Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của
vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
Lê Thu Trang
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Dân Sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Cừ
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi
chính đáng của vợ và con theo luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) Việt Nam
năm 2000. Chỉ ra được vai trò của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 đối với việc bảo
vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, con khi vợ chồng ly hôn, qua đó tìm hiểu
thực tiễn áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000. Đề xuất một
số kiến nghị và giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trên thực tiễn áp dụng
các quy phạm Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 vào việc bảo vệ quyền lợi chính
đáng của vợ, con khi vợ chồng ly hôn.
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật hôn nhân; Ly hôn; Quyền lợi
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc
do quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình còn là nơi những thành viên cùng chia sẻ tình thương, kinh
nghiệm, những giá trị truyền thống đạo đức, trách nhiệm, sự gắn bó và niềm tự hào về gia
đình.
Từ xưa đến nay, gia đình luôn là tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc, sự bình yên trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên trong xã hội. Sự an bình của mỗi gia đình là tiền đề quan
trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, là nền tảng để mỗi cá nhân vươn tới hoàn
thiện, góp sức mình vào việc xây dựng xã hội phồn vinh, tiến bộ.
Quan hệ gia đình là tổng hòa các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản, các quan hệ
này có sự ràng buộc lệ thuộc lẫn nhau và tác động qua lại một cách hài hòa. Trong một gia
đình thực sự bền vững và hạnh phúc thì mỗi thành viên trong gia đình đều tìm thấy sự thỏa
mãn nhu cầu về vật chất, tình cảm của mình. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng lại bắt nguồn từ
quan hệ nhân thân giữa hai con người với đặc trưng là sự phát sinh quyền, nghĩa vụ khi họ kết
hôn.
Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, quan hệ giữa con
người với con người trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) cũng bị tác động
mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Tòa án các cấp, trong cả nước hàng năm số lượng các vụ
án về HN&GĐ mà Tòa án đã thụ lý giải quyết khoảng trên 50.000 vụ việc, chủ yếu là ly hôn
và tranh chấp tài sản.
Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước" (1884)
Ph.Ănghen đã chỉ ra rằng: Trong ba hình thức bất bình đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại
(bất bình đẳng chủng tộc, giai cấp, giới), thì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ là nguồn
gốc đích thực về mặt lịch sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ
chồng. Từ đó, Ông đã xây dựng lên quan điểm về giải phóng phụ nữ.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
giải phóng phụ nữ, Đảng và Nhà nước ta luôn dành cho phụ nữ một sự quan tâm đặc biệt.
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946), Nhà nước đã ghi nhận quyền bình
đẳng của phụ nữ và nam giới. Quyền bình đẳng đó còn được thể hiện và được bảo vệ cả trong
trường hợp đặc biệt đó là khi vợ chồng ly hôn. Bên cạnh đó không chỉ có phụ nữ mà cả trẻ em
trong trường hợp đặc biệt trên cũng được bảo vệ, trở thành một vấn đề đáng lưu ý và được
quan tâm.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã khẳng định: "Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân
cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và
thông cảm. Cũng như cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đương được đầy đủ trách
nhiệm của mình trong cộng đồng". Khi cha, mẹ ly hôn, trẻ em khó có thể được chăm sóc, bảo
vệ quyền lợi một cách tốt nhất.
Tới nay Việt Nam đã có những chính sách khá đầy đủ và một hệ thống pháp luật tương
đối hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án ly hôn. Điều này
được thể hiện ở các quy định pháp luật HN&GĐ, các công ước quốc tế về bảo vệ quyền của
phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, việc
bảo vệ quyền lợi của người vợ và con trong các vụ án ly hôn liên quan đến vấn đề tài sản còn
nhiều vướng mắc và bất cập. Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em,
trong đó bao gồm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em về tài sản là hết sức quan
trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được điều đó và mong muốn đưa ra những giải pháp, đề xuất thực tế nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Nguyên tắc bảo vệ quyền
lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000" làm công trình nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ phụ nữ và trẻ em là một mảng đề tài lớn được khá nhiều
nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Trong khoa học luật nói chung và Luật
HN&GĐ nói riêng, bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em được nghiên cứu như một cơ sở pháp
lý quan trọng tạo khung sườn cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm thực hiện tốt
mọi chính sách về phụ nữ và trẻ em.
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau đề cập trực tiếp
hoặc có liên quan tới vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, con như sau:
Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình nghiên cứu
khoa học tiêu biểu như: "Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
2
Nam năm 2000", Luận án Tiến sĩ luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004; "Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000,
Luận văn Thạc sĩ luật học, của Bùi Thị Mừng, Trường Đại học Luật Hà Nội; "Giải quyết
tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000", Luận văn Thạc sĩ luật học, của Phạm Thị Ngọc Lan, Khoa Luật - Đại học Quốc gia,
2008... Những luận án, luận văn trên các tác giả đã đi vào nghiên cứu về tài sản của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân và ly hôn, đề cập tới vấn đề bảo vệ quyền lợi phụ nữ song chưa đề cập
tới bảo vệ quyền lợi tài sản của con.
"Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp, của Lê Thu Lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008;
"Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp, của Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2007; "Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn", Khóa luận tốt
nghiệp, của Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007… Các tác giả đã đi vào nghiên
cứu những quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em nói chung hoặc quyền lợi của trẻ em
khi vợ chồng ly hôn mà chưa đề cập tới quyền lợi chính đáng về tài sản của cả phụ nữ và trẻ
em khi vợ chồng ly hôn.
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện, Bình luật khoa học
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập I, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Nguyễn
Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2002; Tưởng Duy Lượng, Bình luận một số án dân sự và Hôn nhân và gia đình, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Đinh Thị Mai Phương, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Trường Đại học Luật Hà Nội,
Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
Ngoài ra còn một số giáo trình và bình luận khoa học Luật HN&GĐ. Hầu hết các công trình
này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân và gia
đình về quan hệ tài sản nói chung giữa vợ, chồng, chưa đề cập hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi
hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên.
Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu thuộc nhóm này chủ
yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), tạp chí Kiểm sát, tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Luật học... Trong đó phải kể đến bài viết của tác giả Nguyễn
Văn Cừ đăng trên tạp chí Luật học (6) năm 2002 với nhan đề "Quyền sở hữu của vợ chồng
theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000"; "Quyền bình đẳng của vợ chồng đối
với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5; "Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc
bảo vệ quyền lợi của phụ nữ", bài viết của TS. Trần Thị Huệ, Đặc san Luật học, số 03/2004…
Phần lớn các bài viết này chỉ đề cập tới một số vấn đề cụ thể của quan hệ tài sản vợ chồng mà
chưa đề cập được sâu sắc vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, con khi vợ
chồng ly hôn.
Tóm lại, cho đến nay dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ
HN&GĐ nhưng các công trình đó hoặc chủ yếu tập trung vào một mảng cụ thể của quan hệ
này hoặc nghiên cứu dưới góc độ tranh chấp về tài sản vợ chồng với ý nghĩa lý luận và thực
tiễn. Chưa có một công trình nào đề cập tới vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các
con khi vợ chồng ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 một cách đầy đủ và toàn
3
diện. Chính vì những lý do đã nêu, tôi đã chọn đề tài trên để làm công trình nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích:
- Nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn
là một vấn đề rất cần thiết đặc biệt là về tài sản. Đây không chỉ đơn thuần là sự tổng hợp các
quy định của pháp luật về quyền phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm để xem xét diễn biến của quá
trình giải phóng phụ nữ và chăm sóc, bảo vệ trẻ em qua từng giai đoạn lịch sử nước ta, qua đó
cũng thấy được sự phát triển của xã hội về vấn đề này.
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của
vợ và con theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000.
- Chỉ ra được vai trò của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 đối với việc bảo vệ quyền lợi
chính đáng về tài sản của vợ, con khi vợ chồng ly hôn, qua đó tìm hiểu thực tiễn áp dụng các
quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000.
- Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trên thực tiễn
áp dụng các quy phạm Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 vào việc bảo vệ quyền lợi chính
đáng của vợ, con khi vợ chồng ly hôn.
Phạm vi:
- Đề tài tương đối phức tạp, nội dung phong phú và có liên quan đến nhiều ngành luật
trong hệ thống pháp luật nước ta nhưng trong phạm vi luận văn tôi xin đề cập tới những vấn
đề sau: Những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các
con khi vợ chồng ly hôn theo quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 đặc biệt là
vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, con về tài sản khi vợ chồng ly hôn.
- Thực tiễn áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 về bảo vệ quyền
lợi chính đáng về tài sản của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn.
- Kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 về bảo vệ quyền lợi
chính đáng về tài sản của vợ và con, nâng cao hiệu quả áp dụng của Luật HN&GĐ vào việc
bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
4. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm phương pháp luận trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
tổng hợp… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp
hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính
đáng của vợ và con khi vợ chồng ly hôn đặc biệt là vấn đề tài sản trong các vụ án ly hôn với
thực tiễn đời sống xã hội.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
ba chương:
4
Chương 1: Lý luận chung về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con
khi vợ chồng ly hôn.
Chương 2: Những nội dung cơ bản về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và
các con khi vợ chồng ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 về bảo vệ
quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGYÊN TẮC
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA VỢ VÀ CÁC CON
KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
1.1. Khái quát chung về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em bằng
pháp luật
1.1.1. Khái niệm về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật
Trên cơ sở tìm hiểu những ý kiến của các nhà khoa học. "Quyền con người là những đặc
quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con
người nắm giữ trong mối liên hệ với Nhà nước và với những cá nhân con người khác". Nội
dung quyền con người bao gồm: các quyền tự do dân chủ về chính trị, các quyền dân sự
(quyền tự do con người), các quyền kinh tế- xã hội. Trên cơ sở khái niệm quyền con người,
khái niệm quyền phụ nữ cần phải được nghiên cứu trong mối liên hệ khăng khít với quyền
con người. Bởi vì, phụ nữ cũng như nam giới họ phải được hưởng tất cả những quyền con
người mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Quyền phụ nữ và trẻ em là một khái niệm dùng để chỉ các quyền con người của phụ nữ và
trẻ em. Vì vậy, bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật là việc Nhà nước ghi nhận
quyền phụ nữ và trẻ em đồng thời ban hành những quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm việc
thực hiện các quyền phụ nữ và trẻ em trên thực tế.Trẻ em có vai trò quan trọng đối với gia
đình, với xã hội, với quốc gia và thế giới. Vì vậy, việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ
ly hôn phải được đặc biệt quan tâm.
1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em khi vợ
chồng ly hôn
Trong xã hội xưa và nay, người phụ nữ góp một vai trò vô cùng quan trọng, vai trò đó thể
hiện ngay trong gia đình, họ vừa là người vợ, người mẹ, người con dâu trong gia đình. Họ còn có
vai trò to lớn với xã hội đó là người lao động trong một xã hội vì vậy người phụ nữ không chỉ có
vai trò rất quan trọng trong gia đình mà còn đối với cả xã hội. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình,
là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không
được sự quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của hôm nay không
thể trở thành những công dân có ích cho xã hội mai sau. Những đứa trẻ có cha mẹ ly hôn phải
chịu thiệt thòi so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa chúng còn chưa thể tự lo cho mình được,
vì vậy cần có sự quan tâm đặc biệt tới đối tượng này.
Thế nhưng trong khi nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI thì khắp mọi nơi trên trái đất phụ nữ
vẫn phải chịu những bất công, bị ngược đãi, bị đánh đập vẫn tồn tại và phổ biến. Sự thiên lệch về
5
giới tính không còn đơn thuần là vấn đề thái độ, nó được thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Khi vợ chồng ly hôn, ngoài việc tình nghĩa mặn nồng vợ chồng bao năm vun đắp
không còn thì ngay cả vấn đề tài sản, sự thiệt thòi vẫn nghiêng về người phụ nữ. Có rất nhiều lý
do dẫn đến sự thiệt thòi đó như quá tin tưởng chồng, hạn chế về hiểu biết pháp luật, trình độ
văn hóa thấp…
Bên cạnh đó, theo các báo cáo hàng năm "Tình trạng trẻ em trên thế giới", trẻ em thường
phải mang những gánh nặng và chịu sự đối xử không bình đẳng. Hầu hết ở các quốc gia trên
thế giới đều đã có những văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền trẻ em thì hàng ngày hàng giờ
những quyền ấy vẫn tiếp tục bị xâm phạm.
1.1.3. Ý nghĩa của việc ghi nhận vấn đề bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em bằng
pháp luật
Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em không chỉ là việc ghi nhận các quyền con người
của phụ nữ, trẻ em mà còn bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện. "Đảm bảo bằng pháp
luật, một trong những điều kiện quan trọng nhất để quyền con người được thực hiện".Bên
cạnh đó ý nghĩa của việc ghi nhận vấn đề bảo vệ quyền lợi của trẻ em bằng pháp luật khi cha
mẹ ly hôn còn là cơ sở pháp lý để nâng cao tinh thần trách nhiệm của cha mẹ. Bảo vệ trẻ em
luôn là một điều được cả xã hội quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện nay.Thể hiện tính chất
công bằng, dân chủ, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.4. Pháp luật quốc tế với vấn đề bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em
Quyền phụ nữ và trẻ em là nội dung cơ bản của quyền con người. Vấn đề bảo vệ quyền
con người nói chung và quyền của phụ nữ, trẻ em nói riêng đã được quy định trong nhiều văn
bản pháp lý quốc tế như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ năm 1979 (CEDAW), Công ước ngày 29/01/1957 do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua quốc tịch của người phụ nữ lấy chồng nước ngoài…
1.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con khi vợ chồng ly hôn dưới góc độ xã
hội và góc độ pháp lý
1.2.1. Về góc độ xã hội
Ngày nay ly hôn đã được nhìn nhận đúng với bản chất tích cực và tiến bộ của nó. Dưới
góc độ pháp lý, ly hôn được ghi nhận là một chế định của Luật HN&GĐ Việt Nam, nó là cơ
sở cho Tòa án và các bên đương sự giải quyết vấn đề ly hôn một cách thấu tình đạt lý, góp
phần giúp con người thoát ra khỏi sự ràng buộc không cần thiết khi tình cảm vợ chồng không
còn.
Sự bùng nổ bất hòa trong gia đình là một đề tài của sự lo âu đối với đứa trẻ: không biết
người ta còn lo cho mình nữa không? Ai sẽ là người đảm trách việc này? Đứa trẻ tự cảm thấy
bị đẩy đưa trong một không khí bất an nơi mà người ta coi chúng như là một vật bung xung
để tranh giành tình cảm và quyền lợi tài chính để có được một số quyền hạn thăm viếng hay
trợ cấp để nuôi chúng
Về khía cạnh xã hội hẳn những đứa trẻ trong hoàn cảnh bố mẹ ly hôn không có được
những điều kiện đầy đủ. Số liệu thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cho thấy 71%
trẻ vị thành niên phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một
nghiên cứu mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên
6
xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn; 28% phàn nàn bố mẹ không quan tâm
đáp ứng nhu cầu cơ bản của các em.
1.2.2. Về góc độ pháp lý
Hôn nhân không chỉ xét ở góc độ xã hội, chính việc xuất phát từ góc độ xã hội sẽ là tiền đề
cho góc độ pháp lý. Nếu như quyết định ly hôn của hai vợ chồng được pháp luật thừa nhận là một
quyền tự do thì trách nhiệm chăm sóc, nuôi dạy con cái không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ
Luật định.
Không chỉ dừng lại ở đó, việc ghi nhận của pháp luật đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi
chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ em khi vợ chồng ly hôn còn là sự tiếp nối truyền
thống đạo đức của dân tộc. Nhà nước đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật nhằm
là hành lang pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và trẻ em như Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2000 kế thừa Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986
kèm theo các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành.
Chương 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
VỀ NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG
CỦA CỦA VỢ VÀ CÁC CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
2.1. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về quyền nhân thân của vợ và các con khi vợ chồng
ly hôn
Khi vợ chồng ly hôn, theo nguyên tắc chung, khi bản án quyết định ly hôn của Tòa án có
hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Người vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết
hôn với người khác. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm
dứt hoàn toàn, dù vợ chồng có thỏa thuận hay không thỏa thuận được thì Tòa án cũng sẽ quyết
định. Nghĩa là những quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn,
gắn bó tương ứng giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (như nghĩa vụ thương yêu, quý trọng,
chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng, quyền đại diện cho
nhau….) sẽ đương nhiên chấm dứt. Một số quyền nhân thân khác mà vợ, chồng với tư cách là
công dân thì không ảnh hưởng, không thay đổi dù vợ chồng ly hôn (như quyền về họ, tên, tôn
giáo, dân tộc, quốc tịch, nghề nghiệp…). Khi cha, mẹ ly hôn thì quyền nhân thân của con cái
không thay đổi. Theo Khoản 1 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng quy định: "Sau khi ly
hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình".
2.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ theo nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng
khi vợ chồng ly hôn
2.2.1. Đối với tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng
7
2.2.1.1. Nguyên tắc xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2000.
Khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: "Vợ, chồng có quyền có
tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài
sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng
cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng tư trang
cá nhân.Như vậy, tài sản riêng của vợ, chồng được xác lập dựa vào thời điểm tài sản đó phát
sinh trước khi kết hôn; dựa vào sự định đoạt của người để lại di sản hoặc tặng cho di sản; dựa
vào sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
2.2.1.2. Giải quyết tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn.
Trước hết, theo các nguyên tắc quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000
thì việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Trường hợp đối với nhà thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng: Nhà ở là tài sản riêng của vợ
hoặc của chồng có thể được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc mua trước khi kết hôn.
Bên vợ hoặc chồng là chủ sở hữu nhà có nghĩa vụ hỗ trợ bên kia đi tìm chỗ ở mới. Nghĩa vụ
hỗ trợ đó có thể là bên sở hữu nhà đồng ý để cho bên kia cùng con cái đến ở ngôi nhà khác
cũng là tài sản riêng của mình hoặc đi thuê một căn hộ để cho bên kia ở hoặc đưa cho bên kia
một khoản tiền để họ tìm chỗ ở mới…
2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng.
2.2.2.1. Nguyên tắc xác định tài sản chung của vợ chồng.
Một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của chế độ HN&GĐ được Nhà
nước ta bảo hộ đó là nguyên tắc vợ chồng bình đẳng. Nguyên tắc này chi phối toàn bộ quyền
và nghĩa vụ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân. Điều 27 Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung".Như vậy, căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng là dựa vào thời điểm phát sinh
tài sản chung và nguồn gốc của các loại tài sản thuộc khối tài sản chung. Về nguyên tắc, thời
điểm phát sinh quan hệ hôn nhân được tính kể từ thời điểm đăng ký kết hôn. Tất cả các loại
tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ này (trừ tài sản riêng của vợ, chồng) đều là tài sản
chung của vợ chồng
Tài sản là quyền sử dụng đất: Quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng. Đây là loại tài sản đặc biệt, có giá trị lớn và nhiều giấy tờ pháp lý liên quan nên
việc giải quyết tranh chấp cũng rất phức tạp.
2.2.2.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Khoản 2 Điều 95 quy định việc chia tài sản chung được giải quyết công bằng và hợp lý
"tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của
mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát
triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi là lao động có nhu nhập".
Trong quá trình chia cần lưu ý "bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên
8
hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình" và "bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất
kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập".
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình bên nhà chồng (hoặc bên nhà vợ) mà
ly hôn: Tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì
vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức
đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào
đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa
thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trường hợp tài sản chung là nhà ở: Vợ chồng có thể tự thỏa thuận với nhau về chia nhà ở
để đảm bảo được tốt nhất giá trị sử dụng của ngôi nhà cũng như điều kiện sinh hoạt chung của
mỗi bên sau khi ly hôn.Nếu vợ chồng không thỏa thuận được việc chia nhà ở thì Tòa án cần
xem xét để giải quyết.
2.2.3. Đối với vấn đề cấp dưỡng của một bên khi vợ, chồng ly hôn
Điều 60 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có
yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng
của mình". Trong trường hợp này cả vợ và chồng đều có quyền yêu cầu được người kia cấp
dưỡng nếu như có lý do chính đáng. Tuy nhiên, những người phụ nữ mới là những người cần
cấp dưỡng hơn.
2.2.4. Đối với quyền thừa kế của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn
Về nguyên tắc khi vợ chồng ly hôn không được hưởng thừa kế của nhau theo luật. Nhưng
vợ, chồng có thể được hưởng thừa kế của nhau theo di chúc nếu người để lại di chúc đồng ý
để lại di sản cho người vợ, chồng còn sống.
Trường hợp vợ chồng đã xin ly hôn nhưng Tòa án chưa xét xử hoặc tuy Tòa án đã mở
phiên tòa xét xử cho họ ly hôn nhưng bản án hoặc quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực
pháp luật (do có kháng cáo hoặc đang trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị) "nếu một người
chết thì người sống vẫn được thừa kế di sản".
2.3. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các con khi cha mẹ ly hôn
2.3.1. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn
Trẻ chưa thành niên chưa đủ sức khỏe và trình độ tham gia vào các quan hệ lao động
phức tạp để tự nuôi sống bản thân. Hơn nữa pháp luật cũng quy định chúng chưa có đủ quyền
và nghĩa vụ của một công dân độc lập. Rất nhiều trường hợp chúng cần có người đại diện để
thực hiện các giao dịch dân sự hoặc tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Vì vậy, chúng
chưa thể sống một cuộc sống độc lập và rất cần sự nuôi dưỡng và dìu dắt của cha mẹ, người
thân. Dù chưa thành niên nhưng con cái vẫn có thể có tài sản riêng theo Điều 44 Luật
HN&GĐ năm 2000: "Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng của con và các thu nhập hợp pháp khác". Tài sản riêng của con là để
phục vụ cuộc sống hiện tại và tương lai của con, vì vậy, người trực tiếp nuôi con thường là
người có trách nhiệm quản lý tài sản đó.
Luật HN&GĐ năm 1986 không chỉ ra mốc thời gian cụ thể mà quy định trong khoảng
thời gian đó nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ là bắt buộc: "Cha, mẹ có nghĩa vụ thương yêu,
nuôi dưỡng, giáo dục con". Nuôi con, dạy dỗ con là nghĩa vụ, trách nhiệm của cha, mẹ xuất
9
phát từ tình yêu thương của cha mẹ đối với con nhưng không phải nghĩa vụ suốt cả cuộc đời
của cha mẹ. Cần thấy rằng, vấn đề cấp dưỡng giữa cha mẹ-con được đặt ra là quyền và nghĩa
vụ có đi có lại nhưng không mang tính đồng thời, tuyệt đối, không mang tính chất đền bù
ngang giá và không thể chuyển giao cho người khác được.
Trường hợp con chưa thành niên có tài sản riêng: Tài sản này có thể được tặng cho, thừa
kế…từ người khác hoặc do chính cha hoặc mẹ hoặc cả cha mẹ tặng cho khi cha mẹ ly hôn.
Nếu vợ chồng ly hôn thì tài sản riêng của con chưa thành niên sẽ được giám hộ bởi người trực
tiếp nuôi con, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ giám sát việc giám hộ.
2.3.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của con đã thành niên bị tàn tật, mất
năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
khi cha mẹ ly hôn
Theo Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2000: "Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi
con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
Tòa án giải quyết".
Các quy định của pháp luật trong vấn đề này đã cố gắng bù đắp cho người con những
thiệt thòi về tinh thần và vật chất khi phải sống trong cảnh cha mẹ ly hôn, là cơ sở pháp lý để
quyền lợi của con đã thành niên nhưng tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự được bảo đảm.
- Trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động mà có tài sản riêng:
Người giám hộ ở đây có thể là cha hoặc mẹ, nghĩa vụ của người giám hộ là "quản lý tài
sản của người được giám hộ" nhằm "bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám
hộ". Trường hợp con đã thành niên mà bị tàn tật tức là con "bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ
phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng
hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn". Điều này không đồng
nghĩa con đã thành niên mà tàn tật bị hạn chế về nhận thức. Vì vậy, trường hợp này con có tài
sản riêng hoàn toàn có thể độc lập quyết định việc quản lý tài sản của mình. Việc quản lý tài
sản của cha, mẹ đối với con đã thành niên bị tàn tật được đặt ra khi con có yêu cầu, hoặc
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của con.
2.3.3. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các con khi cha mẹ ly hôn thông qua quyết
định về cấp dưỡng.
Khi ly hôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị
tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Luật quy định cấp dưỡng là một nghĩa vụ của
người không trực tiếp nuôi con. Nghĩa vụ cấp dưỡng nói chung là nghĩa vụ theo khả năng của
người có nghĩa vụ.
Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa
thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết".
10
2.4. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ em khi nam nữ chung sống
như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà ly hôn
2.4.1. Quy định của pháp luật về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn
"Nam nữ chung sống như vợ chồng" là trường hợp nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật nhưng không đăng ký kết hôn. Về nguyên tắc, pháp luật không công
nhận trường hợp này là vợ chồng.
2.4.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ em trong trường hợp
nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng kí kết hôn mà yêu cầu giải quyết
về tài sản và con
2.4.2.1. Đối với phụ nữ
Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà được pháp luật
công nhận là vợ chồng.
Đây là trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng được pháp luật thừa nhận,
vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ đã được tác giả phân tích ở phần
trên.
Trường hợp nam nữ sống chung với nhau không đăng ký kết hôn mà pháp luật không
thừa nhận là vợ chồng
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 35/2000/QH10, trong trường hợp các bên chung sống
như vợ chồng không có đăng kí kết hôn và không được pháp luật công nhận là vợ chồng mà
có tranh chấp về tài sản, trong trường hợp các bên xảy ra mâu thuẫn, "có yêu cầu ly hôn thì
Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài
sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật HN&GĐ năm 2000 để giải
quyết" (mục 3 khoản c Nghị quyết số 35 của Quốc hội).
2.4.2.2. Đối với trẻ em.
Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà
được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà Tòa án quyết định không công
nhận các bên là vợ chồng thì "Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly
hôn" (khoản 2 Điều 17 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000). Quy định trên của pháp luật thể
hiện tính nhân văn sâu sắc, quyền lợi chính đáng của con được pháp luật bảo vệ không căn cứ
cha mẹ chúng có xác lập quan hệ hôn nhân hay không. Người không trực tiếp nuôi con có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà
không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không được công nhận là vợ
chồng thì con chưa thành niên có thể giao cho một trong hai bên nuôi dưỡng, giáo dục căn cứ
vào điều kiện thực tế của mỗi bên và phải bảo đảm lợi ích về mọi mặt của con. Khi quyết định
mức cấp dưỡng nuôi con, Tòa án phải dựa trên những điều kiện cụ thể của các bên để có
quyết định phù hợp. Trong trường hợp các bên tự thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng thì
xét thấy phù hợp Tòa án công nhận sự thỏa thuận của họ.
11
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ VÀ CON KHI VỢ CHỒNG LY
HÔN
3.1. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn trong thực
tiễn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
3.1.1. Những thành tựu trong việc áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng
của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn
Việc quy định nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong Luật HN&GĐ
năm 2000 hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo vệ
quyền lợi của hai đối tượng đặc biệt trên.
Việc áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ và con khi vợ
chồng ly hôn đã thu được nhiều kết quả quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án ly hôn
trong những năm gần đây: Việc giải thích và áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ năm
2000 tại các Tòa án đã chính xác và có tính đồng bộ hơn, án đọng lại ít hơn các năm trước…
3.1.2. Một số hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của
vợ và các con khi vợ chồng ly hôn
3.1.2.1. Hạn chế trong việc giải quyết về tài sản của vợ chồng
Bên cạnh những thành tựu đã được kể trên thì còn rất nhiều những hạn chế vướng mắc
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con khi vợ chồng ly hôn. Hàng năm theo báo
cáo tổng kết của ngành Tòa án, những tồn tại này thường được nêu ra để các Tòa án địa
phương khi giải quyết án kiện ly hôn có thể tìm được những giải pháp tốt nhất nếu gặp những
vướng mắc đó.
Tồn tại trong việc giải quyết về tài sản, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng còn
nhiều bất cập. Chia tài sản của vợ chồng là vấn đề phức tạp khó khăn đòi hỏi công tác điều tra
phải chính xác. Những sai sót về vấn đề này còn là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kháng cáo,
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Hồ sơ ly hôn tại Tòa án cấp huyện có nhiều vụ điều tra
quá sơ sài.
Trong nhiều vụ kiện, việc định giá của Tòa án thường không sát theo giá thị trường dẫn
tới chia không hợp lý, nhất là khi chia lại không chú ý chia bằng hiện vật làm cho bên nhận
tiền rất thiệt thòi.
3.1.2.2. Hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của con khi vợ chồng
ly hôn.
Việc chia tài sản vẫn chưa chú ý tới vấn đề ai nuôi con để ưu tiên cho người đó hơn. Có
trường hợp vợ nuôi hai con nhỏ, người chồng không phải đóng góp phí tổn nuôi con vậy mà
khi chia tài sản Tòa lại chia cho người chồng nhiều hơn và không phải thanh toán chênh lệch
tài sản cho vợ. Rất nhiều trường hợp người vợ có khó khăn về kinh tế, cộng với việc nuôi tất
cả con chung vậy mà Tòa án vẫn chia tài sản một cách rất bình quân theo tỉ lệ 1:1 như vậy là
chưa bảo vệ được quyền lợi của con và người nuôi con.
Việc cấp dưỡng: Trên thực tế có những trường hợp do người nuôi con không yêu cầu nên
Tòa án không đặt ra vấn đề cấp dưỡng. Nhận định trên của Tòa án có thể là một sai lầm ảnh
12
hưởng không nhỏ tới quyền lợi của con. Việc yêu cầu cấp dưỡng, quy định cấp dưỡng nhằm đảm
bảo cho con mức tối thiểu về sự ổn định đó là điều vô cùng cần thiết.
Về mức cấp dưỡng: mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Nếu có lý do chính đáng,
mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết".
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2000 về việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng
ly hôn
3.2.1. Về vấn đề hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 để các quy định của Luật
này phù hợp với điều kiện của nền kinh tế- xã hội của nước ta.
Thứ hai, những quy định của pháp luật phải mang tính khả thi cao, không quá chung
chung, dễ hiểu và dễ áp dụng nhưng đồng thời cũng phải minh bạch. Đối với tài sản khó xác
định là tài sản của vợ chồng hay tài sản của cha mẹ, thì tài sản mà cha mẹ đã để con sử dụng
trong một khoảng thời gian và không có biểu hiện đòi lại phải được coi là của con.
Thứ ba, cần dự liệu những vấn đề sau: Xác định tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của
vợ chồng, nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn bằng hiện vật, định giá
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, khối tài sản chung của vợ chồng có nhiều quyền sở
hữu nhà, quyền sử dụng đất.
3.2.2. Về công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật
Cần phải tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật cho
mọi đối tượng đặc biệt là phụ nữa và trẻ em, nhất là phụ nữ và trẻ em ở các vùng nông thôn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa để họ có thêm khả năng bảo vệ mình trước pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được thực hiện một cách khả thi trên thực tế đòi hỏi sự đóng góp
đồng bộ từ các nhà làm luật, từ đội ngũ thẩm phán và sự phát huy hơn nữa về tuyên truyền
phổ biến pháp luật trong cộng đồng, xã hội.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại bảo vệ quyền lợi nói chung, quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ
em nói riêng là một phần của chương trình Quốc gia vì sự tiến bộ của người phụ nữ. Dẫu biết,
cho tới ngày nay sự nhận thức và khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình trước pháp luật của
phụ nữ được nâng lên rất nhiều. Phụ nữ ngày nay đã khẳng định được ngày càng rõ nét sự giỏi
giang, đảm đang và tri thức của mình nhưng phụ nữ ở những miền vùng sâu xa, nông thôn
13
vẫn còn rất nhiều hạn chế về nhận thức đặc biệt về pháp luật. Vì vậy, việc thực hiện nguyên
tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ và con khi vợ chồng ly hôn là sự thể hiện
sinh động và sâu sắc sự quan tâm của Nhà nước, của xã hội với phụ nữ và trẻ em, góp phần
xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
Trong nội dung của luận văn tác giả đã đưa ra một hướng tiếp cận vấn đề khá mới, đó là
tiếp cận vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con ở phương diện tài sản, từ đó chỉ ra
rằng muốn bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ em pháp luật cần quy
định rõ ràng, đồng nhất hơn nữa về tài sản chung, riêng của vợ và chồng.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các án kiện ly hôn trong thời gian qua cho thấy vấn đề bảo vệ
quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ và con đặc biệt là con chưa thành niên còn tồn tại
nhiều bất cập. Ví dụ như: hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Theo quy định tại Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 và Điều 8 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP thì thực chất đã có "xung đột" với khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000
về nguyên tắc xác lập tài sản chung của vợ chồng. Vì, nếu như khoản 1 Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 2000 quy định về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được xác lập gồm
những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh
và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản mà vợ
chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung... Nhưng theo quy định chung, sau khi chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì những tài sản mà vợ chồng được chia,
kể cả hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản được chia, những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh lại được coi là tài sản riêng của vợ chồng.
Một vấn đề nữa, luật chỉ quy định là "sau khi chia" tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân mà không dự liệu rõ, có thể có hai trường hợp là vợ chồng tự thỏa thuận hoặc có
yêu cầu tòa án giải quyết chia một phần hoặc chia toàn bộ chung trong thời kỳ hôn nhân.
Vậy, hiểu "sau khi chia" mà hậu quả pháp lý của "sau khi chia" tài sản trong thời kỳ hôn
nhân có phụ thuộc vào việc chia một phần hay toàn bộ tài sản chung của vợ chồng? Điều này
cần thiết phải được dự liệu trong luật.
Trong trường hợp một bên nuôi con và bên kia không phải đóng góp phí tổn nuôi con,
việc chia tài sản đặc biệt phải quan tâm tới quyền lợi của con và người nuôi con. Vì vậy, trong
những vụ kiện ly hôn mà con cái chỉ do một bên trực tiếp nuôi dưỡng, tài sản phải được chia
nhiều hơn cho người đó.
Bảo vệ quyền lợi chính đáng nói chung và về tài sản của vợ và con khi vợ chồng ly hôn
trong giải quyết các án kiện ly hôn là biện pháp hữu hiệu để đảm bảo được nguyên tắc đó trên
thực tế. Việc thực hiện nguyên tắc trên thực tế là sự thể hiện sinh động và sâu sắc sự quan tâm
của Nhà nước, của xã hội đối với phụ nữ và trẻ em, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh,
công bằng, dân chủ và văn minh.
References
14
1.
Nguyễn Hồng Bắc (2004), "Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam", Luật học, (3).
2.
Nguyễn Công Bình (2009), "Bảo vệ quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật Dân sự
2005", ledinhnghi.net, ngày 15/6.
3.
Bộ Tư pháp (2000), Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước cộng hòa Pháp ngày 01/02/2000, (Tài liệu lưu trữ), Hà Nội
4.
Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật.
5.
Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn, Hà Nội.
6.
Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi tiết thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Hà Nội.
7.
Chính phủ (2001), Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
8.
Trần Chung (1973), Bộ dân luật, Nhà in Trần Chung, Sài Gòn.
9.
Chủ nghĩa Mác - Lênin với vấn đề hôn nhân và gia đình (1987), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Cừ (2000), "Vấn đề hôn nhân thực tế theo Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam", Luật học, (5).
11. Nguyễn Văn Cừ (2003), "Quyền bình đẳng vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung
hợp nhất theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Nhà nước và pháp luật, (5).
12. Nguyễn Văn Cừ (2003), Giải quyết hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Cừ (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Nghiên cứu phát hiện những bất cập của
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
14. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Các văn kiện quốc tế về quyền con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Trần Thị Huệ (2004), "Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo vệ quyền lợi
của phụ nữ", Đặc san Luật học, (3), Trường Đại học Luật Hà Nội.
15
16. Nguyễn Thị Lan (1999), "Cần hiểu thêm hôn nhân thực tế như thế nào", Luật học, (3).
17. Liên hợp quốc, Công ước về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất.
18. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em.
19. C.Mác - Ph.Ăngghen (1978), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Bùi Thị Mừng (2004), "Về việc xem xét nguyện vọng của con khi giải quyết vấn đề giao
con cho ai nuôi trong các vụ án ly hôn", Luật học, (5).
21. Bùi Thị Mừng (2004), Bảo vệ quyền phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
22. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
23. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
24. Quốc hội (1959), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
25. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
26. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
27. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
28. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
29. Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6.2000 về việc thi hành Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.
30. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
31. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
32. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
33. Trần thanh Thảo, "vai trò của phụ nữ trong gia đình và cuộc sống",
http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?idcha=999&cap=3&id=9015.
34. Tòa án nhân dân tối cao (1972), Thông tư số 112/NCPL ngày 19/8 hướng dẫn xử lý về dân sự
những hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn, Hà Nội.
16
35. Tòa án nhân dân tối cao (1988), Nghị quyết số 01/NQ-TANDTC ngày 20/01của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Công văn số 109/2001/KHXX ngày 4/9 về việc xác định
giá quyền sử dụng đất và định giá nhà, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6 về việc giải
đáp các vấn đề nghiệp vụ, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2006, Hà Nội.
40. Tòa án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2007, Hà Nội.
41. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2008, Hà Nội.
42. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2009, Hà Nội.
43. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2010, Hà Nội.
44. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp (2001), Thông tư
liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01 hướng dẫn thi hành
nghị quyết 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
45. Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân tối cao (2011), Quyết định Giám đốc thẩm số
227/2011/DS-GĐT ngày 23/3, Hà Nội.
46. Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân tối cao (2011), Quyết định Giám đốc thẩm số
406/2011/DS-GĐT ngày 26/5, Hà Nội.
47. Trung tâm từ điển học (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
48. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập I, tập II, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
50. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh Người tàn tật, Hà Nội.
17
51. Nguyễn Thị Thu Vân (2005), "Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam", Nhà nước và pháp
luật, (8).
52. Viện thông tin khoa học xã hội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người (1995), Quyền
con người trong thế giới hiện đại, Nhà in Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều Hình luật, Nxb Pháp lý, Thành phố Hồ Chí
Minh.
54. Viện Sử học Việt Nam (1994), Hoàng Việt luật lệ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18
VUI LÒNG TẢI VỀ
ĐỂ XEM BẢN FULL
ĐẦY ĐỦ !
VUI LÒNG TẢI VỀ
ĐỂ XEM BẢN FULL
ĐẦY ĐỦ !
- Xem thêm -