Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau nhìn từ thực tiễn phòng, ch...

Tài liệu Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau nhìn từ thực tiễn phòng, chống covid 19

.PDF
86
1
86

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT QUỐC TẾ -----------***------------ ĐẶNG THỊ THU THUỶ MSSV: 1853801011222 NGUYÊN TẮC CÁC QUỐC GIA CÓ NGHĨA VỤ HỢP TÁC VỚI NHAU NHÌN TỪ THỰC TIỄN PHÒNG, CHỐNG COVID-19 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Niên khóa: 2018 - 2022 Người hướng dẫn: ThS. Hà Thị Hạnh TP. Hồ Chí Minh - Năm 2022 LỜI CẢM ƠN Khoá luận này được viết trong khoảng thời gian dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam đang dần được kiểm soát và cuộc sống “bình thường mới” dần được thiết lập. Bốn năm trưởng thành từ Đại học Luật, bản thân em luôn biết ơn các Thầy Cô vì đã tạo môi trường tốt để em cố gắng học tập, tích luỹ kiến thức và trau dồi kinh nghiệm cho bản thân mình. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Giảng viên hướng dẫn Th.S Hà Thị Hạnh đã hướng dẫn và hỗ trợ tận tình cho em trong quá trình thực hiện khoá luận. Con cảm ơn bố mẹ và gia đình rất nhiều vì đã tạo điều kiện và động lực giúp con có thể tự tin vững bước trên con đường mình chọn. Cảm ơn những người hùng thầm lặng bên em. Cảm ơn Kim Dung và Tường Vi đã luôn cạnh em mỗi khi em cần, cùng em chạy deadline cho suốt bốn năm qua và cho cả tương lai tươi đẹp mà chúng ta hướng đến, tình bạn này sẽ được ghi vào “Kỷ lục Thuỷ Thanh” mãi mãi. Mặc dù đã nỗ lực và cố gắng hết mình trong việc tìm hiểu, nghiên cứu thực hiện khoá luận này nhưng do trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế, cũng như đánh giá đề tài thực hiện tương đối mới, hạn chế về tài liệu tham khảo nên khoá luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các Thầy Cô, các độc giả quan tâm đến đề tài để từ đó rút kinh nghiệm và hoàn thiện bản thân mình hơn. Xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau nhìn từ thực tiễn phòng, chống COVID-19” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Hà Thị Hạnh - Giảng viên Khoa Luật Quốc tế - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Mọi tài liệu và trích dẫn được tham khảo trong khoá luận đều ghi rõ nguồn gốc, vị trí sử dụng tại phần trích dẫn cuối trang và phần tài liệu tham khảo cuối khoá luận. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường về lời cam đoan này. TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng Sinh viên thực hiện khoá luận Đặng Thị Thu Thuỷ năm DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Tiếng Việt Tên viết tắt LHQ Tên đầy đủ Liên Hợp Quốc Nguyên tắc hợp tác Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau Tuyên bố về những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ Tuyên bố hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương năm 1970 LHQ tại Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại Hội Đồng LHQ ngày 24/10/1970 Tiếng Anh Tên viết tắt CDC CEPI COVAX COVID-19 CSIS GAVI GDP Tên đầy đủ Dịch nghĩa Centers for Disease Control Trung tâm kiểm soát và phòng and Prevention Coalition ngừa dịch bệnh for Epidemic Liên minh Đổi mới sáng tạo Sẵn Preparedness Innovations Covid-19 Vaccines sàng cho dịch bệnh Global Tiếp cận Toàn cầu Vắc-xin Access COVID-19 Coronavirus disease 2019 Bệnh Virus Corona 2019 Center for Strategic International Studies and Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Global Alliance for Vaccines Liên minh Toàn cầu về vắc-xin và and Immunization tiêm chủng Gross domestic product Tổng sản phẩm nội địa MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÁC QUỐC GIA CÓ NGHĨA VỤ HỢP TÁC VỚI NHAU 7 1.1. Tổng quan về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế 7 1.2. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 9 1.2.1. Sự hình thành nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 9 1.2.2. Nội dung của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 11 1.2.3. Đặc điểm của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 13 1.2.4. Vai trò của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 14 1.3. Cơ sở lý luận về nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 16 1.4. Cơ chế hợp tác quốc tế 22 1.4.1. Hợp tác theo quy mô khu vực địa lý 22 1.4.2. Hợp tác theo lĩnh vực, mục đích 25 1.4.3. Đánh giá chung về cơ chế hợp tác quốc tế 27 Kết luận Chương 1 31 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÁC QUỐC GIA CÓ NGHĨA VỤ HỢP TÁC VỚI NHAU TRONG PHÒNG, CHỐNG COVID-19 – BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 2.1. 32 Tầm quan trọng của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong bối cảnh đại dịch COVID-19 2.1.1. Các đại dịch bệnh trong lịch sử thế giới 32 32 2.1.2. Các giải pháp đối phó với dịch bệnh 34 2.1.3. COVID-19 và sức ảnh hưởng 38 2.2. Cơ chế hợp tác nhìn từ thực tiễn phòng, chống COVID-19 hiện nay 42 2.2.1. Hợp tác song phương trong phòng, chống COVID-19 42 2.2.2. Hợp tác đa phương toàn cầu trong phòng, chống COVID-19 43 2.3. Thực tiễn vận dụng nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong bối cảnh COVID-19 46 2.3.1. Tại Việt Nam 46 2.3.2. Tại một số quốc gia khác 53 2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 61 Kết luận Chương 2 67 KẾT LUẬN 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quốc gia là những thực thể độc lập, bình đẳng với nhau về chủ quyền và không chịu sự can thiệp của các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế. Tuy vậy, xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế hiện nay là sự hội nhập và hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi, điều này đòi hỏi mối quan hệ hợp tác chặt chẽ của các quốc gia. Sự hợp tác giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế hay xã hội với mục đích duy trì hoà bình và an ninh quốc tế đã được các quốc gia thừa nhận và luật pháp hoá. Là một nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau (sau đây gọi là nguyên tắc hợp tác) được xem như là “đòn bẩy”, là cơ sở giúp Việt Nam có được nhiều cơ hội hơn trong công tác đối ngoại, tăng cường sự hợp tác, hữu nghị cũng như sự hỗ trợ song phương, khu vực và toàn cầu. Đây là những vấn đề mà đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay không thể không chú trọng. Không chỉ Việt Nam, các quốc gia trên thế giới hiện nay đã và đang trải qua giai đoạn chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh COVID-19. Kể từ thời điểm xuất hiện, COVID-19 đã gây ra những ảnh hưởng sâu sắc trên hầu hết các phương diện đặc biệt là khoa học y tế, kinh tế, chính trị, xã hội,... Rất nhiều vấn đề khó khăn nảy sinh từ thực tiễn phòng, chống COVID-19 hiện nay như yêu cầu về quyền được sống, quyền tự do đi lại, quyền tiếp cận vắc-xin, quyền giữ bí mật thông tin sức khỏe của người bệnh,… Việt Nam không những phải tập trung tìm ra những giải pháp y học tối ưu nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh cũng như những chính sách khẩn cấp chăm lo cho đời sống của người dân mà còn phải đề ra cách thức để tiếp cận nguồn vắc-xin nhanh chóng, hiệu quả, giải quyết những vấn đề nảy sinh về quyền con người, tập trung đối phó với sự “tụt dốc” của nền kinh tế quốc gia,… Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại, COVID-19 dần được kiểm soát nhờ những nỗ lực vượt bậc của mỗi quốc gia và của sự hợp tác quốc tế, tuy vậy nhân loại vẫn đứng trước những nguy cơ tiềm ẩn về dịch bệnh nguy hiểm trong tương lai. Điều này đặt ra yêu cầu bắt 1 buộc đối với các quốc gia trong việc dự phòng những biện pháp phòng ngừa dịch bệnh, trong đó nguyên tắc hợp tác đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu cho đến hiện nay, tác giả nhận thấy chưa có nhiều công trình nghiên cứu tập trung phân tích, nhấn mạnh vai trò và hiệu quả của nguyên tắc hợp tác đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 cũng như đề ra biện pháp giải quyết những thách thức mà dịch bệnh gây ra hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của nguyên tắc hợp tác, trên cơ sở xem xét việc vận dụng nguyên tắc trên thực tiễn phòng, chống COVID-19, tác giả mong muốn xây dựng một công trình nghiên cứu làm tài liệu tham khảo hữu ích cho quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng các nội dung liên quan đến đề tài. Vì những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau nhìn từ thực tiễn phòng, chống COVID-19” để thực hiện khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về cơ bản, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau không phải là một nội dung mới. Tuy nhiên, thực tiễn COVID-19 hiện nay đã đưa tới những vấn đề mới trong việc vận dụng nguyên tắc mà chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu liên quan đến đề tài này. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả chủ yếu tham khảo một số nghiên cứu mang tính chất lý luận tổng quát. Đối với tình hình nghiên cứu trong nước, một số đầu sách do các tác giả nghiên cứu liên quan đến tổng quan Luật quốc tế, đặc biệt phải kể đến: TS. Ngô Hữu Phước (2013), cuốn sách “Luật quốc tế” (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Chính trị Quốc Gia - Sự thật; TS. Trần Văn Thắng và ThS. Lê Mai Anh (đồng chủ biên) (2001) et al., cuốn sách “Luật quốc tế - Lý luận và Thực tiễn”, Nxb. Giáo dục: Các tác giả đã có những nghiên cứu tổng quan về nguyên tắc hợp tác trên cơ sở lý luận chung, giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về một số vấn đề lý luận liên quan đến nguyên tắc. Từ đó, có sự so sánh, đối chiếu các quan điểm trong quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên, bối cảnh COVID-19 hiện nay làm nảy sinh nhiều điểm mới chưa được các tác giả nghiên cứu tại thời điểm những cuốn sách này ra đời. 2 Lư Vĩ An, Bài Tổng quan “Dịch bệnh trong lịch sử nhân loại: Nguồn gốc, tác động và biện pháp ứng phó”, đăng ngày 20/12/2020, trên Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ - Khoa học Xã hội và Nhân văn: Tác giả đã có những nghiên cứu chuyên sâu về các loại dịch bệnh cũng như bình luận, đánh giá và đề ra các biện pháp ứng phó đối với dịch bệnh nhìn từ chiều dài của lịch sử thế giới. Tuy nhiên, về thực tiễn vận dụng nguyên tắc hợp tác trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 hiện nay chưa được tác giả đặt vấn đề nghiên cứu. Nguyên tắc hợp tác và thực tiễn phòng, chống COVID-19 cũng được tìm thấy trong một số bài viết, nghiên cứu nước ngoài, cụ thể: Laurence Boisson de Chazournes and Jason Rudall, “The UN Friendly Relations Declaration at 50: An Assessment of the Fundamental Principles of International Law1” (Tạm dịch: “Tuyên bố về quan hệ hữu nghị của Liên Hợp Quốc lần thứ 50: Đánh giá các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế”): Các tác giả đã tìm hiểu, phân tích quan điểm của các quốc gia về mức độ, phạm vi, đối tượng áp dụng của nguyên tắc hợp tác. Đây là tài liệu hữu ích cho người nghiên cứu có thêm cơ sở để bổ sung quan điểm trong phần lý luận chung. Tuy nhiên, nội dung liên quan đến đề tài khoá luận này nhằm tìm hiểu nguyên tắc hợp tác trên cơ sở thực tiễn COVID19 hiện nay cũng chưa được các tác giả đặt vấn đề nghiên cứu. Diane Desierto, “Beyond the State: Our Shared Duties to Cooperate to Realize Human Rights during the Evolving Risks of a Global Pandemic” (Tạm dịch: “Ngoài Nhà nước: Nhiệm vụ chung của chúng ta là Hợp tác để hiện thực hóa Quyền con người giữa các nguy cơ phát triển của Đại dịch Toàn cầu”), đăng ngày 20/8/2020 và “Equitable COVID Vaccine Distribution and Access: Enforcing International Legal Obligations under Economic, Social, and Cultural Rights and the Right to Development”, (Tạm dịch: “Phân phối và tiếp cận vắc-xin COVID công bằng: Thực thi các nghĩa vụ pháp lý quốc tế theo Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa và Quyền Phát triển”), ngày 02/02/2021, đăng trên EJIL: Talk - Blog của Tạp chí Luật quốc tế Châu Âu: Tác giả đề ra quan điểm mới về sự hợp tác trong bối cảnh dịch bệnh toàn 1 pp. 105 – 132, Publisher: Cambridge University Press, Print publication year: 2020. 3 cầu, đề cao vai trò của sự hợp tác trên thực tiễn bảo đảm tôn trọng quyền con người. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu trên bình diện quốc tế chung, chưa đi sâu nghiên cứu nguyên tắc hợp tác cũng như thực tiễn phòng, chống COVID-19 hiện nay tại các quốc gia một cách cụ thể. Bài viết giúp người nghiên cứu có hướng tiếp cận mới trong quá trình tìm hiểu, đánh giá và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 2020 年版 開発協力白書日本の国際協力、“未来へ向かう、コロナ時代 の国際協力2” (Tạm dịch: Sách trắng năm 2020 về hợp tác phát triển Hợp tác quốc tế của Nhật Bản, tiêu đề “Hợp tác quốc tế trong thời kỳ Corona, hướng đến tương lai”): Cuốn sách đề ra định hướng, đường lối của Nhật Bản về sự chú trọng hợp tác quốc tế trong bối cảnh COVID-19 hiện nay, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho người nghiên cứu trong việc xem xét, đánh giá và rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu trước đó, khoá luận này hướng đến việc phát triển đề tài ở một mức độ sâu sắc và toàn diện hơn. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Tác giả lựa chọn đề tài “Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau nhìn từ thực tiễn phòng, chống COVID-19” với mục đích sau: Thứ nhất, tìm hiểu sự hình thành, nội dung, đặc điểm, vai trò, cơ sở lý luận của nguyên tắc hợp tác và cơ chế hợp tác hiện nay. Thứ hai, nhìn nhận, đánh giá tầm quan trọng của việc vận dụng nguyên tắc hợp tác trên cơ sở thực tiễn phòng, chống COVID-19 tại Việt Nam và trên thế giới. Thứ ba, rút ra một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn phù hợp trong việc dự phòng, ứng phó với dịch bệnh nói riêng và những vấn đề về hợp tác quốc tế nói chung của nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 2 令和 3 年 3 月 12 日 発行 編 集 外 務 省 〒100-8919 東京都千代田区霞が関 2-2-1 電 話(03)3580 -3311(代表). 4 Đối tượng nghiên cứu Trên cơ sở mục tiêu chung của đề tài là nghiên cứu nguyên tắc hợp tác trên thực tiễn phòng, chống COVID-19 từ đó đưa ra những đánh giá, kết luận và bài học kinh nghiệm về các vấn đề liên quan, tác giả chú trọng vào những đối tượng nghiên cứu cụ thể, bao gồm: Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế trong đó tập trung nghiên cứu sự hình thành, cơ sở lý luận chung về nguyên tắc hợp tác và cơ chế hợp tác giữa các quốc gia; thực tiễn phòng, chống COVID-19 và việc vận dụng nguyên tắc hợp tác hiện nay. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong đó Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và các văn bản pháp lý quốc tế khác làm nền tảng cho cơ sở lý luận. Thực tiễn phòng, chống dịch bệnh, các chính sách, giải pháp và việc vận dụng nguyên tắc hợp tác trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới (Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ) thông qua các công bố trên các trang mạng điện tử, thông cáo báo chí, bài viết, tác phẩm báo chí chính thống,… 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện khoá luận, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như phân tích, liệt kê, so sánh đối chiếu, bình luận, đánh giá, tổng hợp và thống kê. Cụ thể: Chương 1: Tác giả tiến hành tìm hiểu, phân tích những lý luận chung về nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, tập trung chủ yếu về sự ra đời, nội dung, đặc điểm, cơ chế, vai trò của nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia hiện nay. Từ đó, tác giả tổng hợp và rút ra ý chính cho mỗi vấn đề. Chương 2: Tác giả tiến hành tìm hiểu, thống kê, liệt kê, so sánh đối chiếu những số liệu về các dịch bệnh, về COVID-19 nhằm nêu bật sức ảnh hưởng của dịch bệnh cũng như phân tích tầm quan trọng, thực trạng áp dụng nguyên tắc hợp tác, những biện pháp phòng, chống dịch bệnh tại các quốc gia trong từng thời điểm dịch bệnh. Từ đó nhìn nhận đánh giá, rút ra kết luận và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 5 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Về ý nghĩa khoa học, đề tài nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận chung về nguyên tắc hợp tác bằng những tìm hiểu, phân tích các quan điểm về sự hình thành và tính chất bắt buộc của nguyên tắc. Trên cơ sở đó, đề tài có những đánh giá khách quan, toàn diện về nguyên tắc hợp tác cũng như rút ra một số kinh nghiệm từ việc vận dụng nguyên tắc trên thực tiễn phòng, chống COVID-19 hiện nay và dự phòng cho tương lai. Về giá trị ứng dụng, đề tài giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về nguyên tắc hợp tác, cung cấp không chỉ những thông tin về dịch bệnh COVID-19 mà còn nhìn nhận, đánh giá thực tiễn vận dụng nguyên tắc hợp tác tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm thực tiễn hữu ích cho Việt Nam. Tác giả hy vọng khoá luận này sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập, nghiên cứu và vận dụng nguyên tắc hợp tác trên thực tiễn hiện nay cũng như cho tầm nhìn dài hạn trong tương lai. 7. Bố cục đề tài khoá luận Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận được chia làm 2 chương: Chương 1: Nhận thức chung về nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau. Chương 2: Thực trạng áp dụng nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong phòng, chống COVID-19 – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 6 CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÁC QUỐC GIA CÓ NGHĨA VỤ HỢP TÁC VỚI NHAU 1.1. Tổng quan về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế Nhìn từ phương diện pháp lý, bất cứ một ngành, hệ thống pháp luật nào cũng bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật nhất định và luôn có những quy phạm được xem là nguyên tắc của cả ngành hay hệ thống pháp luật ấy. Theo đó, những nguyên tắc của Luật quốc tế là những tư tưởng chính trị pháp lý quan trọng, thể hiện cô đọng các quy phạm Luật quốc tế. Và trong số đó có một số nguyên tắc được xem là nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế 3. Căn cứ theo Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc có bảy nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, bao gồm: (1) Nguyên tắc không dùng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực; (2) Nguyên tắc hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế; (3) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; (4) Nguyên tắc quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau; (5) Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc; (6) Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; và (7) Nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế. Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế tồn tại chủ yếu dưới dạng các quy phạm pháp luật thể hiện trong các điều ước và tập quán quốc tế. Quy phạm Luật quốc tế là những quy tắc xử sự do các quốc gia và chủ thể khác của Luật quốc tế thỏa thuận xây dựng hoặc cùng nhau thừa nhận giá trị pháp lý ràng buộc của chúng khi tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế4. Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế bao gồm những đặc điểm sau: Thứ nhất, các nguyên tắc cơ bản là cơ sở của Luật quốc tế. Dựa vào các nguyên tắc đó, các chủ thể Luật quốc tế có thể dễ dàng xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật một cách thống nhất. Các quốc gia là chủ thể của Luật quốc tế khi ban hành bất kỳ một quy phạm pháp luật nào đều phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản, khi đó quy phạm pháp luật này mới được xem là có hiệu lực thi hành. 3 4 Trường Đại học Huế (2018), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb. Công an Nhân dân, tr. 63. Trường Đại học Luật TP. HCM (2017), Giáo Trình Công pháp Quốc tế (quyền 1), Nxb. Hồng Đức, tr. 22. 7 Thứ hai, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là những quy phạm mang tính chất phổ biến, phổ cập. Đặc trưng này thể hiện ở việc các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được áp dụng trong phạm vi toàn cầu, trong quan hệ giữa tất cả các quốc gia với nhau không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, vai trò và vị trí của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế. Các nguyên tắc được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như Hiến chương Liên Hợp Quốc (1945), Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc,… Thứ ba, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là các quy phạm mang tính chất mệnh lệnh, có giá trị pháp lý cao nhất. Tính chất mệnh lệnh của các nguyên tắc được xác định trong Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế, theo đó tại Điều 53 đã chỉ rõ các nguyên tắc này được coi là “quy phạm mệnh lệnh của Luật quốc tế chung, được cả cộng đồng quốc tế công nhận và áp dụng”. Cũng như hệ thống pháp luật quốc gia, bất cứ một quy định pháp luật nào khi ban hành đều phải tuân thủ Hiến pháp – văn bản pháp luật cao nhất do quốc gia ban hành. Là những quy phạm mang tính chất mệnh lệnh, các nguyên tắc cơ bản là cơ sở của toàn hệ thống Luật quốc tế, đảm bảo sự ổn định của trật tự pháp lý quốc tế. Mọi điều ước quốc tế dù là đa phương hay song phương, toàn cầu hay khu vực đều phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Thứ tư, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế có tính chất bao trùm nhất. Bởi chúng được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế. Có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt trong quan hệ giữa các chủ thể Luật quốc tế. Hay nguyên tắc hợp tác đặt ra yêu cầu các quốc gia không chỉ đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu mà còn phải hoà bình, hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của quốc gia khác như các vấn đề về biến đổi khí hậu toàn cầu, y tế, dịch bệnh, quyền con người,… Đây là những vấn đề mà bất kể quốc gia nào gặp phải cũng trải qua khó khăn, thậm chí không thể giải quyết nếu không có sự hợp tác với các quốc gia khác. Bởi thế, việc tuân thủ nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là hết sức hợp lý và cần thiết. 8 Thứ năm, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Việc giải thích và áp dụng những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là có sự tương quan với nhau và mỗi nguyên tắc sẽ được hiểu trong mối quan hệ với những nguyên tắc khác5. Ví dụ: nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực có mối quan hệ tương hỗ, đảm bảo thực hiện nguyên tắc hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế và ngược lại. Các quốc gia cam kết không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, hướng đến giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp hoà bình. Mặt khác, để tuân thủ nguyên tắc hoà bình giải quyết tranh chấp, các quốc gia cần từ bỏ việc sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng nó, thay vào đó là những biện pháp đàm phán, thoả thuận,… một cách hoà bình, đồng thời đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khác của Luật quốc tế. Chính vì vậy, khi giải thích và áp dụng từng nguyên tắc, các chủ thể phải xem xét, so sánh đối chiếu nó trong mối quan hệ với tất cả các nguyên tắc khác vì chúng được xem là một chỉnh thể, một hệ thống pháp lý quan trọng duy trì trật tự pháp lý quốc tế. Theo tác giả, trong các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nguyên tắc nào cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu nguyên tắc hợp tác với vai trò là một nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 hiện nay. 1.2. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 1.2.1. Sự hình thành nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau Tại khoản 3, Điều 1 Hiến chương Liên Hợp Quốc (1945) lần đầu tiên ghi nhận và cho thấy tinh thần của nguyên tắc hợp tác: “3. Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá, nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Mặc dù đây chỉ là những quy định liên quan đến mục đích hoạt động của Liên Hợp Quốc (LHQ), nhưng đã cho thấy sự cần thiết của nguyên tắc hợp tác trong quan hệ quốc tế. 5 Điều 2 (Điều khoản chung) Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. 9 Đứng trước những vấn đề mang tính toàn cầu như chiến tranh, hòa bình, y tế, nhân đạo,… các quốc gia dần nhận thức được sự mất mát, tầm nguy hại do các vấn đề này gây ra. Vì vậy sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nguyên tắc hợp tác trở thành một nguyên tắc quan trọng của Luật quốc tế. Sự ra đời của Nghị quyết số 2625 (XXV) ngày 24/10/1970 của Đại Hội Đồng LHQ đã chính thức ghi nhận một cách rõ ràng “những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, phù hợp với Hiến chương LHQ”. Trong Tuyên bố năm 1970, ngoài năm nguyên tắc đã nêu trong Điều 2 Hiến chương, bao gồm: Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các quốc gia thành viên; Tận tâm thực hiện cam kết quốc tế; Hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế; Không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực trong quan hệ quốc tế; Không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; còn bổ sung thêm hai nguyên tắc đó là nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau và nguyên tắc dân tộc tự quyết. Sự xuất hiện của nguyên tắc hợp tác trong Tuyên bố năm 1970 đã gây ra nhiều quan điểm tranh luận khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau chỉ được nói tới từ sau năm 1945. Trong bảy nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế được hình thành sớm nhất, ngay từ khi Luật quốc tế ra đời. Tuy nhiên trước năm 1945 nó chủ yếu ghi nhận dưới dạng tập quán pháp quốc tế và chưa thể hiện đầy đủ những đặc điểm như đã phân tích tại Mục 1.1 của khoá luận này. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia về mặt chủ quyền được xuất hiện từ thời kỳ Cách mạng Tư sản ở phương Tây. Và phải trải qua một thời kỳ lâu dài, khó khăn, chúng mới được thừa nhận mang tính hạn chế, dưới dạng tập quán pháp quốc tế. Kể từ sau khi Hiến chương LHQ có hiệu lực pháp lý, các nguyên tắc đó đã chính thức trở thành nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực và nguyên 10 tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế đã có mầm mống từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX6. Quan điểm khác cho rằng, sự liên kết và hợp tác giữa các quốc gia đã được thiết lập từ thời kỳ đầu xuất hiện Nhà nước. Tuy nhiên lúc bấy giờ, hợp tác giữa các quốc gia chỉ dừng lại ở các lĩnh vực cơ bản như phân định lãnh thổ - biên giới, hợp tác nhằm giải quyết các vấn đề về chiến tranh, hoà bình, về ngoại giao, lãnh sự,… và hợp tác là quyền của các quốc gia. Thế nhưng, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đứng trước các vấn đề mang tính toàn cầu như chiến tranh, hoà bình, y tế, nhân đạo, môi trường, thương mại quốc tế, chống đói nghèo,… cộng đồng quốc tế đã xác định hợp tác quốc tế là một nghĩa vụ pháp lý quốc tế, hợp tác để xây dựng một thế giới hoà bình, thịnh vượng, ổn định và phát triển7. Tựu chung lại, các quan điểm đều cho thấy được sự ra đời của nguyên tắc hợp tác gắn liền với sự ra đời của các nguyên tắc cơ bản khác của Luật quốc tế theo một quá trình cũng như hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế tồn tại và phát triển trong sự ổn định và kế thừa. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển cũng xuất hiện những thay đổi, nhưng không phải là sự thay thế nguyên tắc này bằng nguyên tắc khác mà là sự bổ sung những nội dung mới phù hợp hơn với sự phát triển của quan hệ quốc tế. Vì vậy, sự ra đời của nguyên tắc hợp tác chính là sự bổ sung cần thiết cho quan hệ quốc tế hiện đại. Và hơn thế nữa, nguyên tắc hợp tác đã trở thành một nguyên tắc quan trọng của Luật quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 hiện nay. 1.2.2. Nội dung của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau Nguyên tắc hợp tác ra đời được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Bản chất của nguyên tắc này là thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền. Sự ra đời của các văn bản pháp luật như Luật quốc tế, Luật Nhân đạo Quốc tế, Luật Môi trường Quốc tế, Luật Hình sự Quốc tế,… được 6 Trường Đại học Huế (2018), tlđd (3), tr. 65. Ngô Hữu Phước, Luật quốc tế (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Chính trị Quốc Gia – Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 147. 7 11 ban hành cũng một phần dựa trên nguyên tắc hợp tác8. Ngoài ra, nguyên tắc hợp tác đã dẫn đến việc thoả thuận, ký kết nhiều điều ước quốc tế giữa các quốc gia với nhiều tên gọi khác nhau như Thoả ước, Hiệp định, Công ước Quốc tế,… đặc biệt liên quan đến các vấn đề mang tính quốc tế trong đó có các vấn đề về phòng, chống và khắc phục hậu quả của COVID-19 hiện nay. Ngay trong lời nói đầu của Tuyên bố năm 1970 đã xác nhận lại một lần nữa mục đích cơ bản của LHQ là giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia bất chấp sự khác biệt về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và trình độ phát triển. Đặc biệt xem xét việc tuân thủ một cách tận tâm những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị, hợp tác và thực hiện có thiện chí nghĩa vụ của các quốc gia phù hợp với Hiến chương LHQ là vấn đề quan trọng bậc nhất cho sự gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế và cho việc thực hiện những mục đích khác của tổ chức này. Tuyên bố năm 1970 thừa nhận sự phát triển và pháp điển hóa không ngừng của những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế trong đó có “Nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương 9”. Như vậy có thể thấy, ngoài Hiến chương LHQ, Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ và các văn bản pháp lý quốc tế10 chính là cơ sở pháp lý quan trọng ghi nhận nguyên tắc hợp tác là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Tác giả trên cơ sở khách quan sẽ chứng minh điều này thông qua việc tìm hiểu, phân tích nội dung, đặc điểm, cơ chế và vai trò của nguyên tắc hợp tác dưới đây. Theo Điều 1 Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ nêu rõ nguyên tắc hợp tác bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, mỗi quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác trong lĩnh vực quan hệ quốc tế để gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế, khuyến khích sự ổn định và tiến bộ, vì lợi ích chung của các dân tộc và hợp tác quốc tế mà không có sự phân biệt chế độ chính trị, kinh tế và văn hoá. Vì mục đích đó, mỗi quốc gia sẽ hợp tác với 8 Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh (đồng chủ biên) et al., Luật quốc tế - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 144. 9 Lời nói đầu, Điều 1 Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. 10 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966, Tuyên bố về Quyền phát triển năm 1986, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc,... 12 các quốc gia khác để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng và tuân thủ các quyền con người và tự do cơ bản trên toàn thế giới và trong việc loại trừ tất cả các hình thức phân biệt về sắc tộc và tôn giáo; thực hiện các quan hệ quốc tế của mình trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, kỹ thuật và thương mại phù hợp với những điều khoản tương ứng của Hiến chương LHQ. Thứ hai, các quốc gia thành viên của LHQ có nhiệm vụ phải hành động tập thể hoặc riêng rẽ trong hợp tác với LHQ theo quy định phù hợp với Hiến chương. Điều này có nghĩa là các quốc gia phải thể hiện nỗ lực giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua sự hợp tác, phối hợp với nhau. Nội dung này cũng đã được ghi nhận trong Điều 55 và 56 của Hiến chương LHQ. Đặc biệt tại Điều 56 quy định “Tất cả các quốc gia thành viên LHQ phải cam kết bằng các hành động chung hoặc riêng trong sự nghiệp hợp tác với LHQ để đạt được những mục đích nói trên (tại Điều 55)”. Quy định này cho thấy rõ hai nghĩa vụ của các quốc gia là hợp tác với nhau và hợp tác với LHQ để thực hiện tôn chỉ, mục đích của Hiến chương. Tuỳ vào từng hoàn cảnh, thời điểm và mục đích cụ thể của mỗi quốc gia, việc thực thi những nghĩa vụ quốc tế mà các quốc gia phải gánh vác có thể sẽ khác nhau. Thứ ba, các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội cũng như khoa học - công nghệ, thúc đẩy tiến bộ văn hoá và giáo dục quốc tế. Các quốc gia phải hợp tác trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Các lĩnh vực hợp tác được LHQ mở rộng một cách toàn diện cho thấy vai trò cần thiết, quan trọng của nguyên tắc hợp tác trong mọi phương diện của đời sống quốc tế hiện nay. 1.2.3. Đặc điểm của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau Nguyên tắc hợp tác mang những đặc điểm chung của các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Các đặc điểm của nguyên tắc này được chỉ ra sau đây11: Tính phổ biến rộng rãi, bao trùm: Nguyên tắc hợp tác được thừa nhận một cách rộng rãi cũng như được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quan trọng có thể kể đến như khoản 3 Điều 1, Điều 13, 49, 55, 56,… Hiến chương LHQ, Lời nói đầu và Điều 11 Trường Đại học Luật TP. HCM (2017), tlđd (4), tr. 84. 13 1 Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ,… Sự hợp tác giữa các quốc gia bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, văn hoá, xã hội,… và ngày càng được mở rộng với mục tiêu các bên cùng có lợi, mục tiêu nhân đạo cùng những mục tiêu khác trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế nói chung và nguyên tắc hợp tác nói riêng. Nguyên tắc hợp tác có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc cơ bản khác của Luật quốc tế: Các nguyên tắc có sự hỗ trợ qua lại, nguyên tắc này là cơ sở, là hệ quả của nguyên tắc khác và ngược lại. Chúng được xem như một chỉnh thể của Luật quốc tế, đảm bảo sự tôn trọng giữa các quốc gia với nhau vì mục đích gìn giữ hoà bình, trật tự an ninh thế giới. Tính kế thừa xuất phát từ mối quan hệ này, bất kỳ nguyên tắc cơ bản nào của pháp luật quốc tế đều phải trải qua một giai đoạn hình thành lâu dài và kế thừa lẫn nhau. Và nguyên tắc hợp tác chính là sự kế thừa, bổ sung phù hợp cho quá trình phát triển của quan hệ quốc tế hiện đại. Tính bắt buộc chung: Là quy phạm mang tính chất mệnh lệnh, nguyên tắc hợp tác là nguyên tắc bắt buộc đối với mọi chủ thể khi tham gia các quan hệ quốc tế. Có rất nhiều tranh cãi xoay quanh đặc điểm này, bởi các quốc gia là những chủ thể có chủ quyền độc lập, các quốc gia khác không có thẩm quyền xâm phạm. Vậy việc các quốc gia hợp tác với nhau là “quyền” hay “nghĩa vụ”. Vì tính chất đặc biệt của nó, đặc điểm này sẽ được phân tích cụ thể hơn tại Mục 1.3 của khoá luận này. Những đặc điểm nêu trên của nguyên tắc hợp tác đã giúp cho việc thừa nhận, xác định nguyên tắc hợp tác chính là nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế một cách khách quan và chính xác hơn. 1.2.4. Vai trò của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau Thứ nhất, là một nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nguyên tắc hợp tác là công cụ hữu ích giúp LHQ thuận lợi điều chỉnh hệ thống pháp luật quốc tế vì mục đích cao cả là gìn giữ hoà bình và an ninh thế giới, tạo ra khối đoàn kết quốc tế sâu rộng, cùng phát triển. Trong mọi văn kiện quốc tế quan trọng hiện nay, nguyên tắc hợp tác luôn được viện dẫn và đề cập đến. Hơn thế nữa, ý nghĩa và tầm quan trọng của nguyên tắc này còn được nhắc đến trong thực tiễn quan hệ quốc tế. Các vấn đề mang tính chất 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan