ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ LAN
NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ LAN
NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình Sự
Mã số: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI – 2012
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 7
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........................... 7
2. TÌNH HÌNH NGIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........................................................... 9
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................... 9
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................ 10
5. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .............. 10
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN .................................................................. 11
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM VÀ TÀI
SẢN CỦA CÔNG DÂN. ............................................................................. 13
1.1. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN. ......................... 13
1.2. CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
DANH DỰ, NHÂN PHẨM VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN. ................... 18
1.3. VAI TRÒ, Ý NGHĨA, NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO HỘ
TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ. ........................................................ 22
1.3.1. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC
KHỎE, DANH DỰ VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ...................................................................................................... 22
1.3.2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
DANH DỰ VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN. ................................................. 25
1.4. NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ VÀ
TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI................................................. 27
1.4.1. NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ VÀ
TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM ĐẾN NĂM 1945. ............................................................. 27
3
1.4.2. NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ,
NHÂN PHẨM VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI....................................................................... 41
CHƢƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ,
NHÂN PHẨM VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN. ..................................... 47
2.1. PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC NĂM 2003 VỀ
NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN
PHẨM VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN. ................................................... 47
2.2. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ NGUYÊN TẮC BẢO HỘ
TÍNH MẠNG SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM VÀ TÀI SẢN CỦA
CÔNG DÂN................................................................................................. 57
2.2.1. PHÂN LOẠI NGUYÊN TẮC ............................................................... 58
2.2.2. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN: ............................. 59
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN
THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN
CỦA CÔNG DÂN ...................................................................................... 74
3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG,
SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN
TRONG THỰC TẾ. ..................................................................................... 74
3.1.1. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN ĐƢỢC PHÁP LUẬT BẢO
HỘ VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA
CÔNG DÂN. ................................................................................................ 75
3.1.2. THỰC TIỄN VIỆC ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG,
SỨC KHỎE, DANH DỰ , NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN CỦA
CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG. ...................................................... 78
3.2. NGUYÊN NHÂN, HẠN CHẾ CỦA VIỆC THỰC THI NGUYÊN TẮC
BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN
CÔNG DÂN................................................................................................. 80
4
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO TÍNH KHẢ THI CỦA NGUYÊN
TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN CỦA
CÔNG DÂN................................................................................................. 83
3.3.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ
NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, DANH DỰ, NHÂN PHẨM, TÀI SẢN
CỦA CÔNG DÂN. ........................................................................................ 83
3.3.2. NÂNG CAO TÍNH ĐỒNG BỘ CỦA CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP NHẰM
ĐẢM BẢO CHO NGUYÊN TẮC NÀY ĐƢỢC THỰC THI HIỆU QUẢ. ....... 84
3.3.3. TỔ CHỨC KIỂM TRA, THANH TRA TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC BẢO HỘ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN
PHẨM, TÀI SẢN CỦA CÔNG DÂN. . .......................................................... 85
KẾT LUẬN ................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 87
5
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
TTHS
Tố tụng hình sự
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm trở lại đây nền kinh tế của nƣớc ta ngày càng thay
đổi và phát triển mạnh mẽ, vƣơn lên tầm quốc tế, hòa nhập với sự phát triển
chung của cả thế giới. Tuy nhiên bên cạnh sự đi lên đó tình hình tội phạm
cũng ngày càng tăng về số lƣợng, biến tƣớng dƣới nhiều hình thức và xảy ra
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kéo theo đó là nhiều hệ lụy nguy hiểm.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao tính thực thi của
các văn bản pháp luật, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa thì hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng ngày
càng đƣợc chú trọng xây dựng và hoàn chỉnh.
Với mục tiêu phát triển là vì con ngƣời, do con ngƣời và đặt con ngƣời
vào vị trí trung tâm, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã đánh dấu một bƣớc phát
triển mới của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Đây là văn bản pháp luật
quy định đầy đủ và có hệ thống các vấn đề về Tố tụng hình sự nhƣ: Các
nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự; trình tự thủ tục giải quyết các vụ án
hình sự; Thi hành án hình sự; Thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm và các thủ tục
đặc biệt. Nó thể hiện cái nhìn tổng quan của các nhà làm luật về các mối quan
hệ trong xã hội, trong đó có những vấn đề đƣợc đƣa lên hàng nguyên tắc
mang tính chỉ đạo chung.
Các quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản là
những quyền cơ bản của con ngƣời, việc bảo đảm cho những quyền đó đƣợc
thực thi thể hiện sự văn minh của quốc gia đó ở trình độ nào. Tuy nhiên hiện
nay việc các quyền này bị xâm hại vẫn đang là một vấn đề nhức nhối cho xã
hội. Các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của công dân không chỉ đƣợc quy định trong Chƣơng XII và Chƣơng XIV
BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) mà còn diễn ra ở nhiều loại tội
7
phạm khác nhau với tính chất là một loại hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra
hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Hiện nay việc tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của
công dân bị xâm hại không chỉ do việc quy định pháp luật chƣa nghiêm, còn
khe hở mà đôi khi còn do hành vi của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc của
cơ quan tiến hành tố tụng lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để xâm hại
đến những quyền này. Đây là một vấn đề xã hội nhức nhối mà Đảng và nhà
nƣớc ta đang tích cực loại bỏ, thể hiện quyết tâm qua những kỳ Đại hội Đảng,
các Nghị quyết của Bộ Chính trị hay các văn bản chính trị khác. Nhƣ vậy, ta
có thể thấy tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân bị
xâm hại không những gây ra nỗi đau về thể xác, tinh thần và vật chất của nạn
nhân mà nó còn gây ra những thiệt hại khác cho xã hội về mặt đạo đức, làm
ảnh hƣởng xấu đến tƣ tƣởng và lối sống của một bộ phận dân cƣ. Nó đã tác
động xấu đến môi trƣờng an ninh trật tự, an toàn xã hội và tạo nên tâm lý bất
an trong tiềm thức của mỗi con ngƣời. Do vậy khi các quyền này bị xâm hại
hoặc bị đe dọa xâm hại, ngƣời có quyền, lợi ích hợp hợp pháp có quyền yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ. Chính vì vậy, việc bảo hộ các quyền này
đã đƣợc nâng lên thành một trong những nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, có tính chất nhƣ “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động tố tụng.
Việc nghiên cứu nguyên tắc trên là một vấn đề vô cùng quan trọng, Bộ
Luật Tố tụng hình sự 2003 đã có những quy định khá đầy đủ về vấn đề này,
tuy nhiên để có một cách hiểu thống nhất và áp dụng đƣợc một cách hiệu quả
nguyên tắc là một việc rất khó khăn đòi hỏi sƣ nỗ lực, phối kết hợp giữa các
cơ quan tƣ pháp với nhau. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo hộ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân còn nhiều bất cập và
chƣa triệt để, do vậy tôi chọn vấn đề: “Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân trong luật Tố tụng hình
sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình với mong muốn có thể
8
đóng góp một phần vào quá trình nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của
pháp luật hiện hành về bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và
tài sản của công dân.
2. Tình hình ngiên cứu đề tài
Nằm trong nhóm các nguyên tắc về bảo vệ quyền công dân, nguyên tắc
bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân
trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề rộng và khá phức tạp, bởi vậy
trong những năm gần đây số lƣợng các bài viết, công trình nghiên cứu về vấn
đề này còn rất hạn chế. Ta có thể kể đến một số bài viết, một số nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này nhƣ: “Các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình
sự - Những đề xuất sửa đổi bổ sung”. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế Luật 24, năm 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí; “Những nguyên tắc cơ bản
của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” - Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà
Nội, năm 2000; hay “Bảo vệ quyền con ngƣời trong Luật hình sự, Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam” - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2004 của tác
giả Trần Quang Tiệp…. Các nghiên cứu đã giúp làm sáng tỏ sâu sắc và khái
quát nội dung các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự, nhƣng các bài
viết nghiên cứu cụ thể về một nguyên tắc thì chƣa nhiều. Do vậy, việc chọn
đề tài này làm luận văn tôi chỉ đề cập đến một vấn đề nhỏ, một trong số các
nguyên tắc với mong muốn đóng góp một phần nào đó vào việc xây dựng
nguyên tắc này trở nên hoàn thiện và mang tính khả thi cao.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận chung về
bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân;
pháp luật Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới về Bảo hộ tính mạng sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân; thực tiễn áp dụng nguyên
tắc này.
9
Với đề tài “Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của công dân trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam” có rất
nhiều vần đề cần bàn luận, tuy nhiên trong phạm vi khuôn khổ một luận văn
thạc sĩ, tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến nguyên tắc
này nhƣ: Khái niệm về nguyên tắc bảo hộ, các quy định của pháp luật hiện
hành về quy tắc này từ đó đƣa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tôi sử dụng phƣơng pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
khác nhƣ : phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, so sánh.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a. Mục đích
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm luận giải một cách khoa học về
những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến Nguyên tắc bảo hộ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân, qua đó có cách
nhìn tổng quát về mọi khía cạnh của vấn đề, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp để nâng cao hiệu quả của việc thực thi Nguyên tắc này trong đời sống.
b. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề về lý luận của Nguyên tắc bảo hộ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân nhƣ: Khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa, sự phát triển của pháp luật tố tụng Việt Nam qua các nguyên
tắc này.
- Phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 về Nguyên bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản
của công dân. So sánh pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến trƣớc năm 2003
về nguyên tắc này.
10
- Tìm hiểu quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới về Nguyên
tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân
- Nêu lên thực trạng áp dụng pháp luật về nguyên tắc trên, phân tích
đánh giá đề từ đó thấy những bất cập, vƣớng mắc và tính khả thi của nguyên
tắc này trong thực tế nhằm hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của
công dân.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn đƣợc kết cấu thành 3 phần: Lời mở đầu, nội dung và kết luận
Phần nội dung gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về Nguyên tắc bảo hộ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân trong luật Tố tụng hình
sự Việt Nam.
- Chƣơng II: Những Quy định của pháp luật Việt Nam về Nguyên tắc
bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân.
- Chƣơng III: Thực tiễn và những kiến nghị để hoàn thiện các quy định
của pháp luật về “Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của công dân”
Danh mục tài liệu tham khảo
11
12
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO HỘ
TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM VÀ TÀI SẢN
CỦA CÔNG DÂN.
1.1. Khái niệm nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của công dân.
Trong suốt chiều dài lịch sử của loài ngƣời, bảo hộ là một khái niệm đã
hình thành từ rất lâu, song chủ yếu đƣợc sử dụng trong lĩnh vực chính trị. Bảo
hộ lúc đó không chỉ mang ý nghĩa thuần túy của nó là giữ gìn, che chở (bảo là
giữ gìn, hộ là che chở) mà còn có nghĩa nhƣ áp đặt và cai trị. Tuy nhiên ý
nghĩa của từ bảo hộ chúng ta đang nghiên cứu ở đây không mang ý nghĩa nhƣ
vậy. Theo từ điển Tiếng việt “bảo hộ” có nghĩa là: “bảo vệ, giữ gìn, che chở,
không để bị tổn thất”; “nguyên tắc” có nghĩa là: “Điều cơ bản định ra, nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt các việc làm”. Nhƣ vậy “nguyên tắc bảo hộ
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân” chính là
những tƣ tƣởng, chỉ đạo nhằm bảo vệ cho quyền và lợi ích chính đáng của
công dân trƣớc những hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại và bảo đảm cho
các quyền đó đƣợc thực thi một cách đầy đủ.
Trong lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc bảo hộ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân là một trong
những nguyên tắc hàng đầu đƣợc Đảng và nhà nƣớc ta quan tâm, xây dựng từ
Hiến pháp đầu tiên của nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa năm 1946, cho đến
các văn kiện pháp lý sau này. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo
hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu
không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện kiểm sát nhân dân, trừ trƣờng hợp phạm tội qủa tang. Việc bắt và giam
13
giữ ngƣời phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục
hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Việc bảo vệ những quyền cơ bản này của công dân đồng nghĩa với việc
đảm bảo cho xã hội đƣợc ổn định và phát triển. Chính vì lẽ đó, không chỉ quy
định trong Hiến pháp, nhà nƣớc ta còn ban hành những văn bản pháp luật
hình sự để điều chỉnh, bảo hộ vấn đề này. Điều này đƣợc thể hiện rõ tại Điều
7 - Bộ luật TTHS năm 2003 và thể hiện sự điều chỉnh chi tiết trong BLHS
năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định rõ các loại tội phạm xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và chế tài xử lý.
Cụ thể trong Bộ luật này khẳng định việc nhà nƣớc bảo hộ các quyền về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân ghi nhận tại
Chƣơng XII (từ điều 93 đến 122) và Chƣơng XIV (từ điều 133 đến 145).
Không chỉ trực tiếp quy định tại hai chƣơng này, việc bảo hộ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân còn gián tiếp thể hiện qua
nhiều Chƣơng khác của BLHS ví dụ nhƣ các chƣơng về tội phạm ma túy,các
tội vi phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng hay các tội phạm về chức
vụ…
Dù đƣợc quy định trực tiếp tại hay gián tiếp tại các chƣơng, điều khác
của BLHS thì các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và tài sản của công dân đều chung một đối tƣợng, đều lấy tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tài sản làm mục tiêu tấn công. Nhƣ ta đã biết “tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm” đều là các quyền gắn liền với nhân thân của
con ngƣời và không thể chuyển giao, vì thế nó đặc biệt quan trọng đối với mỗi
cá nhân. Nó chính là những quyền cơ bản nhất, quan trọng và quý giá mà một
con ngƣời đang sống cần đƣợc hƣởng, do đó việc bảo vệ các quyền này không
chỉ là nghĩa vụ mà còn là trách nhiệm của nhà nƣớc nhằm duy trì sự ổn định
cho xã hội và tạo tâm lý an tâm cho ngƣời dân. Bên cạnh các quyền nêu trên,
quyền của công dân về “tài sản” cũng là một trong các quyền quan trọng cần
14
bảo vệ. Việc tài sản của công dân bị các hành vi phạm tội xâm hại thực chất
diễn ra rất phổ biến trong thực tế. Nó không chỉ ảnh hƣởng đến kinh tế, lợi ích
của một cá nhân mà nó còn ảnh hƣởng lớn đến tâm lý của ngƣời bị hại, trực
tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hƣởng đến các quyền khác của công dân, gây mất
trật tự, an toàn xã hội (ví dụ tội cƣớp giật tài sản thì đối tƣợng của hành vi cƣớp
giật ở đây là tài sản, tuy nhiên hành vi phạm tội này có thể gây nguy hiểm đến
tính mạng của ngƣời khác nếu nhƣ ngƣời bị hại đang tham gia giao thông). Vì
vậy cũng nhƣ các quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền
về tài sản cũng đƣợc pháp luật bảo hộ chặt chẽ.
Trong nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và
tài sản của công dân, ngoài việc xác định đối tƣợng đƣợc bảo hộ nhƣ đã nêu ở
trên, chúng ta cần xem xét xem chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ các quyền này là
ai? Việc nhà nƣớc đặt ra pháp luật để đảm bảo công bằng và quản lý xã hội
cũng đồng nghĩa với việc nhà nƣớc chính là chủ thể cao nhất có nghĩa vụ bảo
vệ các quyền này của công dân. Tuy nhiên nhà nƣớc là một chủ thể mang tính
trừu tƣợng, để chỉ bộ máy công quyền đƣợc giai cấp cầm quyền thiết lập ra
nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp đó. Do vậy việc bảo hộ các quyền của
công dân sẽ do các cơ quan thực thi pháp luật thực hiện hay cụ thể hơn nữa là
các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Một hành vi phạm
tội khi nó vi phạm các điều đã quy định trong BLHS đang có hiệu lực và một
ngƣời chỉ bị coi là phạm tội khi có phán quyết có hiệu lực của Tòa án. Nhƣ
vậy ta có thể thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng là
chủ thể duy nhất đƣợc phép thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành hành án nhằm mục đích đem lại công bằng và bảo đảm quyền lợi tốt
nhất cho ngƣời bị hành vi phạm tội xâm hại.
Bên cạnh việc xác định chủ thể bảo hộ, việc xác định cách thức, biện
pháp bảo vệ các quyền nêu trên cũng cần quan tâm tìm hiểu. Nhƣ ta biết pháp
luật dƣới góc độ luật học đƣợc hiểu nhƣ là tổng thể các quy tắc xử sự có tính
15
chất bắt buộc chung do nhà nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền, đƣợc nhà nƣớc đảm bảo bằng các biện pháp giáo dục, thuyết
phục và cƣỡng chế. Chính vì nó là những quy tắc chung cho tất cả mọi ngƣời
và bắt buộc phải tuân theo, cho nên pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất bảo vệ
cho các quyền của công dân. Pháp luật đƣợc thực thi là nhờ hàng loạt các bảo
đảm của nó thông qua việc: xác định rõ chủ thể thực thi pháp luật, đối tƣợng
đƣợc bảo vệ, các hành vi bị cấm; hệ thống chế tài và hàng loạt các biện pháp
khác nhƣ truyền truyên, giáo dục, thuyết phục…Tuy nhiên nói nhƣ vậy không
có nghĩa việc bảo vệ các quyền này của công dân chỉ thuộc về nhà nƣớc và
pháp luật, mà mỗi ngƣời dân phải có trách nhiệm đối với quyền đƣợc bảo hộ
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản thể hiện qua việc:
- Tôn trọng tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của
ngƣời khác, không có những hành vi trái quy định của pháp luật hình sự xâm
hại đến các quyền này.
- Tự bảo vệ quyền của chính mình bằng các hành vi tuân thủ pháp luật
của nhà nƣớc, tôn trọng các giá trị đạo đức xã hội và các biện pháp khác.
- Nhanh chóng, kịp thời phê phán, tố giác các việc làm sai trái tới các
cơ quan thực thi pháp luật nhằm bảo vệ kịp thời các quyền nêu trên.
Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản
của công dân đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật
hình sự. Việc quy định nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của công dân khẳng định sự tiến bộ, dân chủ, văn minh
của pháp luật. Pháp luật thế giới đã công nhận các quyền của con ngƣời thông
qua Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 hay Hiến chƣơng Liên
Hợp quốc, vì vậy việc pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo hộ cho các quyền
đó thể hiện sự tiếp thu những giá trị văn minh về lập pháp của thế giới. Ngoài
ra kể từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, việc thừa nhận ngày càng đầy đủ
các quyền nêu trên của mỗi công dân qua từng thời kỳ cho thấy sự tiến bộ
16
trong kỹ thuật lập pháp của nƣớc ta, đáp ứng đƣợc nhu cầu cải cách luật pháp
và sự phát triển của xã hội
Nguyên tắc này còn góp phần bảo hộ quyền con ngƣời trong luật
TTHS, bởi nó nằm trong số các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, mang tính
chỉ đạo chung cho mọi hoạt động tố tụng. Đây là một trong các nguyên tắc cụ
thể hóa cho các quyền của con ngƣời trong luật TTHS, vì vậy thực hiện tốt
nguyên tắc này sẽ góp phần bảo vệ một cách toàn diện cho các quyền con
ngƣời.
Việc thực hiện nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của công dân còn giúp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nói
nhƣ vậy bởi đối với mỗi cá nhân, các quyền nêu trên đều là một trong những
quyền cơ bản của con ngƣời, một khi các quyền lợi đó bị xâm phạm mà
không có cơ chế bảo vệ thích đáng thì việc mất lòng tin của dân chúng vào
pháp luật nhà nƣớc là điều không thể tránh khỏi. Điều này sẽ dẫn đến việc vi
phạm pháp luật thƣờng xuyên, tùy tiện xử lý kẻ vi phạm bất chấp pháp luật và
hệ quả là sự mất ổn định trong xã hội. Vì thế thực hiện nghiêm minh nguyên
tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội.
Không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, nguyên tắc này
còn là một trong các nguyên tắc có vai trò xuyên suốt cả quá trình giải quyết
vụ án, từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc này trong giai đoạn điều tra giúp không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan cho ngƣời vô tội, nhanh chóng, kịp thời bảo vệ và ngăn
chặn hành vi phạm tội; trong giai đoạn truy tố giúp cho việc truy tố đúng tội;
trong giai đoạn xét xử giúp xử lý đúng ngƣời, đúng tội, trừng trị thích đáng
những kẻ vi phạm pháp luật hay trả lại trong sạch cho những ngƣời vô tội;
trong giai đoạn thi hành án việc thực thi nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho
bản án đƣợc thi hành nghiêm minh, đúng pháp luật, bảo vệ đƣợc lợi ích chính
17
đáng của ngƣời dân nhằm bù đắp những thiệt hại mà họ phải chịu do hành vi
phạm tội gây ra.
Với những phân tích nêu trên ta có thể định nghĩa: Nguyên tắc bảo hộ
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân là một
trong các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS nhằm mục đích bảo vệ các quyền
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân trƣớc sự
xâm hại của các hành vi vi phạm pháp luật và bảo đảm cho các quyền đó
đƣợc thực thi nghiêm minh trong quá trình giải quyết vụ án.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và tài sản của công dân.
Để xây dựng một nguyên tắc, các chuyên gia lập pháp bao giờ cũng
phải căn cứ trên những cơ sở thực tiễn và lý luận để có thể xây dựng đƣợc
một nguyên tắc có tính bao quát và định hƣớng cao nhất trong mọi hoạt động
tố tụng. Cũng nhƣ một số các nguyên tắc khác của Luật Tố tụng hình sự,
nguyên tắc “bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của
công dân” nằm trong nhóm các nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của công
dân, hay nói cách khác nó là sự thể hiện cụ thể của “Nguyên tắc tôn trọng và
bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” (Điều 4 BLTTHS năm 2003). Ngoài
quy định về việc bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài
sản của công dân nó còn mang đầy đủ các đặc trƣng của nhóm nguyên tắc
này nhƣ tăng cƣờng dân chủ trong Tố tụng hình sự, đảm bảo pháp chế XHCN
hay cao hơn là bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ các lợi ích của nhà nƣớc và công
dân, tổ chức; đấu tranh phòng chống tội phạm; giáo dục pháp luật, phòng
ngừa tội phạm. Ngoài những đặc trƣng nêu trên, đi sâu phân tích ta sẽ thấy
việc xây dựng lên Nguyên tắc này còn căn cứ vào những nguyên nhân sau:
- Nguyên tắc này đƣợc xây dựng do đòi hỏi của sự phát triển xã hội. Với
một quốc gia phát triển hay đang phát triển, việc xây dựng kinh tế luôn phải đi
đôi với việc đảm bảo đời sống cho con ngƣời, có nhƣ vậy xã hội mới phát triển
18
bền vững đƣợc. Tuy nhiên, xã hội càng phát triển thì các tệ nạn phát sinh ngày
càng nhiều, với lối sống thực dụng và chạy theo vật chất của một bộ phận dân
cƣ ngày nay việc chỉ khƣ khƣ quan tâm cho lợi ích của mình mà sẵn sàng coi
thƣờng thậm chí xâm hại đến lợi ích của ngƣời khác đã tạo một tâm lý bất an
trong xã hội. Vì vậy Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của công dân đƣợc xây dựng đã thể hiện sự quan tâm của
ngƣời dân ngày càng cao đối với việc bảo vệ các lợi ích của họ, đồng thời cũng
tạo ra một khuôn khổ pháp lý rõ ràng nhằm điều chỉnh cách ứng xử giữa ngƣời
với ngƣời, giữa các cơ quan có thẩm quyền với ngƣời dân. Việc xây dựng
nguyên tắc này là hoàn toàn tất yếu và phù hợp với bối cảnh xã hội hiện nay.
- Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài
sản của công dân đƣợc xây dựng trên cơ sở pháp luật quốc tế mà Việt Nam
tham gia. Việc Việt Nam tham gia các điều ƣớc quốc tế không chỉ thể hiện xu
hƣớng hội nhập, vƣơn ra thế giới của nƣớc ta mà việc này còn giúp cho các
nhà lập pháp có một một nguồn dữ liệu tham khảo quý giá đối với quá trình
xây dựng luật trong nƣớc. Tôn trọng các quyền về tính mạng, sức khỏe, danh
sự, nhân phẩm và tài sản của công dân không chỉ thể hiện trong pháp luật Việt
Nam mà nó còn là điều mà tất cả các nƣớc khác trên thế giới ghi nhận. Trong
Hiến chƣơng Liên hợp quốc có viết:
“…khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con ngƣời và
các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi ngƣời không phân biệt chủng tộc, giới
tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” (mục 3, điều 1)
Hay trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 đều đề
cao các quyền của con ngƣời nhƣ: quyền tự do, bình đẳng, quyền sống, quyền
đƣợc bảo vệ “cuộc sống riêng tƣ, gia đình, nơi ở hoặc thƣ tín” cũng nhƣ
“danh dự hoặc uy tín cá nhân” (điều 12 - Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân
quyền).
19
Nhƣ vậy ta thấy việc Bộ luật TTHS xây dựng nguyên tắc này cũng
chính là sự học hỏi, thừa nhận những giá trị, tinh hoa của pháp luật quốc tế.
- Việc xây dựng nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của công dân còn do đòi hỏi cũng nhƣ đáp ứng nhu cầu của
việc cải cách thế chế. Nhƣ ta đã biết Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng
5 năm 2005 của Bộ Chính trị đã nhận định:
“Nhìn chung hệ thống pháp luật nƣớc ta vẫn chƣa đồng bộ, thiếu thống
nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống”, “… Thiết chế bảo đảm thi
hành pháp luật còn thiếu và yếu”.
Do vậy trong định hƣớng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
bên cạnh các vấn đề khác, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đảm bảo
quyền con ngƣời, quyền tự do, dân chủ của công dân rất đƣợc Bộ Chính trị
chú trọng, trong đó nêu rõ:
“…Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nƣớc đối với các quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc, nhất là
toà án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…”
Bên cạnh chủ trƣơng hoàn thiện pháp luật, việc xây dựng nguyên tắc
bảo hộ tính mang, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân còn
nhằm đáp ứng chủ trƣơng cải cách hành chính của Đảng và nhà nƣớc ta. Việc
cải cách hành chính đã đƣợc Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đặt ra lần đầu
tiên, trong đó Đại hội đã xác định nguyên nhân và chỉ ra nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội là công tác tổ chức và đề ra chủ chƣơng
thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nƣớc. Đến những
những năm sau này, việc cải cách hành chính luôn đƣợc nhắc tới trong các kỳ
Đại hội Đảng và đƣợc coi là một nhiệm vụ quan trong trong việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nƣớc, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong
sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực, từng bƣớc hiện đại hóa quản
20
- Xem thêm -