ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỀ TÀI:
NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VÀ
VẤN ĐỀ ÁP DỤNG ÁN TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM
Môn :Luật Hình Sự ( phần Chung )
Người hướng dẫn : Th.s Chu Thị Trang Vân
Người thực hiện
: Giang Văn Quyết
K51 b
Khoa luật
1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
dẫn dắt và giúp đỡ của cô giáo,Chu Thị Trang Vân, giảng viên bộ môn
luật Hình sự.Những tài liệu tham khảo sử dụng trong bài viết đều được
trích dẫn rõ ràng cụ thể.
Người thực hiện đề tài
G.V.Q
Giang văn Quyết
2
Mục Lục
Phần mở đầu .....................................................................................................
...........................................................................................................................
.........................................................................................................................5
1.Lý do chọn đề tài............................................................................................
...........................................................................................................................
5
2.Tình hình nghiên cứu ....................................................................................
.........................................................................................................................6
3.Nhiệm vụ mục đích của đề tài nghiên cứu.....................................................
.........................................................................................................................6
4.Đóng góp của đề tài........................................................................................
.........................................................................................................................7
5.Phương pháp nghiên cứu................................................................................
.........................................................................................................................7
6.Phạm vi của đề tài..........................................................................................
.........................................................................................................................7
7.Kết cấu của báo cáo khoa học........................................................................
.........................................................................................................................7
Chương I: Cơ Sở Lý Luận.................................................................................
.........................................................................................................................8
I- Một số khái niệm liên quan...........................................................................
.........................................................................................................................8
1.Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự là gì?...............................................
.........................................................................................................................8
2.Hình phạt tử hình là gì? .................................................................................
.........................................................................................................................8
3.Tại sao lại áp dụng hình phạt tử hình.............................................................
.........................................................................................................................9
II- Mối tương quan giữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và
vấn đề áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam..............................................
.........................................................................................................................9
Chương II: Nguyên Tắc Nhân Đạo Trong Luật Hình Sự Và
Vấn Đề Áp Dụng Án Tử Hình Ở Việt Nam....................................
.......................................................................................................................10
I-Đặc điểm, mục đích của nguyên tắc nhân đạo và
3
hình phạt tử hình trong luật hình sự..............................................................
.......................................................................................................................10
1.Đặc điểm của nguyên tắc nhân đạo................................................................
.......................................................................................................................10
2.Đặc điểm của hình phạt tử hình......................................................................
.......................................................................................................................11
3.Mục đích của nguyên tắc nhân đạo và áp dụng
hình phạt tử hình trong luật hình sự...............................................................
.......................................................................................................................12
II- Vài nét về hướng phát triển và thực trạng áp
dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay...............................................
.......................................................................................................................13
1.Xu hướng phát triển của hình phạt tử hình.....................................................
.......................................................................................................................14
2.Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở Việt
Nam hiện nay................................................................................................
.......................................................................................................................15
3.Nguyên nhân và yêu cầu thiết thực cho vấn đề hạn
chế việc áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam.............................................
.......................................................................................................................16
III- Phương pháp thay đổi việc áp dụng hình
phạt tử hình trong luật hình sự....................................................................
.......................................................................................................................19
1. Vấn đề giải pháp trong thực tiễn khi hạn chế
và tiến tới xóa bỏ việc áp dụng hình phạt tử hình.........................................
.......................................................................................................................19
2.Những đề xuất sửa đổi văn bản luật và việc áp
dụng hình phạt tử hình trong những năm tới..................................................
.......................................................................................................................21
2.1Trong thời gian trước mắt.............................................................................
.......................................................................................................................21
2.2 Sau một thời gian hạn chế việc áp dụng hình
phạt tử hình chúng ta sẽ tiến tới việc loại xóa bỏ toàn
bộ hình phạt tử hình trong giai đoạn từ năm 2010-2015..............................
.......................................................................................................................21
Kết luận.............................................................................................................
.......................................................................................................................24
Danh mục tài liệu tham khảo.............................................................................
...........................................................................................................................
.......................................................................................................................25
4
Phần Mở Đầu
1.Lý do chọn đề tài.
5
Một nhà nước tiến bộ là nhà nước tồn tại trên cơ sở hướng tới việc bảo
đảm các lợi ích của con người, hạnh phúc của con người là thước đo mọi giá
trị của cuộc sống. Và tất nhiên một nhà nước dân chủ tiến bộ cũng không
nằm ngoài tiêu chí đó.
Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam thể hiện rõ bản chất Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.Ở nhà nước đó sự nghiêm minh của pháp luật
luôn được đề cao nhưng pháp luật lại vì còn người hướng đến mục đích cao
cả nhất là đem lại lợi ích và công lý cho con người vì thế pháp luật luôn
mang tính nhân đạo sâu sắc_nghiêm minh mà chí tình đạt lý.
Tuy nhiên trong luật hình sự Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại hình
phạt tử hình khiến cho rất nhiều ý kiến hoài nghi về tính toàn diện trong
nguyên tắc nhân đạo, nhiều tranh cãi và khuynh hướng khác nhau liên quan
đến vấn đề mang tính nhạy cảm này.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các
nước Châu Âu đều muốn hạn chế và tiến tới xóa bỏ án tử hình đối với mọi
tội phạm, ngoài ra làn sóng đấu tranh của tổ chức nhân đạo, dân chủ uy tín
trên thế giới đòi hỏi tất cả các quốc gia phải xóa bỏ án tử hình diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, buộc các quốc gia phải còn áp dụng hình phạt tử hình phải
thực hiện nghiêm túc và khách quan việc đánh giá hiệu quả thực sự của việc
áp dụng án tử hình.
Hơn nữa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc Việt Nam tham gia
vào các cam kết quốc tế, buộc chúng ta phải chỉnh sửa các chính sách pháp
luật sao cho phù hợp với xu thế chung của nhân loại trong đó có việc mở
rộng tự do dân chủ và cắt giảm các tội tử hình.Việt Nam đang được cả thế
giới dõi theo và quan tâm, việc cắt giảm một số án tử hình trong luật hình sự
năm 1999 cũng như lấy nguyên tắc nhân đạo làm nguyên tắc cơ bản của luật
hình sự là bước tiến mới,để thế giới có cái nhìn thiện cảm đối với chúng ta.
Năm 2008 nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày nhân quyền thế
giới(10/12/1948-10/12/2008) với mong muốn có một món quà chào đón
ngày trọng đại này, tôi hi vọng báo cáo khoa học này sẽ có một ý nghĩa thiết
thực.
Xuất phát từ những trăn trở, băn khoăn đó đã thôi thúc cá nhân tôi bắt
tay vào nghiên cứu đề tài này trên một góc nhìn và bình diện mới.Đề tài
mang tên: “nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và vấn đề áp dụng án tử
hình ở Việt Nam. ”
2.Tình hình nghiên cứu.
Trên bình diện khoa học đây là nhóm đề tài được rất nhiều người quan
tâm nghiên cứu.Nó là vấn đề phức tạp, cũ mà luôn mới. Có thể kể tới đề tài
nghiên cứu cấp Quốc gia năm 2000-58-189 “ Luận cứ và thực tiễn của việc
6
đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam”( cơ quan chủ trì Bộ
Tư pháp);hay đề tài khoa học cấp Bộ năm 2003 “ Một số vấn đề về hình phạt
tử hình và thi hành án phạt tử hình- thực trạng và giải pháp”(cơ quan chủ trì
của Bộ Tư pháp). Cũng có thể kể tới luận văn Thạc sĩ ,Trần Thu Huyền “
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong bộ luật hình sự
Việt Nam” Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006.hoặc luận văn Thạc sĩ luật
học, Trần Quang Huy “ vấn đề áp dụng hình phạt tử hình trong các tội phạm
có tính chất kinh tế.” Hà nội ,năm 2007…cùng nhiều bài báo và tạp chí khác
viết về vấn đề này.
Các đề tài nghiên cứu trên thường tập trung vào việc phân tích nguyên
nhân,điều kiện thực trạng và đưa ra đề xuất trong vấn đề áp dụng hình phạt
tử hình đối với các tội phạm nói chung.
Điều đặc biệt là hầu hết các nhà nghiên cứu khoa học đều cho rằng
muốn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, muốn giữ vững công lý
phải duy trì hình phạt tử hình.Việc tồn tại hình phạt tử hình là cần thiết
nhằm trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Nhưng cá nhân tôi có cách nghĩ khác, cái nhìn khác.
Riêng tôi ở một cách tiếp cận khác trong báo cáo này sẽ có cái nhìn nhận
tổng quan về áp dụng hình phạt tử hình thông qua việc đối chiếu đan xen so
sánh nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và vấn đề áp dụng án tử hình ở
Việt Nam.
Từ đó tác giả sẽ đưa ra cách nhìn nhận khoa học về việc có nên tồn tại án tử
hình trong xu thế hiện đại, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.
3.Nhiệm vụ và mục đích của đề tài nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này tác giả có nhiệm vụ nêu bật được
quan điểm của Đảng nhà nước ta về nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự
cũng như vấn đề áp dụng án tử hình,mối quan hệ giữa chúng.Đặc điểm của
án tử hình cũng như xu thế áp dụng án tử hình trên thế giới từ đó đưa ra
những nhận xét đánh giá khách quan nhất cho vấn đề có hay không tồn tại
án tử hình ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế.
Thực hiện nhiệm vụ đó đề tài nhằm mục đích hướng mọi ngưới tới một cái
nhìn nhân văn hơn về việc cụ thể nguyên tắc nhận đạo trong luật hình sự
bằng việc hạn chế tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình.
4.Đóng góp của đề tài.
Báo cáo khoa học này sẽ góp phần cùng nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết
về án tử hình về quyền con người có thêm những lý luận để bảo vệ cho quan
điểm của mình.Nó sẽ là tài liệu nghiên cứu hữu ích cho các nhà làm luật và
không mong gì hơn trong thời gian tới những đề xuất của tác giả sẽ trở thành
7
hiện thực trong cuộc sống, góp phần hoàn thiện luật hình sự nói riêng và
pháp luật Việt Nam nói chung.
5.Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này sử dụng và khai thác triệt để phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin,tư tưởng Hồ
CHí Minh.Đề tài có sự đan xen của cách phương pháp nghiên cứu cụ thể
khác nhất là phương pháp phân tích, so sánh và bình luận nhằm giải quyết
các vấn đề mà báo cáo đã đặt ra.
6.Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu xoay quanh vấn đề án tử hình ở Việt
Nam,trên cơ sở so sánh với nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự.Do tính
chất của vấn đề rất rộng và phức tạp nên đề tài sẽ không đi sâu nghiên cứu
về lịch sử hình thành hình phạt tử hình cũng như các giai đoanh phát triển
của nó.Mà chỉ đi sâu về mặt lý nhằm đưa ra kiến giải cho vấn đề có nên tồn
tại hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam khi mà ta đang tiến lên xây
dựng mô hình xã hội chủ nghĩa hiện đại.
7.Kết cấu của báo cáo khoa học.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài
gồm có hai chương chính:
Chương I :CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Chương II: NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT HÌNH SỰ VÀ
VẤN ĐỀ ÁP DỤNG ÁN TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
I-Một số khái niệm có liên quan.
I- Khái niệmNguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam.
Nguyên tắc nhân đạo là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ
nghĩa nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng.Trong luật hình sự nguyên
tắc này thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng pháp luật vì con người :
8
“ con người là trung tâm của mọi đường lối chính sách và pháp luật.Nó
không chỉ là phương tiện bảo đảm tính mạng, sức khỏe của con người mà
còn tạo ra mọi điều kiện để mỗi người tự mình xây dựng một cuộc sống
hạnh phúc.Khi quy định trách nhiệm pháp lý, pháp luật không có mục đích
gây đau đớn về mặt thể xác hoặc hạ thấp nhân phẩm danh dự của cá nhân
mà mong muốn giáo dục con người trở về vơi cuộc sống lương thiện,phương
pháp tác động cảu pháp luật lên đời sống xã hội là lấy giáo dục thuyết phục
là chủ yếu.”- lý luận chung về nhà nước và pháp luật-NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội-2001.
Nguyên tắc nhân đạo thể hiện bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân của Nhà nước Việt Nam.Thể hiện tư tưởng vì con người
của định hướng đi lên nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc này là sự thể chế hóa điều 71 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam: “công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo vệ tính mạng sức khỏe danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu như không có quyết định của tòa án nhân dân,quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang.Việc bắt và giam giữ phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của công dân”.
Như vậy nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc quan trọng của pháp luật
hình sự nhằm đảm bảo tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối thiểu của con
người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
2.Hình phạt tử hình là gì?
Hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt
của pháp luật hình sự Việt Nam, được áp dụng đối với những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, hậu quả pháp lý của nó là tước đoạt quyền được sống của
con người và loại trừ họ ra khỏi cộng đồng xã hội vĩnh viễn.
Theo điều 35 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1999 thì tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng với người phạm tội
nghiêm trọng.Đây là loại tôi đã gây ra những hậu quả to lớn cho các quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ, và gây ảnh hưởng xấu nhiều mặt đến tình
hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
3.Tại sao lại áp dụng hình phạt tử hình ?
Ở nước ta hiện nay vẫn còn 28 cấu thành tội phạm có thể chịu mức án
cao nhất là tử hình.Theo các nhà làm luật việc Bộ Luật Hình sự vẫn tồn tại
hình phạt tử hình nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
đang diễn ra quyết liệt trên mọi lĩnh vực trong hoàn cảnh phức tạp của đất
9
nước. Như vậy, hình phạt tử hình được áp dụng khi người phạm tội không
thể cải tạo sửa chữa và phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng mà mọi hình
phạt,ngoại trừ hình phạt tử hình đều không đủ khả năng bảo đảm công lý,lập
lại công bằng cho xã hội.Công lý đòi hỏi mọi chủ thể phải chịu tách nhiệm
trước pháp luật về hành vi của mình.Trong lĩnh vực hình sự thì yêu cầu này
được biểu hiện thông qua nguyên tắc hình phạt tương xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của tội phạm. “Loại bỏ hình phạt tử hình trong giai đoạn
này thì trong nhiều trường hợp, công lý khó đảm bảo,công bằng xã hội khó
được khôi phục.”-ý kiến của PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng.
Nhưng đó là lý do của cách đây nửa thập niên, còn hiện nay trong giai
đoạn Việt Nam từng bước khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế,
khi mà chúng ta hòa nhập vào sân chơi chung của nhân loại, lý thuyết xây
dựng chủ nghĩa xã hội đang được vận hành, kéo theo đó là xu hướng phát
triển tuyệt đối quyền con người thì sự xậm phạm tình mạng người khác dù
bằng hình thức nào phải chăng đều không còn hợp lý?
Cho nên việc cắt giảm dần và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật
hình sự Việt Nam cần được xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng, để làm sao chúng
ta có một Nhà nước thật dân chủ, một nền pháp luật thật sự nhân đạo
II. Mối tương quan giữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình
sự với vấn đề áp dụng hình phạt tử hình.
Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam thấm nhuần tư
tưởng vì con người, đặt lợi ích của con người lên hàng đầu.Việc tồn tại hình
phạt tử hình trong khung hình phạt của luật hình sự nhìn chung không tại ra
mâu thuẫn.Bởi lẽ,sự hiện diện của án tử hình là do những nguyên nhân
khách quan,do điều kiện kinh tế xã hội quy định, hơn nữa pháp luật hình sự
cũng quy định nhiều hạn chế cho việc áp dụng hình phạt tử hình:
Điều 35:
“ …Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên
phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử
Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi
con dưới 36 tháng tuổi.Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển sang
tù chung thân
Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình
phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.”
10
Xét ở một khía cạnh khác do ảnh hưởng của nguyên tắc nhân đạo,cùng với
sự phát triển của xã hội loài người mà việc quy định và áp dụng hình phạt tử
hình trong pháp luật hình sự của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có
xu hướng giảm dần và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn.Như vậy,nguyên tắc nhân
đạo có tác dụng thúc đẩy quá trình tiêu giảm hóa án tử hình trong luật hình
sự.
Tuy nhiên,Việc luật hình sự Việt Nam vẫn còn tồn tại hình phạt tử hình
cho nhiều cấu thành tội phạm, kể cả tội phạm kinh tế, đã khiến cho nguyên
tắc nhân đạo không còn trọn vẹn.Thiết nghĩ để thiết thực tiến lên chủ nghĩa
xã hội với tinh thần nhất quán vì con người và đảm bảo nguyên tắc nhân đạo
pháp luật hình sự Việt Nam cần tiến tới loại trừ án tử hình.
Chương II :
NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VÀ
VẤN ĐỀ ÁP DỤNG ÁN TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM
I-Đặc điểm, mục đích của nguyên tắc nhân đạo và hình phạt tử hình
trong luật hình sự.
II- Đặc điểm của nguyên tắc nhân đạo.
Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt nam là một trong những
nguyên tắc quan trọng hàng đầu được quy định phổ biến trong hệ thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa.Về cơ bản nó có những đặc điểm sau.
a) Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự thể hiện tính ưu việt của chế
độ xã hội cũng như truyền thống nhân đạo của dân tộc ta.
Tư tưởng nhân đạo thể hiện ngay trong mục đích của hoạt động thi hành
án hình sự là nhằm thực thi công lý, bảo đảm sự công bằng cần thiết cho mọi
thành viên trong xã hội trước pháp luật, bảo vệ có hiệu quả các loại lợi ích
trong xã hội.
Nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi trước hết, hoạt động thi hành án hình sự phải
phải bảo đảm bảo vệ có hiệu quả, hài hòa các lợi ích khác nhau, tôn trọng
nhân phẩm danh dự của cá nhân
b) Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự biểu hiện cụ thể ở việc
nghiêm cấm các hành vi đày đọa, hành hạ về thân thể, các hành vi xâm
phạm nhân phẩm danh dự đối với những người chấp hành án hình sự.
Theo đó các biện pháp tư pháp và chế định pháp lý hình sự khác được áp
dụng đối với người phạm tội không nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác
11
và hạ thấp nhân phẩm con người.Nếu trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý
hình sự mà thiếu dù một trong năm đặc điểm của tội phạm- thiếu một trong
năm điều kiện của trách nhiệm hình sự thì tương ứng như vậy, hành vi ấy
không phải là tội phạm- người thực hiện hành vi ấy không phải là chủ thể
của tội phạm và do đó trách nhiệm hình sự bị loại trừ.
c)Nguyên tắc nhân đạo cũng thể hiện ở quy chế giảm, miễn hoặc tạm
đình chỉ thi hành án phạt tù.
Người có năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế, người chưa thành niên,
phụ nữ có thai hoặc đang trong thời gian nuôi con nhỏ, người già yếu hoặc
mắc bệnh hiểm nghèo thì được giảm, miễn một phần trách nhiệm hình
sự.Nhà nước cũng luôn có chính sách khoan hồng đối với những người
phạm tội ra tự thú hay có sự hối cải, chính sách ân xá ,đại xá, đặc xá cho
người đang chấp hành hình phạt.
2- Đặc điểm của hình phạt tử hình.
a)Tử hình là loại hình phạt đặc biệt, hình phạt nghiêm khắc nhất trong
hệ thống hình phạt của quốc gia.
Trong hệ thống hình phạt được quy định trong luật hình sự nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hình phạt tử hình là hình phạt cuối cùng
thể hiện sự nghiêm khắc nhất của pháp luật đối với người phạm tội.
Người bị áp dụng hình phạt tử hình cũng đồng nghĩa với việc sẽ không còn
có cơ hội tồn tại để sống, họ đã bị tước đi thứ quyền thiêng nhất – quyền
được sống.
Xét một cách chính xác hay đơn giản thì cũng không có một hình phạt
nào nghiêm khắc hơn hình phạt tử hình, sự tàn khốc và triệt tiêu khả năng
tồn tại của con người khiến cho hình phạt tử hình trở thành khung hình phạt
ít được áp dụng.Và cũng vì tính chất này mà nhiều nước trên thế giới cũng
như Việt Nam khi quy định trong luật hình sự luôn có xu hướng hạn chế áp
dụng hình phạt tử hình( Hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa
thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử…luật hình sự năm 1999 đã loại bỏ
13 cấu thành tội phạm trên tổng số 40 cấu thành tội phạm có quy định về
hình phạt tử hình mà trước luật hình sự năm 1985 đã quy định.)
b) Tử hình là hình phạt tước bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm nhưng
cũng đồng nghĩa với việc không thể khắc phuc hậu quả của người phạm
tội.
Tử hình tước đi quyền sống của người phạm tội tước đi mọi giao tiếp,
mọi mối quan hệ xã hội của người phạm tội.Người phạm tội khi bị áp dụng
hình phạt tử hình sẽ vĩnh viễn không còn tồn tại trong xã hội loài người.Vì
12
thế sẽ không bao giờ có cơ hội cho họ tiếp tục tái phạm, ăn năn hối lỗi hoặc
có thế sống mà khắc phục hậu quả nặng nề do hành vi phạm tội của mình
gây ra.
Sâu xa hơn khi một người bị kết án tử hình, nhất là người vốn có địa vi quan
trọng trong xã hội sẽ gây ra những xáo trộn trong quan hệ với cộng
đồng,quan hệ với vợ hoặc chồng, với con cái,ảnh hưởng đến tính nhân đạo
của nhà nước và tính nhân văn mềm dẻo của pháp luật.
c) Hình phạt tử hình có tính không thể thay đổi và không hàm chứa nội
dung cải tạo giáo dục người phạm tội.
Khi áp dụng hình phạt tử hình với người phạm tội cơ quan có thẩm quyền
đều lí luận rằng hành vi của người phạm tội thể hiện rõ là họ là những đối
tượng không thể cải tạo, không thể giáo dục và vì thế họ sẽ phải chết.Khi
quyền sống của họ đã bị tước đi, họ không bao giờ còn tồn tại trên đời để có
thể cải tạo giáo dục. Xuất phát từ điểm này chúng ta có thể thấy hình phạt tử
hình luôn có tính chất không thể thay đổi. Bởi nếu như những tội phạm
khác, giả sử người phạm tội đang thụ lý trong tù mà chứng minh được rằng
họ bị oan thì họ sẽ được thả tự do và có quyền yêu cầu cơ quan liên quan bồi
thường thiệt hại oan sai.Nhưng ở người bị kết án tử hình đã được áp dụng thì
dù sau đó có chứng minh được người đó chết hoàn toàn vô tội thì cũng
không làm cách nào cho họ có thể sống lại để tiếp tục cuộc sống mà họ đáng
được có.Vì thế, không thể thay đổi là một đặc tính rất cơ bản của hình phạt
tử hình.
3.Mục đích của nguyên tắc nhân đạo và áp dụng hình phạt tử hình
trong luật hình sự.
Mục đích của quy định nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự là nhằm
đảm bảo cho con người những lợi ích tối thiểu,đảm bảo quyền bất khả xâm
phạm về danh dự nhân phẩm và tính mạng.Nguyên tắc nhân đạo trong luật
hình sự là cách thể chế hóa quan điểm chính sách vì con nguời của nhà nước
Cộng hòa xã hội Việt Nam,quan điểm bao dung coi giáo dục thuyết phục
nhân cách trong con người là chủ yếu.
Trong khi đó theo điều 27 của Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì mục đích của hình phạt là: “ hình phạt không chỉ nhằm
mục đích trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích
cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội
chủ nghĩa,ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.”
Mục đích tối thượng và quan trọng nhất của hình phạt tử hình trong điều
kiện hoàn cảnh hiện nay là nhằm đạt đến sự công bằng trong xã hội dân chủ
và ngăn ngừa hành vi tương tự có thể xảy ra.Hình phạt tử hình là sự trừng trị
13
kẻ phạm tội nhằm mục đích răn đe trước hết là người phạm tội và sau đó là
các tội phạm khác.
Như vậy về mặt bản chất việc tồn tại hình phạt tử hình trong luật hình sự
Việt Nam hiện nay không tạo ra mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo nhưng
nói gì thì nói nó cũng phần nào làm giảm đi tính tích cực và toàn diện trong
chính sách nhận đạo của đảng và nhà nước ta.Nhất là trong thời gian gần đây
khi khẩu hiệu lý thuyết phải luôn đi đôi với hành động được đề cao thi việc
từng bước giảm dần án tử hình sẽ là việc làm thiết thực và đầy ý nghĩa.
(1)-(2)-(3)
Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam có ảnh
hưởng rất lớn đến xu thế thu hẹp việc áp dụng hình phạt tử hình. Hai phạm
trù khái niệm này bề ngoài có vẻ đối trọng nhau nhưng thực chất lại không
hề có sự mâu thuẫn lẫn nhau mà trái lại nguyên tắc nhận đạo luôn làm tiền
đề, định hướng chi phối đến việc áp dụng hình phạt tử hình, khiến cho việc
áp dụng nó trở nên bị hạn chế.Trong thời đại mới cần tiếp tục vận dụng
những lý luận trong nguyên tắc nhân đạo nhằm bảo vệ cho các quyền con
người trong đó có quyền sống mà có thể bị việc áp dụng hình phạt tử hình
cướp đi.Tuy nhiên về một khía cạnh nào đó việc áp dụng hình phạt tử hình
hiện nay ở Việt Nam phần nào đã làm giảm đi giá trị của nguyên tắc nhân
đạo, hạn chế tính toàn diện của một nguyên tắc tối thượng trong pháp luật.
II- Vài nét về hướng phát triển và thực trạng áp dụng hình phạt tử hình
ở Việt Nam hiện nay.
1.Xu hướng phát triển của hình phạt tử hình.
Hình phạt tử hình có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời gắn với sự ra
đời của giai cấp, Nhà nước và pháp luật.Hình phạt tử hình luôn là công cụ
hữu hiệu để giai cấp thống trị duy trì chế độ chính trị và nhà nước của mình.
Do truyền thống văn hóa khác nhau,sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội mà việc áp dụng hình phạt tử hình có sự khác nhau giữa các quốc
gia,có những quốc gia không áp dụng ( và xin thưa con số này lên tới quá
nửa các quốc gia lớn nhỏ trên thế giới.)
Mặc dù hình phạt tử hình vẫn còn được áp dụng ở nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ khác nhau, nhiều quốc gia được coi là lớn mạnh có nền văn
minh phát triển cũng còn tồn tại hình phạt tử hình như Mỹ và Nhật bản…
Tuy nhiên điều đó không nói lên được rằng các quốc gia phát triển muốn lớn
mạnh và trở thành cường quốc kinh tế thì đều phải áp dụng hình phạt tử
hình.Xu hướng quốc tế cho thấy bản đồ hình phạt tử hình đang thu hẹp lại.
Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ bãi
bỏ án tử hình đối với tất cả các tội phạm;10 quốc gia bãi bỏ hình phạt này
đối với mọi tội danh trừ những tội danh đăc biệt như tội khủng bố, tội ác
14
chống lại loài người; 28 quốc gia chưa xử tử người nào trong vòng 10 năm
qua và có khoảng 70 quốc gia còn áp dụng hình phạt tử hình.
Mặc dù đó là những con số thống kê chưa chính xác và đầy đủ nhưng nhìn
chung hiện nay phần lớn các quốc gia đang có xu hướng giảm dần tiến tới
xóa bỏ hình phạt tử hình.Tại các quốc gia liên minh châu Âu và châu Mỹ-latinh hình phạt tử hình hầu hết không còn được áp dụng với mọi loại tội
phạm, cộng hòa pháp gần như là nước cuối cùng thuộc liên minh châu Âu
bãi bỏ hoàn toàn việc áp dụng hình phạt này.Ngay cả Nhật Bản trước xu
hướng của thời đại cũng chỉ còn 13 tội phải chịu hình phạt tử hình mà trong
đó chủ yếu là các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tính mạng con
người.Tại Mỹ hiện có hơn 30 bang trên tổng số 50 bang vẫn đang áp dụng
hình phạt tử hình nhưng trên thực tế chỉ có 25 bang còn áp dụng hình phạt tử
hình, bởi một số bang trong luật hình sự vẫn quy định hình phạt mà không
hề áp dụng.
Ngay trong khu vực Đông Nam Á, gần đây nhất quốc gia Philippines đã
bãi bỏ việc áp dụng hình phạt tử hình…một số nước khác cũng áp dụng rất ít
là Sinhgapo và Malaysia.
Xu hướng thay hình phạt tử hình bằng những hình phạt khác nhẹ hơn và xu
hướng tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình của thế giới đang diễn ra với phạm
vi rộng và tốc độ nhanh.
Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, nước láng riềng Việt Nam, còn hùm sư tử
của châu Á, một cường quốc đông dân nhất thế giới có tiềm lực kinh tế cực
mạnh- Trung Quốc-vẫn đang tồn tại 66 tội có khung hình phạt tử hình.Trung
quốc cũng là một nước xã hội chủ nghĩa nên Việt Nam có nhiều kinh nghiệm
họ tập.Nhưng đó là một suy nghĩ nhầm lẫn và máy móc.Chúng ta không thể
dập khuôn những chính sách pháp luật của Trung Quốc vào trong điều kiện
hoàn cảnh của nước ta.Hơn nữa,hiện nay Trung Quốc đang nhận được rất
nhiều chỉ trích từ phía dư luận quốc tê về quyền con người cũng như phản
đối từ các thế lực tự do dân chủ tiến khác.
2.Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay trong Bộ luật hình sự 1999 của nước ta các tội có thể áp dụng
hình phạt cao nhất là tử hình đã giảm đi nhiều so với bộ luật hình sự năm
1985:Tại chương XI, quy định về tội xâm phạm an ninh quốc gia, chỉ còn
bảy tội trong số mười ba tội, đó là các tội phản bội tổ quốc( khoản 1 Điều 78
Bộ luật hình sự(BLHS)), tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
(khoản 1 Điều 79 BLHS ), tội gián điệp (khoản 1 Điều 80 BLHS), Tội bạo
loạn( khoản 1 Điều 82 BLHS), tội hoạt động phỉ ( Khoản 1 Điều 83 BLHS),
tội khủng bố (khoản 1 Điều 84 BLHS ), tội phá hoại cơ sở vật chất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam ( khoản 1 Điều 85 BLHS);Tại chương
15
XVI quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có ba trong số hai
mươi chín tội có thể nhận mức án tử hình, đó là các tội,buôn lậu (Điều 153
BLHS), tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực thực phẩm,thuốc chữa
bệnh, thuốc phòng bệnh( Điều 157 BLHS), tội làm, tàng chữ, vận chuyển,
lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180 BLHS); Tại
chương XVIII quy định về các tội phạm về ma túy có ba trong số mười tội:
tội sản xuất trái phép chất ma túy( khoản 4 Điều 193 BLHS), tội tàng chữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (khoản 4 Điều
194 BLHS),tội tổ chức, sử dụng trái phép chất ma túy (khoản 4 Điều 197
BLHS);Tại chương XIX quy định về các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng có tới năm mươi lăm tội nhưng chỉ có hai tội có mức án tử
hình,đó là tội chiếm đoạt tàu bay tàu thủy(Điều 221 BLHS) và tộiphá hủy
công trình,phuơng tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 BLHS).Tại
chương XXI quy định về các tội phạm về chức vụ có ba tội trong mười bốn
tội: tội tham ô tài sản( khoản 4 Điều 278 BLHS), tội nhận hối lộ( khoản 4
Điều 279 BLHS ), tội đưa hối lộ ( khoản 4 Điều 289 BLHS);ba trong số hai
mươi sáu tội thuộc chương XXIII quy định về các tội xâm phạm nghĩa vụ
trách nhiệm quân nhân gồm có: tội chống mệnh lệnh (Điều 316 BLHS), tội
đầu hàng địch (khoản 3 Điều 322 BLHS ), tội hủy hoại vũ khí quân dụng,
phương tiện lỹ thuật quân sự( khoản 4 Điều 334 BLHS) và cuối cùng là ba
trong số bốn tội thuộc chương XXIV quy định về các tội phá hoại hòa bình,
chống loài người và tội phạm chiến tranh:tội phá hoại hòa bình, gây chiến
tranh xâm lược ( Điều 341 BLHS), tội chống loài người ( Điều 342 BLHS )
và các tội phạm chiến tranh ( Điều 343 BLHS).
Đó là những quy định về các tội có thể áp dụng hình phạt tử hình.Vậy
trên thực tế hiện thực thi hành án tử hình như thế nào?
Trong những năm qua cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện, đất nước từng ngày đi lên rõ rệt.Thì tình
hình phạm tội cũng diễn ra khá phức tạp,số vụ án nghiêm trọng liên tiếp xảy
ra, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.Tương ứng với nó là số người bị kết án,
trong đó không ít là án tử hình, gây đau lòng thương tâm cho gia đình nạn
nhân( kể cả người phạm tội) cũng như dư luận xã hội.
Theo thống kê của Bộ công an năm 2005 thì số người bị thi hành án tử hình
ở Việt Nam là:
Năm 1999 - 111 người
Năm 2002 - 102 người
Năm 2000 - 77 người
Năm 2003 -170 người
Năm 2001 - 152 người
Năm 2004 -136 người
Năm 2005 -131 người
16
Nhìn vào số liệu thống kê có thể thấy rằng số người bị áp dụng án tử hình
không hề giảm.Hay nói cách khác với tỷ lệ áp dụng khá cao như vậy việc
thực hiện tội phạm trên thực tế không hề giảm?
Và phải chăng áp việc áp dụng hình phạt tử hình đã không đem lại hiệu
quả như mong muốn, không răn đe và ngăn cản được việc thực hiện các
tội đặc biệt nghiêm trọng? Trái lại nó còn làm ảnh hưởng đến tính nhân
đạo trong pháp luật, xâm hại vào nguyên tắc tôn trọng quyền con người cũng
như tư tưởng xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
3.Nguyên nhân và yêu cầu thiết thực cho vấn đề hạn chế việc áp dụng
hình phạt tử hình ở Việt Nam.
V.I. Lênin đã từng nói: “ tác dụng của hình phạt không phải ở chỗ hình
phạt phải nặng hay nhẹ mà là ở chỗ bất cứ tội phạm nào cũng phải chịu hình
phạt.” Rõ ràng vấn đề công bằng đã thể hiện rất rõ trong luận điểm này của
Lênin.Việc ngăn ngừa các hành vi tội phạm tương tự có thể xảy ra bằng cách
áp dụng án tử hình đối với người phạm tội chưa hẳn đã đem lại hiểu quả
mong muốn.Bởi kẻ đáng được răn đe để không tái phạm nữa thì đã được
hành quyết, và dĩ nhiên không ai biết được cái cảm giác trừng trị bằng hình
phạt tử hình nó ghê gớm thế nào trừ người đã gánh chịu nó.Hậu quả tội
phạm vẫn cứ tiếp diễn.Thế nhưng một kẻ tù chung thân đang lãnh án trong
trại giam,đang hối cải từng ngay vì những hành vi tội lỗi của mình, đôi khi
lại là minh chứng sống cho những ai có ý định vi phạm pháp luật.Cái giá
phải trả cho sự phạm tội là bị tước đi quyền tự do, phải chôn mình trong bốn
bức tường nhà giam có thể còn nặng hơn cả cái chết.Vậy tại sao phải giết
một con người khi chính chúng ta tạo ra pháp luật để chúng ta sinh tồn trong
xã hội tốt đẹp hơn.
Cần phải nhắc lại mục đích của hình phạt không phải là sự hành hạ và tra
tấn con người. mục đích của hình phạt là ngăn cản con người thực hiện hành
vi phạm tội, kiềm chế những người khác trong xã hội khỏi việc thực hiện
hành vi phạm tội.Tức là mang tính phòng ngừa giáo dục là chủ yếu.
Từ những nguyên nhân đó, từ những phân tích trên đây, đã đến lúc cần thay
đổi cách nhìn về việc áp dụng hình phạt tử hình.Khi một khuôn mẫu đã trở
nên bất hợp lý và kém hiệu quả thì phải thay đổi cho hợp với thời đại.Việc
hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình đang phù hợp với xu thế chung
của nhân loại,phù họp với truyền thống đạo lý của ông cha.Và hơn bao giờ
hết nó là hành động tôn trọng nguyên tắc nhân đạo mà chúng ta đặt ra.
a) Áp dụng hình phạt tử hình không thể sửa chữa oan sai.
Dẫu biết để tiến hành một hình phạt tử hình đối với một người phạm tội
phải trải qua một quy trình rất chặt chẽ và phức tạp. Tuy nhiên không ai dám
cam đoan rằng những phán quyết của tòa án là luôn luôn đúng.Mà như đã
17
nói ở phần đặc điểm hình phạt tử hình có tính chất là không thay đổi nên
người chịu hình phạt tử nếu đã bị đem đi thi hành án thì không bao giờ có cơ
hội sửa sai nếu như phải chịu án oan.Một người đã chết đi thì dù sau đó tòa
án có minh oan cho ngừời đó và sửa bản án thành vô tội thì anh ta cũng
không có cách nào sống lại.Và như vậy thì nảy ra một vấn đề là người không
đáng chết lại phải chết, pháp luật lại trở nên phản tác dụng lại cướp mất
quyền sống của người dân vô tội.Lúc đó dù Nhà nước có dùng biện pháp gì
để bù đắp cho thân nhân gia đình người bị oan thì lòng dân chúng vào cán
cân công lý cũng vì đó mà giảm đi phần nào.
Trong khi đó nếu chỉ dừng lạị ở hình phạt tù chung thân, Nhà nước sẽ dễ
dàng sửa chữa sai lầm, dễ dàng để cho người dân chấp thuận hơn khi biết
được khiếm khuyết từ phía người cầm quyền( họ có thể được bồi thường
thiệt hại cho thời gian họ phải ở trong tù…và điều quan trọng nhất là họ còn
sống để chứng minh sự công bằng của pháp luật.Pháp luật sẽ chẳng bao giờ
công bằng nếu như nó vừa giết chết một người sau đó lại nói người đó là vô
tội mà không thể nào khôi phục được y nguyên trạng thái ban đầu.Tôi rất
tâm đắc một câu nói của một ai đó: hãy biết nhận lỗi trước những sai lầm và
sửa chữa những sai lầm ấy.Nhưng đừng bao giờ mắc những sai lầm không
thể nào sửa chữa được
b)Áp dụng hình phạt tử hình có thể gây thiệt hại lớn về kinh tế cho Nhà
nước, không đảm bảo mục đích phòng ngừa.
Những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ việc xét xử, áp
dụng và thi hành hình phạt tử hình đối với người phạm tội. Hầu hết là các tội
đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến hành vi tham ô, hối lộ, buôn bán ma túy,
buôn lậu, giết người có thể kể tới các vụ án đình đám nhue Tamexco với
Phạm Hùng Phước, Trần Quang Vinh, Vụ án của Vũ Xuân Trường, vụ án
Năm Cam và đồng bọn, hay gần đây nhất là vụ công ty Tiếp thị Bộ nông
nghiệp của Lã Thị Kim Oanh. Hậu quả là những tử tù này đã phải thi hành
án, pháp luật đã tước đi sinh mạng của họ( riêng Lã Thị Kim Oanh chuyển
xuống tù chung thân). Những người xem ra là đáng chết đã chết rồi nhưng
hậu quả mà người bị án tử hình để lại là hàng trăm tỷ đồng ngân sách nhà
nước không cánh mà bay.Chúng ta không có cách nào để thu hồi tài sản mặc
dù có biện pháp niêm phong tài sản thi hành án.Việc khắc phục hậu quả trở
nên không thể bởi lẽ người duy nhất có thể khắc phục tốt nhất hậu quả trên,
là người đầu mối của vụ án, người biết rõ tài sản của họ đang ở đâu và bằng
cách nào có thể thu hồi về được tài sản thì đã thi hành án tử hình và chết.Cái
chết của họ nhẹ nhàng và chẳng những nó không ngăn ngừa được hậu quả
pháp lý trên thực tế mà họ gây ra mà lại đẩy bài toán lãng phí ccủa nhà nước
vào lối bế tắc.Giả sử các bị cáo trên không bị tử hình,họ sẽ bị tù chung thân
suốt đời thì bản thân họ sẽ càng thấm thía hơn bao giờ hết hành vi phạm
18
pháp luật của mình.Nước mắt chảy xuôi, người Việt Nam vẫn có câu đánh
người chạy đi không ai đánh người chạy lại, đã là con người không ai không
có điểm yếu cả, những người chịu án tử hình sẽ có lúc họ phải nghĩ về gia
đình họ, về con cái họ lúc đó khi bị cáo còn sống dù trong tù họ vẫn có thể
hoàn thành nghĩa vụ tài chính và dân sự mà họ đáng phải thi hành.
Hơn nữa, sự hiện diện của những người này, sự tồn tại của họ ở trong tù
cũng chứng minh cho sự nghiêm minh của pháp luật, điều này có tính giáo
dục rất lớn vì như vậy không những chúng ta thỏa mãn mục đích phòng
ngừa mà không ai phải chết cả.
Sâu xa hơn khi cứu một con người thoát khỏi cái chết là chúng ta đang
tôn vinh chúng bản thân chúng ta, một nhà nước mang màu sắc xã hội chủ
nghĩa luôn đề cao giá trị nhân đạo không lẽ nào lại tước đi quyền sống tự
nhiên vốn có của người dân trong đất nước ấy.Và tôi tin chẳng một quốc gia
nào muốn đối đầu với những làn sóng tự do dân chủ, tổ chức nhân quyền
đang phát triển rộng khắp trên thế giới.
c)Áp dụng hình phạt tử hình tạo dư luận xã hội, làm giảm tính toàn
diện trong nguyên tắc nhân đạo.Đặc biệt gây khó khăn cho quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế đã gây ra những ý kiến tái
ngược nhau những tranh cãi trong dư luận.Nhiều vụ án sau khi người phạm
tội bị đem đi hành án tử hình đã có nhiều người dân phản đối.Tâm lý của
người thân người phạm tội cũng vì đó mà ảnh hưởng.Nhất là những đứa trẻ
có cha, hoặc mẹ bị kết án tử hình thử hỏi sau này sẽ hội nhập cuộc sống như
thế nào? Chúng sẽ mặc cảm với bạn bè, với xã hội rồi lại dẫn đến xa ngã hư
hỏng, tiếp tục bước chân vào vòng phạm tội, như cha mẹ chúng đã từng làm,
thậm chí mức độ cong ghê gớm hơn.
Nhiều người cũng lo phiên cho những ai phải làm nhiệm vụ “kết liệu một
con người” mặc dù hiện nay có rất nhiều biện pháp nghiệp vụ để giúp những
người thi hành bớt cảm giác day dứt, tội lỗi khi phai giết một ai đó theo pháp
luật nhưng cũng khó tránh khỏi những hội chứng tâm lý, nhất là khi họ về
già.
Cũng có thể thấy việc áp dụng án tử hình trên thực tế đã làm giảm đi
phần nào tính toàn diện và tích cực của nguyên tắc nhân đạo.Nếu đã là nhân
đạo thì tại sao lại phải giết người? Đâu phải là cứ ngăn ngừa tội phạm, cứ thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật thì phải áp dụng hình phạt tử
hình.Không một bài toàn nào chỉ có một cách giải? chúng ta đang cố tình
hay vô tình mà không nhận ra rằng quá nửa các nước trên thế giới đã xóa bỏ
hình phạt tử hình mà họ vẫn duy trì được trật tự xã hội mà còn duy trì rất tốt
ở nhiều nơi.
19
Lúc này và ngay bây giờ khi trình độ dân trí của loài người đã phát triển
đến ngưỡng cửa văn minh thì mọi lời ngụy biện cho việc làm tước đi tính
mạng của đồng loại đều không thẻ coi là nhân đạo.Bởi lẽ nếu phân tích theo
lối ngôn ngữ hán việt thì nhân là con người, đạo là đạo lý, là nhân cách, là
lối sống, lối cư xử.Và phải chăng trong xã hội này việc giết người( dù vì bất
cứ mục đích lý do nào) vẫn còn được coi là một đạo lý tích cực.
III- Phương pháp thay đổi việc áp dụng hình phạt tử hình
trong luật hình sự.
1. Vấn đề giải pháp trong thực tiễn khi hạn chế và tiến tới xóa bỏ việc áp
dụng hình phạt tử hình.
a)Tăng cường quản lý một cách chặt chẽ, điều hành kinh tế một cách
minh bạch .Ngăn chặn hành vi phạm tội từ lúc còn trứng nước.
Hiện nay các tội buôn bán hàng giả, ngân phiếu giả, công trái giả, tiền
giả, tội sản xuất, tàng trữ vận chuyển trái phép chất ma túy, thuốc chữa
bệnh, lương thực thực phẩm…quy định tại các điều 153,điều 157, điều
180,điều 193,điều 194,điều 195 thuộc Bộ luật hình sự năm 1999 là những
hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm.Hành vi này ngoài việc làm phát sinh
những thiệt hại về việc phá vỡ trật tự quản lý kinh tế nó còn gây nguy hại
trực tiếp tới tính mạng sức khỏe con người. Tuy nhiên xét về bản chất hành
vi này cũng là hành vi vi phạm trật tự quản lý kinh tế vì vậy chúng ta có thể
kiểm soát được chúng nếu tăng cường quản lý kinh tế một cách có hiệu quả
và minh bạch.Thiết nghĩ những hành vi phạm tội không thể phát sinh nếu
chúng ta có một cơ chế quản lý chặt chẽ, và có những biện pháp nghiệm vụ
để phát hiện sớm hành vi vi phạm thì hậu quả cũng đâu đến nỗi có những vụ
án kinh tế long trời lở đất đến vậy.Phải chăng chúng ta vẫn chưa sát sao với
công tác quản lý, phải chăng còn lơ là, hời hợt trong bối cảnh nền kinh tế
ngày càng phức tạp này ?
Hơn nữa, ngoài hình phạt tử hình trên người phạm tội còn phải gánh chịu
phạt tiền vì thế việc tăng cường phạt tiền, chuyển hình phạt tử hình thành
hình phạt tù chung thân sẽ hợp lý hơn và hiệu quả trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm có tính chất kinh tế này.
b)Tăng cường công tác thanh tra, giám sát quản lý cán bộ, giáo dục
nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người đang thực hiện công quyền.
Những người phạm phải các tội tham ô, đưa hối lộ, nhận hối lộ là những
tội phạm có liên quan mật thiết đến những người có vị trí trong bộ máy Nhà
nước, những người vì động cơ vụ lợi nhất định của mình có thể làm hoặc
không làm việc gì đó, gây nguy hại cho việc thực hiện những chính sách
kinh tế xã hội và chính trị của quốc gia.Phải nhận thấy rằng hành vi hối lộ
20
- Xem thêm -