà nước( quỹ ngân sách Nhà nước) để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Từ các quan niệm trên ta thấy thuế có hai đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, Tính cưỡng chế và tính pháp lý cao.
Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Trong các
quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt
buộc của các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước. Tổ chức hoặc cá nhân
nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình tức là họ đã vi phạm pháp luật
cuả quốc gia đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng thuế là biện pháp tài chính mang tính
chất bắt buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên
nền tảng của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế
thế giới.
Thứ hai, Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp:
Số tiền thuế thu được, Nhà nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng,
phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và mọi cá nhân trong xã hội. Mọi cá nhân,
người có nộp thuế cho Nhà nước cũng như người không nộp thuế, người nộp
nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong việc nhận được các phúc lợi
công cộng từ phía Nhà nước. Số thuế mà các đối tượng phải nộp cho Nhà nước,
được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà
dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ.
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân. Từ khi ra đời Nhà nước dựa vào quyền lực chính trị của
mình đã đặt ra các thứ thuế để bắt buộc các thành viên trong xã hội đóng góp một
phần sản vật và thu nhập của họ cho Nhà nước. Nhờ có khoản đóng góp đó, bộ
máy Nhà nước mới tồn tại và phát triển được. Lịch sử tồn tại và phát triển của
thuế qua các thời kỳ và ở các nước cũng đã cho thấy: Tỷ trọng thu bằng thuế
thường chiếm phần lớn trong các tổng thu nhập của ngân sách Nhà nước. Hiện
nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số
thu bằng thuế, phí chiếm tới trên 90% tổng số thu ngân sách Nhà nước.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại các thu nhập theo đường lối
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn
thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua
bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế phải là công cụ quan trọng góp phần tích
cực giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội, chuẩn bị
điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở thành
nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh.
3
Với nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất
giữa các thành phần kinh tế. Thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh
doanh, các nguồn thu nhập trong xã hội …
Nhà nước ta luôn coi thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất của ngân
sách nhà nước.
Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước:
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc thuế,
việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn
giảm, phương pháp quản lý thu thuế dựa trên cơ sở hạch toán kế toán đầy đủ,
chính xác, thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội thể
hiện trên hai mặt: khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết
làm ăn có hiệu quả; đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần
hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí.
Thuế còn khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích
các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trước
pháp luật. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong việc
tranh thủ vốn hợp tác của nước ngoài để phát triển kinh tế hàng hóa, không
ngừng nâng cao khả năng tích lũy, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, bảo
vệ sản xuất trong nước.
Thuế thúc đẩy mở rộng thị trường một cách lành mạnh, vừa khuyến khích
giao lưu hàng hóa, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng qua nhiều khâu
trung gian, đầu cơ tích trữ để hưởng chênh lệch giá.
Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế:
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng
trong làm nghĩa vụ và quyền lợi.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
cùng hoạt động trong một lĩnh vực, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ với mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi cho bất cứ
đối tượng nào. Thuế kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đầu
tư vốn, đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách chính đáng.
Để đảm bảo bình đẳng, công bằng phải có biện pháp chống thất thu thuế có
hiệu quả về số đối tượng kê khai nộp thuế, về căn cứ tính thuế, về chế độ miễn
giảm thuế, về kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm.
Nhận thức đúng đắn, tự nguyện, tự giác chấp hành các nghĩa vụ khai báo,
chế độ giữ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn, nộp thuế của các chủ thể, nộp thuế
theo đúng pháp luật cũng là yếu tố quan trọng bảo đảm bình đẳng và công bằng
về thuế.
Thuế còn là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất
kinh doanh:
4
Vai trò này xuất hịên chính do quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong
thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các luật thuế đã được ban hành, cơ
quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng,
qui mô các cơ sở sản xuất , kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt
hàng học được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát
hiện những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của các cá nhân, các đơn vị sản
xuất, kinh doanh hoặc phát hiện những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ
tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp
kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo
thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
3. Quản lý thuế:
Là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài chính Nhà
nước, quản lý thuế không thể tách rời quản lý Nhà nước nói chung và quản lý
Nhà nước về kinh tế nói riêng.
Công tác quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các mục tiêu
cơ bản sau:
- Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở không
ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
- Phát huy tốt vai trò của thuế trong nền kinh tế.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và dân cư.
Một số mô hình tổ chức quản lý thuế trên thế giới:
Mô hình tổ chức quản lý thuế là khái quát bộ máy quản lý thuế theo một
nguyên tắc cơ bản nhất, bao trùm và chi phối việc xác định số lượng các bộ phận,
chức năng, nhiệm vụ quản lý thuế của từng bộ phận trong cơ cấu tổ chức.
* Mô hình tổ chức quản lý thuế theo sắc thuế:
Là mô hình lấy việc quản lý theo sắc thuế là nguyên tắc bao trùm. Theo đó,
cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (gọi chung là phòng) quản lý một hoặc một
số loại thuế cụ thể (VD: phòng thuế thu nhập; phòng thuế GTGT; thuế TTĐB…).
Đặc điểm cơ bản của mô hình này là mỗi phòng thực hiện tất cả các chức năng để
quản lý các loại thuế mà phòng đó chịu trách nhiệm.
* Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm đối tượng nộp thuế(ĐTNT):
Là mô hình lấy quản lý theo nhóm ĐTNT là nguyên tắc bao trùm. Theo đó,
cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (phòng) quản lý theo nhóm ĐTNT. Ở một số
nước phân loại nhóm đối tượng theo qui mô. Một số nước khác phân loại nhóm
ĐTNT theo ngành nghề kinh doanh hoặc theo hình thức sở hữu. Từ đó, hình
thành các phòng quản lý thu thuế theo đối tượng (Phòng quản lý thuế các doanh
nghiệp lớn, phòng quản lý thuế các doanh nghiệp vừa, nhỏ; hoặc phòng quản lý
thuế ngành công nghiệp, phòng quản lý thuế ngành Hàng không, Điện lực… hoặc
5
phòng quản lý thuế khu vực kinh tế quốc doanh, phòng quản lý thuế khu vực kinh
tế dân doanh…)
* Mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng:
Là mô hình lấy chức năng quản lý thuế làm nguyên tắc bao trùm. Theo đó,
cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận thực hiện một hoặc một số chức năng nhất
định trong qui trình quản lý thuế như: Phòng tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT,
Phòng xử lý tờ khai và dữ liệu về thuế, Phòng cưỡng chế và quản lý thu nợ,
phòng Thanh tra thuế...)
* Mô hình kết hợp giữa các nguyên tắc quản lý thuế
Để phát huy ưu điểm và khắc phục những tồn tại của các mô hình quản lý
thuế trên, nhiều nước trên thế giới áp dụng mô hình quản lý thuế kết hợp các
nguyên tắc quản lý: theo chức năng, theo nhóm đối tượng và theo sắc thuế, trong
đó xác định một nguyên tắc bao trùm. Thông thường có một số hình thức kết hợp
sau (trong đó nguyên tắc đầu tiên là nguyên tắc bao trùm):
- Sắc thuế - Chức năng - qui mô đối tượng:
- Chức năng – Qui mô đối tượng - Sắc thuế
- Đối tượng (qui mô, ngành nghề) - Chức năng - Sắc thuế
Trong 3 hình thức kết hợp trên, hình thức thứ 2 và thứ 3 thường được áp dụng
và có ưu điểm hơn cả.
II. Đánh giá về công tác quản lý thuế ở Việt Nam thời gian qua:
1, Thực trạng quản lý thuế qua các giai đoạn:
a, Trước 1990:
* Giai đoạn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc (từ 1945 đến 1954):
Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công (9/1945), để thực hiện việc tập
trung nguồn tài chính, phục vụ cho chi tiêu của chính quyền Cách mạng non trẻ,
Nhà nước đã ra nhiều Sắc lệnh thành lập các cơ quan thuế với tên gọi khác nhau,
làm nhiệm vụ chỉ đạo và quản lý thu theo các loại thuế, phí. Như: Sở thuế quan
và thuế gián thu làm nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo, quản lý và thu các loại thuế xuất,
nhập cảng và thuế gián thu; Nha thuế trực thu Việt Nam làm nhiệm vụ nghiên
cứu, thi hành và kiểm soát tất cả các công việc liên quan đến các thứ thuế trực
thu; Nha Trước bạ - Công sản - Điền thổ. Các cơ quan thuế này đều trực thuộc Bộ
tài chính, nhưng hoạt động độc lập với nhau.
Thời kỳ này có nhiều thay đổi trong chính sách động viên tài chính của Nhà
nước cũng như nhiệm vụ quản lý thu đối với các đối tượng khác nhau, do đó tổ
chức bộ máy thu thuế cũng thay đổi. Tháng 7/1951 Bộ Tài chính đã ban hành
Nghị định thành lập Vụ thuế Nông nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính và hệ thống tổ
chức ngành Thuế công thương nghiệp trong cả nước theo 4 cấp: Trung ương có
Sở thuế; Liên khu có Phân sở thuế; Tỉnh, thành phố có Chi sở thuế; Huyện có
phòng Thuế. Ở những nơi có hoạt động xuất nhập khẩu lớn được thành lập Chi sở
thuế xuất nhập khẩu. Như vậy, trong giai đoạn này, tổ chức bộ máy được tổ chức
6
vừa theo sắc thuế (thuế nông nghiệp, thuế xuất nhập khẩu) lại vừa theo ngành
nghề hoạt động sản xuất kinh doanh công thương nghiệp mà chủ yếu lúc này là
thuế đối với rượu và thuế đối với muối.
* Giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất tổ quốc (từ 1955 đến 1975)
Giai đoạn này, miền Bắc tiến hành công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh và đến đầu thập kỷ 60 công việc này đã cơ bản hoàn thành, kinh tế
quốc doanh đã chiếm ưu thế, kinh tế hợp tác trong lĩnh vực công thương nghiệp
và nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Để quản lý thu thuế đối với các đối tượng
này, tháng 11/1961 Chính phủ đã ban hành Nghị định về tổ chức bộ máy của Bộ
Tài chính, trong đó có Vụ Thu quốc doanh và thuế làm nhiệm vụ quản lý thu theo
chế độ riêng đối với khu vực kinh tế quốc doanh và quản lý thu thuế công thương
nghiệp; Vụ Tài vụ hợp tác xã và thuế nông nghiệp làm nhiệm vụ quản lý thu thuế
nông nghiệp đối với khu vực tập thể, cá thể.
Như vậy, cùng với sự phát triển của các khu vực kinh tế, đặc biệt là kinh tế
quốc doanh ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong ngân cách nhà nước, tổ
chức bộ máy quản lý thuế đối với khu vực này cũng nhiều lần được kiện toàn và
phát triển. Tháng 3/1974 Cục Thu quốc doanh được thành lập thay thế Vụ thu
quốc doanh và thuế trước đây. Ở các tỉnh, thành phố có Chi cục thu quốc doanh
hoạt động theo sự chỉ đạo của ngành dọc cấp trên.
* Giai đoạn cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội (1975 đến 1990).
Thời kỳ này, công tác thuế của Đảng đã chuyển sang phục vụ cho nhiệm vụ
khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục các hậu quả nặng nề của chiến tranh,
chăm lo đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, đồng thời phục vụ
cho công cuộc xây dựng CNXH trong cả nước.
Hệ thống chính sách thu đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh bao gồm
chính sách: Thu thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp và chế độ thu từ xí
nghiệp quốc doanh, và không ngừng được bổ sung hoàn thiện. Tổ chức bộ máy
quản lý thu thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp và thu quốc doanh ngày
càng được củng cố kiện toàn. Cán bộ thuế được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp
vụ phẩm chất đạo đức theo yêu cầu thời kỳ mới.
Trong giai đoạn này, tổ chức bộ máy quản lý thu thuế đối với khu vực tập
thể, cá thể được tập trung củng cố và kiện toàn. Tháng 4/1980 Chính phủ qui định
tổ chức ngành thuế công thương nghiệp thống nhất theo 3 cấp Trung ương, tỉnh,
huyện. Nhưng các tổ chức này tại địa phương đều trực thuộc cơ quan tài chính
địa phương. Đến tháng 7/1983, Cục Thuế công thương nghiệp đã được thành lập
và hoạt động thống nhất theo hệ thống dọc
Như vậy, trước 1990, Việt nam chưa có hệ thống thuế thống nhất áp dụng
với mọi thành phần kinh tế, vì vậy, việc tổ chức quản lý và thu 03 loại thuế và thu
áp dụng đối với các thành phần kinh tế khác nhau do 3 cơ quan thu độc lập đảm
nhiệm, đó là: Cục Thu Quốc doanh thực hiện nhiệm vụ quản lý thu quốc doanh
đối với doanh nghiệp nhà nước; Cục Thuế Công thương nghiệp thực hiện nhiệm
7
vụ quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh; Vụ thuế nông
nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản lý thu thuế nông nghiệp.
b, Sau 1990:
* Giai đoạn cải cách thuế bước I, II (tổ chức bộ máy theo Nghị định
281/HĐBT ngày 7/8/1990):
Cùng với đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, các thành phần
kinh tế ở Việt Nam đã phát triển nhanh theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN, Đảng và Nhà nước cũng chủ trương thực hiện cải cách thuế, bắt đầu áp
dụng một hệ thống thuế thống nhất (gồm 9 sắc thuế) đối với mọi thành phần kinh
tế. Để thống nhất công tác quản lý thu thuế trong cả nước, phù hợp với sự chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, ngày 7/8/1990
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 281/HĐBT về việc thành lập Hệ thống thu
thuế Nhà nước, trên cơ sở sáp nhập 3 tổ chức thu nêu trên. Hệ thống thu thuế Nhà
nước (gọi chung là Tổng cục Thuế) là hệ thống dọc, trực thuộc Bộ Tài chính, có
đặc trưng và nhiệm vụ cơ bản như sau:
1. Hệ thống thu thuế Nhà nước thực hiện việc quản lý thống nhất trong cả
nước tất cả các loại thuế, phí của Ngân sách Nhà nước (trừ các khoản thu từ
hoạt động xuất nhập khẩu do ngành Hải quan quản lý).
2. Hệ thống thu thuế Nhà nước được tổ chức theo ngành dọc từ Trung
ương đến quận, huyện. Tại Trung ương có Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài
chính, thực hiện chức năng nghiên cứu chính sách thuế, chỉ đạo thực hiện thống
nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(gọi chung là) có Cục Thuế trực thuộc Tổng cục Thuế. Tại quận, huyện, thị xã
thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) có Chi Cục Thuế trực thuộc Cục Thuế. Cục Thuế,
Chi cục thuế thực hiện chức năng trực tiếp quản lý thu thuế và thu khác trong
phạm vi địa bàn được phân công
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế tại Trung ương chủ yếu theo sắc
thuế, dần dần điều chỉnh và kiện toàn kết hợp với chức năng. Ở địa phương quản
lý thuế chủ yếu theo nhóm đối tượng, dần dần kết hợp với quản lý theo chức
năng.
Năm 1990, khi mới thành lập hệ thống thuế thống nhất, trong điều kiện hệ
thống chính sách thuế áp dụng cho mọi thành phần kinh tế mới được hình thành,
còn thường xuyên phải thay đổi, bổ sung, hoàn thiện, trình độ quản lý thuế còn
thủ công, ý thức chấp hành pháp luật của ĐTNT còn quá yếu, bộ máy quản lý
thuế được tổ chức dựa trên nguyên tắc quản lý theo sắc thuế ở cấp Trung ương và
quản lý theo đối tượng bằng phương pháp chuyên quản khép kín ở cấp địa
phương là hoàn toàn phù hợp. Trong quá trình thực hiện, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, số lượng ĐTNT ngày càng tăng, yêu cầu hội nhập quốc tế ngày
càng rộng và sâu, trình độ quản lý thuế ngày càng được nâng cao, các chức năng,
nhiệm vụ quản lý thuế đã được tăng cường, bổ sung, đòi hỏi công tác quản lý
thuế ngày càng phải hoàn thiện, bộ máy quản lý thuế cũng phải được kiện toàn.
8
Do đó, ở cấp Trung ương, cơ chế quản lý được chuyển dần từ quản lý theo sắc
thuế sang quản lý theo đối tượng kết hợp với quản lý theo chức năng, phù hợp
với yêu cầu xây dựng và chỉ đạo thực hiện hệ thống chính sách thuế trong các
giai đoạn cải cách thuế. Ở cấp tỉnh, huyện, phương pháp quản lý chuyên quản
khép kín đã dần được thay thế bằng phương pháp quản lý thuế tách 3 bộ phận độc
lập, một số chức năng quản lý thuế đã được tách thành các chức năng độc lập và
giao cho một bộ phận đảm nhiệm.
* Tổ chức bộ máy theo Quyết định 218/2003/ QĐ-TTg ngày 28/10/2003:
Để tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách hành chính thuế, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lý thuế của cơ quan thuế trong giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 44/CTTW ngày 04/11/1998 chỉ đạo tiếp tục cải cách hệ thống thuế Nhà nước và Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003
về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực
thuộc Bộ Tài chính. Theo Quyết định này, tổ chức bộ máy ngành thuế được tổ
chức lại theo nguyên tắc:
- Xác định đày đủ nhiệm vụ quản lý thuế; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của
ĐTNT trong việc chấp hành pháp luật thuế
- Tăng cường chức năng quản lý nhà nước và quyền hạn cho cơ quan thuế
- Tổ chức bộ máy được cơ cấu lại hợp lý theo hướng cải cách hành chính,
gọn nhẹ hơn, tinh giản hơn, tập trung nguồn lực cho các chức năng quản lý thuế
chủ yếu.
Theo đó, tổ chức bộ máy ngành thuế đã được tổ chức lại như sau:
+ Xoá bỏ bớt các bộ phận trung gian không cần thiết, giảm được 5 đầu mối
tại Tổng cục Thuế, 119 phòng thuộc Cục Thuế và 1042 Tổ, Đội thuế không còn
phù hợp với yêu cầu quản lý thuế mới.
+ Tổ chức bộ máy đã được cơ cấu lại chủ yếu theo chức năng quản lý
thuế, thu hẹp một bước các bộ phận quản lý đối tượng nộp thuế để có điều kiện
nâng cao trình độ chuyên môn hoá, áp dụng công nghệ tin học để nâng cao hiệu
quả quản lý thuế.
+ Các chức năng quan trọng như Tuyên truyền, Hỗ trợ đối tượng nộp thuế;
Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế; ứng dụng tin học được tăng cường
hơn.
+ Nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận thuộc cơ cấu cơ quan thuế các cấp đều
được quy định đầy đủ, rõ ràng.
* Chương trình cải cách và hiện đại hệ thống thuế theo Quyết định số
201/2004/QĐ-TTg
Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu
hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với
9
hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập
quốc dân, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Mục tiêu, yêu cầu cụ thể:
+ Chính sách thuế, phí và lệ phí (sau đây gọi chung là chính sách thuế)
phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, động
viên được các nguồn lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất; khuyến khích xuất
khẩu, đầu tư, đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền
kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân
dân.
+ Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà
nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần
cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo
tỷ lệ động viên về thuế vào ngân sách nhà nước bình quân hàng năm đạt từ 20% 21% GDP.
+ Chính sách thuế phải thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp
với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm được yêu cầu về bảo
hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh
của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
+ Chính sách thuế phải tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. áp
dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng
như giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
+ Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công
khai; tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế.
+ Hệ thống thể chế chính sách thuế phải quy định rõ nghĩa vụ trách nhiệm,
quyền lợi của các cơ sở kinh doanh trong việc thực hiện các quy định về thuế;
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế; Trách nhiệm của các tổ chức,
cá nhân liên quan.
+ Nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý
thuế; khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế
trong sạch, vững mạnh.
Nội dung cải cách hệ thống thể chế chính sách thuế:
- Nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế:
+ Ban hành mới các sắc thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế
chống phân biệt đối xử; thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất.
Việc ban hành và thực hiện các sắc thuế mới trên đây phải chú ý đến đối
tượng, mức độ và thời điểm áp dụng cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước, đảm bảo ổn định sản xuất, thị trường và đời sống nhân dân.
10
+ Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế hiện hành; tăng dần tỷ trọng các
nguồn thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở
rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng số thu về thuế.
Đến năm 2010: Hệ thống thuế của nước ta bao gồm các sắc thuế sau:
- Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử,
- Thuế bảo vệ môi trường,
- Thuế tài sản,
- Thuế sử dụng đất,
- Thuế giá trị gia tăng,
- Thuế tiêu thụ đặc biệt,
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
- Thuế thu nhập doanh nghiệp,
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được sửa đổi thành thuế thu
nhập cá nhân,
- Thuế tài nguyên,
- Phí, lệ phí.
- Ban hành luật quản lý thuế nhằm xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm,
quyền lợi của đối tượng nộp thuế; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
thuế và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin cho cơ
quan thuế và phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế để quản lý thu thuế đạt hiệu quả
cao.
2. Những kết quả đạt được:
* Sau 20 năm cải cách thuế ( 1986 - 2005):
Thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết đại hội lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt nam, dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Quốc hội, sự điều
hành sát sao của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng, các
ngành, các cấp và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, công cuộc cải cách hệ
thống thuế ở nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, đó là:
1) Hình thành một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các
nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế và từng bước thích
ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa. Hệ thống chính sách thuế gồm: 9 sắc thuế cơ bản (thuế giá trị gia tăng;
thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế thu nhập doanh
nghiệp; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế sử dụng đất nông
nghiệp; thuế tài nguyên; thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất). Ngoài ra,
còn một số loại thu dưới hình thức phí và lệ phí.
2) Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển,
11
khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động,
góp phần xoá đói giảm nghèo.
- Góp phần đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm(từ 1996 đến
2005) tăng hơn gấp đôi (2,07 lần).
- Thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp
từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%,
dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%.
- Thúc đẩy xuất khẩu, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng
qua các năm: bình quân hàng năm trên 21% gấp gần 3 lần mức tăng trưởng GDP,
sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên 40% năm 2000.
Nhờ xuất khẩu tăng, về cơ bản đã bảo đảm được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu
thiết bị, vật tư, nguyên nhiên vật liệu, hàng hoá cần thiết cho nhu cầu phát triển
sản xuất và đời sống nhân dân.
3) Hệ thống chính sách thuế được ban hành dưới hình thức luật, pháp lệnh
tạo cơ sở pháp lý cao để động viên một phần thu nhập của doanh nghiệp, dân cư
vào Ngân sách Nhà nước làm cho dự toán thu ngân sách Nhà nước luôn đạt và
vượt mục tiêu đề ra. Nhờ đó đã bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên, dành một
phần tăng chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, góp phần kiềm chế lạm phát ở mức độ
cho phép.
Tổng thu thuế và phí luôn hoàn thành vượt mức dự toán thu hàng năm được Quốc
hội thông qua và có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm: Năm 2000 tăng 13,7 lần
so với năm 1990. Số thu về thuế và phí trong tổng thu Ngân sách Nhà nước năm
1990 chỉ chiếm 76,78%, đến năm 2003 đã chiếm 92,9%. Tỷ lệ động viên qua
thuế và phí/GDP đã đạt và vượt mục tiêu đề ra: năm 1991 đạt 13,1%GDP, đến
năm 2000 đạt 19,7%GDP và đến năm 2003 đạt 21,8% GDP.
4) Hệ thống chính sách thuế đã xoá bỏ sự chênh lệch về nghĩa vụ thuế
giữa các thành phần kinh tế trong nước; thu hẹp chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa
doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế thị trường.
5) Trong hợp tác quốc tế về thuế đã đạt được các thành tựu chủ yếu là:
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế đã mở rộng hiểu biết, tích luỹ kinh
nghiệm... ứng dụng chính sách thuế tiên tiến và quản lý thuế hiện đại của quốc tế
vào hệ thống thuế Việt Nam. Qua đó, hệ thống chính sách thuế Việt Nam từng
bước được hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu của hội nhập.
- Vừa bảo hộ được sản xuất trong nước, vừa chủ động thực hiện chính sách
mở cửa để thu hút đầu tư, tự do hoá thương mại, thực hiện lộ trình cam kết về
thuế với các nước ASEAN, EU, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác.
- Đã đàm phán và ký Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với 42 nước, tạo cơ
sở pháp lý để các nhà đầu tư nước ngoài, người nước ngoài đến Việt Nam kinh
doanh sinh sống không bị đánh thuế trùng lắp, thực sự được hưởng chính sách ưu
12
đãi thuế của Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi khuyến khích đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam; thu hút các nhà nghiên cứu, các giáo sư, các chuyên gia nước
ngoài đầu tư chất sám vào Việt Nam.
6) Hệ thống chính sách thuế từng bước tiến tới đơn giản, rõ ràng, tạo điều
kiện giảm chi phí hành chính thuế cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế.
7) Tăng cường quản lý hạch toán kinh doanh trong từng doanh nghiệp,
thúc đẩy việc tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp.
8) Đội ngũ cán bộ thuế được tăng cường và đào tạo bồi dưỡng, nâng cao
kể cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức nghề
nghiệp ( năm 1990 cán bộ có trình độ từ trung cấp trở lên chỉ chiếm 36% nhưng
đến năm 2004 đã lên tới 94,1%; cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm
tỷ lệ từ 10, 5% năm 1990 lên đến 34,2% năm 2004).
Qua hai cuộc cải cách thuế, chúng ta đã hình thành được một hệ thống chính
sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu của đất nước và luôn được sửa
đổi, bổ sung hoàn thiện kịp thời phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, đã trở thành công cụ của Đảng và Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế theo hướng khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Hệ thống quản lý thuế đã xây dựng và không ngừng được kiện
toàn, đảm bảo thực thi tốt và thống nhất các luật thuế trong cả nước. Hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy quản lý thuế ngày càng được nâng cao.
Nhờ vậy, công tác thuế của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần tích cực vào việc
phát triển kinh tế, xã hội. Đất nước ta đã thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế
kéo dài, lấy lại đà tăng trưởng cao trong hơn một thập kỷ qua. Số thu từ thuế và
phí đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước năm sau cao hơn
năm trước, nhất là các năm gần đây và đã góp phần bảo đảm công bằng xã hội,
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị
trường.
* Sau 2 năm thực hiện chương trình cải cách và hiện đại hệ thống thuế theo
Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg(2005-2007):
Đổi mới thể chế chính sách
Thời gian qua, ngành thuế đã nghiên cứu xây dựng và hoàn thành lộ trình sửa
đổi, bổ sung các Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB, Luật Thuế TNDN, đồng
thời ban hàn Luật Thuế TNCN thay cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao. Đặc biệt lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật Quản lý thuế (có hiệu
lực từ ngày 1/7/2007) quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp luật
của cả người nộp thuế và các tổ chức có liên quan nhằm tăng cường hiệu lực và
hiệu quả công tác quản lý thuế. Nội dung sửa đổi, bổ sung các luật thuế đã thực
hiện đúng theo định hướng của Đảng và Nhà nước, giảm bớt mức đóng góp, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, tăng tích luỹ vốn, nâng cao
năng lực cạnh tranh; khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu; thực hiện bảo
hộ có điều kiện và có chọn lọc đối với một số ngành sản xuất hàng hoá, dịch vụ
13
cần khuyến khích phát triển; phù hợp với cam kết quốc tế để hội nhập ngày càng
rộng, càng sâu với khu vực và quốc tế; thống nhất về nghĩa vụ thuế giữa nhà đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng. Theo đó, về thuế GTGT đã bỏ mức thuế suất 20%; mở rộng diện áp dụng
thuế suất 0%; hạ mức thuế TNDN từ 32% xuống 28%, bỏ thuế TNDN bổ sung
đối với doanh nghiệp trong nước, bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với
nhà đầu tư nước ngoài; giảm mức thuế suất ưu đãi từ 25%, 20%, 15% xuống còn
20%, 15%, 10%; mở rộng diện ưu đãi thuế cho cả đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài; bổ sung nhiều khoản chi phí được tính khi tính thuế TNDN; nâng
mức khấu hao bằng hai lần, lãi tiền vay bên ngoài bằng 1,2 lần so với lãi tiền vay
của tổ chức tín dụng; chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại được nâng từ 5%,
7% lên 10%; Thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình thực hiện
AFTA/CEPT và các cam kết quốc tế; bãi bỏ trên 300 loại phí, lệ phí, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí đầu vào và tránh được nhiều thủ tục hành
chính phiền hà.
Chuyển đổi phương thức quản lý truyền thống sang cơ chế tự khai, tự nộp thuế
(TKTN)
Sau thời gian 2 năm thí điểm thực hiện cơ chế Tự khai - Tự nộp thuế theo
Quyết định 197/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cùng với việc ban hành
Luật Quản lý thuế, từ 1/7/2007, ngành thuế đã thực hiện quản lý thuế theo
nguyên tắc người nộp thuế tự tính, tự kê khai và tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nghĩa vụ thuế. Theo đó, người nộp thuế hoàn toàn có quyền tự chủ trong việc kê
khai, nộp thuế, tự xác định ưu đãi thuế, tự nộp thuế theo số kê khai... Cơ quan
thuế tập trung vào nhiệm vụ hỗ trợ người nộp thuế hiểu biết về chính sách thuế,
đồng thời công khai hóa các thủ tục hành chính giúp người nộp thuế hoàn thành
nghĩa vụ và quyền lợi của mình trước nhà nước. Tổ chức bộ máy quản lý thuế
cũng được sắp xếp lại theo mô hình chức năng để đảm bảo tính chuyên môn hóa
và chuyên nghiệp hóa, nhằm nâng cao năng lực và tinh thần trách nhiệm phục vụ
người nộp thuế.
Thủ tục hành chính thuế được cải cách theo hướng ngày càng đơn giản
Tất cả các thủ tục hành chính thuế như: đăng ký thuế, bán hoá đơn, kê khai
thuế, nộp thuế, xử lý miễn giảm thuế, hoàn thuế, thanh tra, kiểm tra xử lý các vi
phạm về thuế, giải quyết khiếu nại, tố cáo... đều đã được sửa đổi theo hướng xoá
bỏ các thủ tục gây phiền hà, tốn kém, không cần thiết, tạo thuận lợi hơn cho
người dân và doanh nghiệp. Theo đó, đã giảm thời gian cấp mã số thuế từ 30
ngày xuống còn 5 - 8 ngày; Thủ tục mua hoá đơn giảm bớt 3 loại giấy tờ khi mua
hoá đơn lần đầu, giải quyết cấp hoá đơn ngay trong ngày đối với doanh nghiệp
đang kinh doanh mua hoá đơn lần sau, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng
hoá đơn tự in; Thay đổi mẫu tờ khai, bỏ những nội dung không cần thiết, cung
cấp sách và phần mềm hỗ trợ khai miễn phí, ứng dụng công nghệ mã vạch hai
chiều vào kê khai thuế; Bỏ thông báo nộp thuế; Bỏ quy định về thủ tục miễn thuế,
giảm thuế; Về thủ tục hoàn thuế, doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế thì
được hoàn trước, kiểm tra sau, xoá bỏ một số giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ
14
hoàn thuế; Thanh tra thuế dựa trên cơ sở thu thập và phân tích thông tin (quản lý
theo rủi ro), tránh việc kiểm tra, thanh tra tràn lan.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế.
Mục tiêu là giúp cho mọi tổ chức, cá nhân nắm được các chính sách thuế, nâng
cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Lên án và có biện
pháp đấu tranh, ngăn chặn các trường hợp vi phạm về thuế, đặc biệt là vi phạm về
hoá đơn, chứng từ, gian lận trong hoàn thuế GTGT. Ngành thuế phối hợp với Ban
Tuyên giáo từ TW đến địa phương định hướng kế hoạch, nội dung tuyên truyền,
giáo dục pháp luật thuế trong toàn xã hội. Một số nơi còn xây dựng quy chế phối
hợp tuyên tuyền, phổ biến pháp luật thuế giữa Cục Thuế - Ban Tuyên giáo - Uỷ
Ban mặt trận tổ quốc - Hội nông dân - Hội liên hiệp phụ nữ - Đoàn thanh niên Liên đoàn lao động,... phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí liên tục
chuyển tải chính sách thuế, giải đáp vướng mắc, phản ánh thông tin hai chiều,
nhằm hoàn thiện chính sách thuế. Đã mở chuyên mục thuế trên 11 báo, tạp chí và
Đài tiếng nói VN; từ 10/6/2007 chuyên mục “Thuế và cuộc sống” phát sóng định
kỳ 1 tuần/2 lần trên đài Truyền hình Việt Nam được độc giả đánh giá cao. Tính
đến năm 2007 ngành thuế đã cung cấp được 5.187.620 ấn phẩm tuyên truyền về
thuế dưới dạng tờ rơi, tờ gấp, sách hướng dẫn, hỏi - đáp. Đội ngũ cán bộ làm
công tác tuyên truyền về thuế đã được củng cố với mạng lưới ở 64 tỉnh, thành
phố với khoảng 3000 cán bộ chuyên trách, kịp thời phục vụ những người nộp
thuế.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế:
Tính đến hết năm 2007, 100% cán bộ thuộc cơ quan Cục Thuế được trang bị
mỗi người một máy tính, tại các Chi cục Thuế tỷ lệ này đạt 80%; Đã xây dựng và
nâng cấp được 50 chương trình ứng dụng trong các khâu quản lý thuế và quản lý
nội bộ cơ quan thuế. Các phần mềm này được triển khai thống nhất trên phạm vi
toàn quốc tại cả 3 cấp của cơ quan thuế. Đến nay, tỷ lệ ứng dụng tin học đạt
khoảng 60% các công việc quản lý thuế. Nhờ vậy, đã rút ngắn và nâng cao chất
lượng, thời gian cung cấp các dịch vụ cho người nộp thuế. Xử lý công việc của
cơ quan thuế đảm bảo nhanh chóng, chính xác, kịp thời hơn; Giảm áp lực tăng
biên chế do các tổ chức, cá nhân nộp thuế tăng nhanh chóng.
Kiện toàn về tổ chức bộ máy và tăng cường giáo dục cán bộ:
Thực hiện sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo mô hình quản lý chức năng, số lượng
các khâu quản lý thuế giảm được 2.756 đầu mối không cần thiết. Thực hiện luân
phiên, luân chuyển công việc một cách hợp lý để bồi dưỡng nâng cao năng lực
cán bộ, nhất là năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của cán bộ lãnh đạo cơ quan
thuế các cấp được 16.371 cán bộ, trong đó có 4.817 là cán bộ lãnh đạo từ cấp Đội
thuế trở lên; đã bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 7.490 lượt cán bộ. Một số cán bộ lãnh
đạo do năng lực, sức khoẻ không đảm bảo đã được các cấp có thẩm quyền cho
thôi giữ chức vụ lãnh đạo. Song hành với việc bố trí sắp xếp lại đội ngũ cán bộ,
thời gian qua, trọng tâm là năm 2007, toàn ngành thuế đã có gần 40.000 lượt
người (chiếm trên 90% biên chế) được đào tạo và đào tạo lại theo hướng chuyên
sâu, đảm bảo có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ trong tình hình mới.
15
3. Hạn chế về công tác quản lý thuế:
Một là, về cơ chế quản lý thuế.
- Nhìn chung cơ chế quản lý thuế hiện hành chưa được xây dựng trên cơ sở đề
cao tính chủ động, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải tự tính- tự
khai, tự nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Điều này biểu hiện:
+ Một thời gian dài chưa coi trọng việc tuyên truyền giáo dục, cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ chất lượng cao để nâng cao sự hiểu biết, tự giác tuân thủ pháp luật
của đối tượng nộp thuế.
+ Làm thay các chức năng thuộc trách nhiệm của người nộp thuế như: tính
toán xác định mức thuế để ra thông báo thuế, xác định mức miễn, giảm thuế...
Điều này dẫn đến hậu quả là:
+ Giảm nhẹ nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế.
+ Nhiều vi phạm về thuế là do thiếu hiểu biết gây ra, dẫn đến gánh nặng phải
tăng cường công tác quản lý thuế để khắc phục các sai phạm.
+ Lãng phí nguồn nhân lực, tài chính cho cơ quan thuế, cơ quan thuế không
đủ nhân lực và tài chính để thực hiện các chức năng chủ yếu của mình như: tăng
cung các hoạt động hỗ trợ, tăng cường thanh tra, kiểm tra.
- Nghĩa vụ trách nhiệm pháp luật và quyền lợi của đối tượng nộp thuế, cơ
quan thuế và tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được quy định
đầy đủ và thiếu nhất quán giữa các sắc thuế. Do đó chưa có đủ cơ sở pháp lý để
tổ chức quản lý thuế có hiệu quả.
- Một số quy định còn rườm rà, phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch gây khó
khăn, tốn kém chi phí cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, dễ phát sinh tiêu
cực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
- Chưa phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế tiên tiến trên khu vực và thế
giới.
Hai là, về công nghệ quản lý thuế
- Việc quản lý thuế chưa dựa trên cơ sở thu thập thông tin, phân tích đánh giá
theo các tiêu thức quản lý để phân loại, lựa chọn phương thức theo mức độ rủi ro
phù hợp với đặc điểm, trình độ của từng loại đối tượng nộp thuế.
- Quy trình, quy phạm và các biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế chưa thật hợp
lý, và chưa thật coi trọng hiệu quả thực thi pháp luật thuế cho cả người nộp thuế
và cơ quan thuế.
- Nhiều khâu quản lý thuế chủ yếu vẫn là thủ công; ứng dụng công nghệ
thông tin còn ở mức thấp, nhất là các khâu: thu thập thông tin liên quan đến đối
tượng nộp thuế; tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế; quản lý nợ thuế; thanh
tra xử lý các vi phạm về thuế, dẫn đến chất lượng cung cấp dịch vụ và năng suất,
hiệu quả quản lý thuế của cơ quan thuế còn thấp.
16
- Chưa đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc
cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế.
- Công tác tuyên truyền và dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế chưa được thực
sự quan tâm và đầu tư đúng mức, do vậy tính tuân thủ, tự nguyện của đối tượng
nộp thuế cũng như sự hiểu biết của xã hội đối với các chính sách thuế, các thủ tục
hành chính thuế còn rất thấp.
- Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan
thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta là trình
độ dân trí thấp, nhận thức trách nhiệm pháp luật chưa cao; chưa dựa trên thu thập
thông tin và đánh giá, phân tích, phân loại mức độ rủi ro về thuế của đối tượng
nộp thuế để thanh tra đúng đối tượng, chưa ứng dụng tốt các chương trình tin học
vào việc thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về thuế.
Ba là, về tổ chức bộ máy quản lý thuế
- Cơ quan thuế chưa được giao chức năng điều tra, khởi tố các vụ vi phạm về
thuế, chức năng cưỡng chế thu nợ chưa được quy định rõ nên việc xác định và xử
lý kịp thời các gian lận lớn về thuế và xử lý nợ đọng gặp nhiều khó khăn.
- Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong cơ quan thuế tuy đã được kiện
toàn một bước theo Quyết định số 218/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
nhưng thực trạng vẫn còn chồng chéo, chưa thật chuyên sâu, chuyên nghiệp để
nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế theo yêu cầu mới- hiện đại hoá.
- Bộ máy chỉ đạo của cơ quan Tổng cục Thuế; của bộ phận truyên truyền, hỗ
trợ đối tượng nộp thuế; xử lý thông tin thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về thuế;
quản lý nợ và cưỡng chế thuế thì còn quá nhỏ so với yêu cầu quản lý thuế.
Bốn là, về đội ngũ cán bộ thuế
- Đại bộ phận cán bộ thuế chưa có kỹ năng, chuyên sâu, chuyên nghiệp, khả
năng ứng dụng các tiến bộ công nghệ tin học vào quản lý thuế chưa phù hợp với
yêu cầu quản lý hiện đại và yêu cầu cải cách hành chính thuế, thậm chí một bộ
phận cán bộ quản lý thuế chưa nắm vững và thực hiện tốt các chính sách thuế và
quy trình biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế hiện hành.
- Thái độ và phong cách ứng xử của một bộ phận cán bộ thuế chưa thật tận
tuỵ, công tâm, khách quan, văn minh, lịch sự, chưa coi đối tượng nộp thuế là
khách hàng quan trọng nhất để nâng cao chất lượng phục vụ, chưa trở thành
người bạn đồng hành của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các luật thuế và
chưa thực sự được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin yêu, thậm chí còn có biểu
hiện thiếu tinh thần trách nhiệm, vụ lợi, thông đồng với đối tượng nộp thuế hoặc
gây phiền hà, sách nhiễu các đối tượng nộp thuế, vừa làm thất thu cho ngân sách
nhà nước, vừa gây tốn kém và bức xúc cho một số đối tượng nộp thuế.
Năm là, về cơ sở vật chất và trang thiết bị: trụ sở làm việc, trang thiết bị và
phương tiện làm việc của ngành vừa thiếu, vừa lạc hậu và không đồng bộ, ít
nhiều có ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý thuế.
Sáu là, về môi trường quản lý
17
- Môi trường kinh tế xã hội chưa được cải cách đồng bộ, tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác quản lý thuế như quản lý đăng ký kinh doanh, quản lý đất đai,
quản lý xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý thanh toán bằng tiền
mặt...
- Nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa hiểu rõ bản
chất tốt đẹp và lợi ích của công tác thuế, chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các
hành vi gian lận tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế để thu thuế. Tình
trạng trốn thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm thất thu
cho Ngân sách nhà nước, vừa không đảm bảo công bằng xã hội.
Các tồn tại, hạn chế nêu trên đã được đánh giá trong Chiến lược cải cách
hệ thống thuế đến năm 2010, đã được Bộ Chính trị nhấn mạnh tại Thông báo số
147 TB/TW ngày 16/7/2004.
Những tồn tại và hạn chế đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục cải cách hệ
thống thuế thì mới thực hiện thắng lợi Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm
2010 theo Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 6/12/2004 của Thủ tướng
Chính phủ.
III. Giải pháp:
Xiết chặt kỷ cương hành chính, nghiên cứu áp dụng ISO trong các khâu quản
lý. Muốn đẩy nhanh tốc độ cải cách hành chính thuế cần khẩn trương “điện tử
hóa” hoạt động quản lý thuế, trước mắt xây dựng phần mềm cho phép doanh
nghiệp kê khai thuế qua mạng để tiết giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công tác hỗ trợ người nộp thuế,
đặc biệt hỗ trợ về kiến thức nghiệp vụ thuế và nghiệp vụ kế toán cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp mới thành lập. Đối với cán bộ công chức
thuế sẽ tiếp tục tổ chức tốt việc đào tạo và đào tạo lại các kỹ năng quản lý thuế
mới, trong đó tập trung vào đội ngũ cán bộ thuế cấp Chi cục Thuế.
Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác quản lý thu hồi nợ, xử lý dứt điểm những tồn
tại do cơ chế, chính sách cũ để lại, giảm thiểu nợ chây ỳ, đặc biệt tập trung thanh
tra các đơn vị lớn, có rủi ro cao về thuế, cơ quan thuế các cấp phái nhanh chóng
triển khai xây dựng kho dữ liệu thông tin về người nộp thuế, thông tin về quản lý
thu thuế và thông tin liên quan từ các ngành khác để cung cấp nhanh chóng, kịp
thời, chính xác, phục vụ công tác nghiệp vụ, quản lý, chỉ đạo điều hành của các
cấp.
Ngành thuế cũng sẽ tăng cường phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa
phương trong quá trình triển khai thi hành Luật Quản lý thuế; đồng thời tiếp tục
hoàn thiện và ban hành các Thông tư liên tịch về cung cấp và trao đổi thông tin
giữa Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan, xem đây là các quy định pháp quy
cụ thể về trách nhiệm của từng cơ quan nhằm mục đích đưa công tác quản lý thuế
đi vào nề nếp, đúng theo yêu cầu của Luật.
KẾT LUẬN
18
Qua hai cuộc cải cách thuế, nước ta đã hình thành một hệ thống chính sách
thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành
phần kinh tế và từng bước thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ
chế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Thuế đã và đang trở thành công cụ
của Đảng và Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo hướng khuyến khích đầu
tư, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản
xuất kinh doah và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ vậy số thu từ thuế và
phí đã trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước năm sau cao hơn năm
trước nhất là những năm gần đây đã góp phần bảo đảm công bằng xã hội, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
và hội nhập kinh tế quốc tế thì công tác quản lý thuế của nước ta hiện nay vẫn
còn nhiều tồn tại và hạn chế.
Chính vì vậy, Nhà nước cần có những giải pháp để xây dựng, hoàn thiện hệ
thống chính sách thuế tương thích, công tác quản lý thuế phải được cải cách và
hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế để một mặt bảo đảm nguồn
thu cho nhà nước, mặt khác động viên được sự đóng góp của toàn dân trong việc
tạo ra một nguồn lực tài chính đủ mạnh để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
Trên đây là những tìm hiểu của em về thực trạng công tác quản lý thuế ở Việt
Nam thời gian qua. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng bài viết của em không tránh
khỏi những thiếu sót kính mong cô cho em những ý kiến đóng góp để chuyên đề
của em hoàn thiện hơn.
19
20
- Xem thêm -