Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm vi khuẩn lactic có hoạt tính sinh học và chế phẩm tỏi trong sản xuất
LỜI MỞ ĐẦU
Sản phẩm thịt lờn men được biết đến từ lâu nhờ việc bổ sung muối và
đường vào thịt để thu được một loại sản phẩm ăn ngon và giá trị dinh dưỡng cao.
Thực tế việc bổ xung này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển một vài loài vi
sinh vật có sẵn trong sản phẩm để sinh ra một số chất làm cho sản phẩm có hương
vị đặc biệt và có tác dụng bảo quản sản phẩm lõu bị hỏng.
Ngày nay người ta đã biết rằng các đặc tớnh quý bỏu đó của sản phẩm là
kết quả của quá trình lên men đường thành axit lactic, thực hiện bởi nhóm vi
khuẩn lactic có trong hệ vi sinh vật tự nhiên của thịt. Các vi sinh vật này cũng có
thể được đưa thêm vào thịt trong quá trình sản xuất.(chủng khởi động – starter
cultures)
Nem chua là sản phẩm thịt lên men lactic cổ truyền của người Việt Nam
được rất nhiều người ưa thớch.Nem chua chế biến theo phương pháp truyền thống,
cho chất lượng sản phẩm không ổn định do nhiều yếu tố như: phụ thuộc vào hệ vi
sinh vật tự nhiên và trong thịt, chất lượng nguyên liệu thịt, điều kiện và qui mô sản
xuất.Những yếu tố này rất khó kiểm soát trong điều kiện sản xuất thủ công, gây ra
sự mất ổn định cho chất lượng sản phẩm. Đặc biệt thịt nguyên liệu do quá trình
giết mổ vận chuyển thủ công nên sự nhiễm tạp các vi sinh vật không mong muốn
là rất lớn vì vậy nguy cơ ô nhiễm các vi sinh vật gây bệnh là rất cao gây nguy
hiểm cho sức khỏe con người.
Xúc xích lên men là một trong những sản phẩm thịt lên men khá phổ biến
trên thế giới.Tựy từng vùng, địa phương mà mỗi nơi có những sản phẩm đặc trưng
rất nổi tiếng như: Chorozi (Tây Ba Nha), Salami (í) hay Summer (Mỹ). Trong số
đó xúc xích lên men Summer là sản phẩm thịt lên men ở nhiệt độ cao, thời gian lên
men ngắn rất giống với sản phẩm nem chua Việt Nam.
Từ thực tế trên và với mong muốn phát triển sản phẩm mới cũng như làm
ổn định, nâng cao chất lượng sản phẩm thịt lên men nên em đã chọn đề tài:
“Nghiờn cứu ứng dụng chế phẩm vi khuẩn lactic có hoạt tính sinh học và chế
phẩm tỏi trong sản xuất thịt lên men ( nem chua – xúc xích lên men)”
Mục đích của đề tài:
-
Sử dụng chủng giống có đặc tính sinh học để định hướng quá trình lên
men và nâng cao chất lượng của sản phẩm nem chua.
-
Sản xuất sản phẩm mới xúc xích lên men có sử dụng chủng giống có
hoạt tính sinh học vào sản phẩm để định hướng quá trình lên men và
đảm bảo chất lượng sản phẩm nhằm làm phong phú thêm nhóm sản
phẩm này ở Việt Nam.
Để thực hiện được những mục tiêu này, đề tài gồm nội dung nghiên cứu sau:
1. Nghiên cứu cơ chế kháng khuẩn của chủng vi khuẩn lactic sinh
bacteroxin và chế phẩm tỏi trong môi trường thịt lên men.
2. Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm vi khuẩn lactic có hoạt tính sinh học và
chế phẩm tỏi trong công nghệ sản xuất nem chua và đánh giá chất lượng
sản phẩm.
3. Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm vi khuẩn lactic có hoạt tính sinh học
vào công nghệ sản xuất xúc xích lên men Summer và đánh giá chất
lượng sản phẩm.
NỘI DUNG
PHẦN I: TỔNG QUAN
A.THỊT LÊN MEN (XÚC XÍCH LÊN MEN - NEM CHUA)
I. Giới thiệu về thịt lên men
1 Thịt lên men [6][13]
Lịch sử bảo quản thịt bằng lên men có từ hàng ngàn năm (lên men tự
nhiên), theo Lucke (1985), sản phẩm xúc xích lên men truyền thống ở châu Âu
xuất hiện từ thời La mã cổ đại. Theo Zeuthen (1995), thịt được bảo quản và lên
men dựa trên vi khuẩn lactic tự nhiên trong thịt ( Lactic Acid Bacteria - LAB), một
lượng nhỏ nitrat và một lượng lớn muối.
Thịt lên men đã được chứng minh là tốt cho sức khoẻ vì chứa các thành
phần dinh dưỡng có lợi như cung cấp hệ vi sinh vật có lợi probiotic và prebioic,
tạo ra trạng thái cân bằng của hệ vi sinh vật đường ruột từ đó nâng cao khả năng
chuyển hoá, tiêu hoá và ngăn ngừa bệnh tật của vật chủ.
Là sản phẩm thịt có giá trị dinh dưỡng cao bởi tạo ra các sản phẩm chuyển
hóa sau lên men dễ tiêu hóa, dễ hấp thụ. Là sản phẩm thịt có hương vị thơm ngon
đặc trưng, truyền thống, làm phong phú sản phẩm từ thịt.
a) Định nghĩa thịt lên men
Đó là sản phẩm thu được từ quá trình lên men lactic một số đường có mặt
trong hỗn hợp thịt do hệ vi sinh vật sẵn có trong thịt và môi trường hoặc được bổ
sung từ bên ngoài vào, với sự có mặt của muối, các tác nhân bảo quản, và gia vị...
b) Phân loại sản phẩm thịt lên men
Các sản phẩm thịt lên men có ở rất nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, Châu
Âu là nơi sản xuất và là thị trường tiêu thụ lớn nhất, theo ước tính có hơn một
nghìn tấn xúc xích lên men được sản xuất ở châu Âu mỗi năm. Những nước sản
xuất nhiều sản phẩm thịt lên men nhất là Đức, Italy, Tây Ban Nha và Pháp, ở đây
20 đến 40% những sản phẩm thịt chế biến có thể được xếp vào loại nhóm sản
phẩm thịt lên men. Người Đức tiêu thụ nhiều xúc xích lên men nhất, trung bình cả
nước là 5 kg/ người/ năm (Lucke). Riêng về xúc xích lên men bán khô thì lịch sử
ra đời của nó ở Châu Âu và ở Đông Nam Á, Trung Quốc đều lâu đời như nhau,
khoảng 2000 năm trước đây.
Các sản phẩm thịt lên men được phân loại theo nhiều hình thức, có thể theo
thành phần, cấu trúc như là xúc xích lên men, jăm bụng,… hay theo mức độ lên
men như chín nhanh, chín vừa, chín chậm.
Dựa vào hàm lượng nước, có thể chia xúc xích lên men thành các nhóm:
-
Nhóm có độ ẩm cao (moist) có độ ẩm lớn hơn 50%.
-
Nhóm bán khô (semi-dried) có độ ẩm 35-50%.
-
Nhóm sấy khô (dried) có độ ẩm 20-35%.
Đại diện của nhóm thứ nhất là xúc xích Mettwurst và Teewurst ở Đức,
Merguez Bắc Phi, Lebanon bologna ở Mỹ, Mortadella ở Nam Mỹ, Italy, Pháp.
Đại diện của nhóm thứ hai là Summer sausage, Longaniza ở Pháp và Bồ
Đào Nha, Laap ch’eung, Xun chan của Trung Quốc, Nham, Sai-krok-pries của
Thái Lan.
Đại diện của nhóm thứ ba là Chourisam của Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Chorizo
của Tây Ban Nha, Veneto salami của Úc, Pepperoni ở châu Âu, Bắc Mĩ, Úc,…
2.Nem chua Việt Nam
Theo phân loại thì nem chua Việt Nam được xếp vào loại xúc xích lên men
có độ ẩm cao, giống như nhóm sản phẩm ở vùng Đông Nam Á được bao gói trong
lá chuối, thường lên men tự nhiên ( không cấy chủng ) và có nhiệt độ lên men cao
25-350C, thời gian lên men ngắn và không qua xử lý nhiệt nên thời hạn sử dụng
ngắn.
Hiện nay vẫn chưa có thống kê cụ thể về sản lượng tiêu thụ nem chua ở
Việt Nam, nhưng với sự phát triển rộng khắp của các cơ sở sản xuất nem chua
trong cả nước con số sẽ không phải là nhỏ. Ở miền Bắc có làng nghề Ước Lễ sản
xuất nem chua nổi tiếng, miền Trung có nem Vinh, nem Thanh Hoá. Miền Nam đã
xuất hiện nem chua sản xuất trên quy mô lớn hơn như Nem chua Năm Sao, Thiên
Hương... Gia vị đưa vào nem chua cũng rất đa dạng và phong phú tuỳ theo khẩu vị
người dân từng vùng. Nem chua ở miền Bắc không thể thiếu lá ổi, vị ngọt nhẹ và
chua nhẹ, trong khi người dân miền Trung lại ưa thích nem chua có lá đinh lăng,
miền Nam nem thường hơi ngọt và có vị rất cay. Các gia vị hay được đưa thêm
vào nem chua ở cả ba vùng thường là tiêu, tỏi, ớt…trong đó ngoài tạo hương vị
cho sản phẩm còn có vai trò khá quan trọng trong việc ức chế các tác nhân vi sinh
vật gây hại trong sản phẩm do đặc thù là sản phẩm lên men tự nhiên.
3.Xúc xích lên men Summer (Mỹ)
Là sản phẩm thịt lên men làm từ hỗn hợp thịt lợn, bò, mỡ và các loại gia vị.
Loại xúc xích này có đặc điểm là lên men ở nhiệt độ cao và lên men nhanh gần
giống với nem chua, phù hợp với khí hậu Việt Nam. Lên men có thể tự nhiên ở 35
– 370C trong thời gian vài ngày hoặc có cấy chủng giống. Các chủng cấy sử dụng
cho loại này thường là Pedicoccus do có khả năng sinh axit cao và lên men phù
hợp ở nhiệt độ cao. Khi lên men đạt độ pH nhất định (4.5 – 4.7) thì dừng quá trình
lên men bằng cách đưa sản phẩm đi sấy hay hun khói ở nhiệt độ 70 – 75 0C trong
khoảng 1h (tùy kích thước sản phẩm) để đạt 63 0C (trong vòng 20 – 30 phút). Sản
phẩm sau đó được bảo quản lạnh 0 – 40C và được tiêu thụ. Sản phẩm có màu đỏ
hồng, chắc thơm ngon đặc trưng.
II Tính an toàn và nguy cơ không an toàn của sản phẩm thịt lên men và nem
chua
1.Tính an toàn của sản phẩm thịt lên men
Nem chua hay xúc xích lên men đều được xếp vào các loại sản phẩm ăn
liền ( Ready-to-eat foods ) không qua xử lí nhiệt chính vì vậy yêu cầu về vệ sinh
an toàn thực phẩm cần phải chú trọng.
Do sản phẩm thịt lên men là một hệ thống gồm nhiều cấu tử rắn phức tạp
với một hệ vi sinh vật vô cùng phong phú nên sự an toàn của sản phẩm thịt lên
men chủ yếu phụ thuộc vào khả năng kháng khuẩn của chính sản phẩm đối với các
loại vi sinh vật gây thối hỏng và cả nhưng loài gây bệnh cho con người. Những tác
nhân chủ yếu có tính ngăn ngừa những mối nguy từ vi sinh vật của xúc xích là
hàm lượng muối ăn, pH, và hàm lượng muối Nitrit trong sản phẩm. Trong khi
muối ăn có tác động giảm hoạt độ của nước a w thì pH thấp ( pH = 4,0 – 5,1 ) của
sản phẩm lại có tác động ngăn ngừa hoạt động của các vi sinh vật gây thối và cả
những vi sinh vật gây bệnh. Muối nitrit dưới dạng NO2- có khả năng đi qua lớp
màng ion trong thành tế bào vi khuẩn, vô hoạt các enzyme của chúng và do đó làm
giảm sự phát triển của chúng ( Cook and Pierson, 1983; Pierson and Smooth,
1987). Trong ngày đầu lên men sự phát triển của quần thể vi sinh vật đã sử dụng
hết lượng oxy trong nguyên liệu và làm giảm quá trình oxy hoá khử xảy ra trong
sản phẩm, điều này làm tác động của muối nitrit càng thêm hiệu quả và ngăn ngừa
sự phát triển của loài vi khuẩn hiếu khí gây thối hỏng ( Pseudomonas ) trong
nguyên liệu ban đầu. Sau vài ngày lên men tiếp theo một lượng lớn vi khuẩn lactic
sản xuất ra nhiều axit lactic làm pH sản phẩm giảm nhanh và pH giảm ngăn ngừa
sự phát triển của các loài gây bệnh như Salmonella, Clostridium…Sự phát triển
của bào tử Bacillus và Clostridium có thể được kiểm soát bởi pH thấp và hoạt độ
nước thấp. Tuy nhiên, những yếu tố trên vẫn không ngăn ngừa được sự phát triển
của Listeria monocytogenes ( Farber and Peterkin, 1991) và Escherichia coli
O157: H7 ( Reed, 1995 ). [10] [14] [23]
Sự hư hỏng của thịt lên men (xúc xích – nem chua)
Thịt lên men, được coi là một nhúm cú sự ổn định cao. Điều này là do sự
kết hợp của các yếu tố như: mức aw và hàm lượng ẩm thấp, gớa trị PH giảm, sự
xuất hiện của các axit hữu cơ và nồng độ NaCl và NaNO 2 cao. Trong loại xúc xích
có đường kính lớn khả năng ụxi hóa- khử thấp gây nhiều ức chế hơn đối với sự
phát triển của các sinh vật gây thối hỏng hiếu khí trong khi đó quá trình đóng gói
chân không hay trong điều kiện không khí thay đổi có tác động tương tự trong các
sản phẩm được thái nhỏ trước khi đóng gói. Sự ổn định của các loại xúc xích lên
men khác nhau thì khác nhau, chỳng cú vai trò quan trọng tương ứng với của các
tác nhân ức chế khác nhau. Xúc xích lên men khô là ổn định nhất và mức aw là
một trong những yếu tố quan trọng trước tiên. Trái lại loại xúc xích bỏn khụ, có
thể nhân rộng có độ ổn định thấp nhất với hạn sử dụng ngắn và thường yêu cầu
bảo quản lạnh trong thời gian bảo quản. Mức a w cao hơn có nghĩa là các yếu tố ức
chế khác như giá trị pH thấp và nồng độ NO 2 thấp đó là nhân tố quan trọng hơn
tương ứng trong loại xúc xích này. Trong các trường hợp, có tác động qua lại đáng
kể giữa các tác nhân ức chế, nó làm tăng một cách rõ rệt hiệu lực tổng thể của toàn
hệ thống. Ví dụ như sự giảm giá trị pH làm tăng mức aw tới hạn trong khi nitrite
cũng ức chế mạnh hơn ở pH thấp. Axit lactic và acetic được thừa nhận là đóng vai
trò quan trọng trong sự ổn định của xúc xích lên men nhưng ít nhất trong một số
trường hợp hoạt tính ức chế vi sinh vật có hiệu quả của các loại axit này là có giới
hạn.
2 Nguy cơ không an toàn của sản phẩm thịt lên men
2.1 Sự phát triển của S. aureus trong quá trình lên men
Sự tạo thành enterotoxin bởi Staphylococcus aureus (S. aureus) là vấn đề
chủ yếu trong quá trình sản xuất thịt lên men mặc dù sự kiểm soát quá trình lên
men đã được cải tiến nhiều đã làm giảm rõ rệt phạm vi của các vấn đề đó trong
những năm gần đây. S.aureus thường bị nhiễm từ thịt tươi mặc dù sự phát triển
thường bị hạn chế thậm chí ở nhiệt độ bảo quản cao do sức ép cạnh tranh trong
quần thể vi sinh vật có hại. Tuy nhiên S. aureus bị ức chế bởi hàm lượng NaCl và
nitrite cao và nó được thúc đẩy tuyển chọn trong sự xuất hiện của các thành phần
này nếu sự bắt đầu quá trình lên men bị trì hoãn. Sự phát triển và sự tạo thành
enterotoxin xảy ra nhanh dưới các điều kiện này và trong khi bản thân các sinh vật
bị chết, enterotoxin vẫn giữ lại trong các thời kỳ tiếp theo.
Việc xác định chỉ tiêu vi sinh trong xúc xích lên men là phương pháp nhằm
đảm bảo sự an toàn của xúc xích lên men, có gợi ý rằng sản phẩm nờn cú ít hơn
10 4 cfu/g S.aureus ngay sau quá trình lên men.
2.2 Sự sống sót của các mầm bệnh vi khuẩn
Các loại thịt lên men là sản phẩm của thịt sống và sự vắng mặt của các
mầm bệnh vi khuẩn là không thể đảm bảo được. Các điều kiện trong thịt thông
thường không cho phép sự sinh sôi nảy nở nhưng sự sống sót có thể kéo dài.
Salmonella góp phần gây độc cho thực phẩm đối với sự tiêu dùng salami ở Úc, Ý
và hầu hết hiện nay là ở Anh, tại đó sản phẩm salami-snack có dính dáng tới. Sản
phẩm đú cú thời gian chế biến rất ngắn và có thể thúc đẩy sự sống của Salmonella.
Listeria monocytogens được phân lập từ thịt lên men và theo các lý lẽ của
dịch tễ học thì sự tiêu dùng của salami được thừa nhận là nhân tố nguy hiểm đối
với listeriosis ở Mỹ.
Nói chung S. aureus được coi là gây nguy hiểm chỉ trong giai đoạn phát
triển ở thời kỳ đầu của quá trình lên men, nhưng một sự bùng nổ về sự độc hại của
thực phẩm được ghi lại mà trong đó sự phát triển và sự tạo thành enterotoxin xảy
ra trong sản phẩm cuối. Thịt lên men có liên quan tới mức aw cao và có chứa nồng
độ NaCl thấp tương đối và thành phần các tác nhân bảo quản. Kết quả là khả năng
ổn định phụ thuộc nhiều vào giá trị pH thấp. Việc lạm dụng nhiệt độ trong quá
trình bảo quản dẫn đến sự phát triển của nấm mốc và sự chuyển hóa lactate, mà
điều này làm tăng giá trị pH tới một mức mà tại giá trị đó sự phát triển và sự sinh
độc tố có thể xảy ra.
2.3 Sự tạo thành Mycotoxin ( độc tố nấm mốc)
Nấm mốc sinh mycotoxin được phân lập cả trong loại xúc xích lên men
được làm chín bởi mốc và cả trong loại bị nhiễm mốc. Một số nghiên cứu cho thấy
rằng sự tạo thành mycotoxin bị ức chế bởi nhiệt độ bảo quản thấp, mức aw giảm
và ở các sản phẩm có hun khói. Trái lại một số loài thuộc chủng Aspergillus cho
thấy rằng nó sinh aflatoxin ở mức cao trong quá trình phát triển trên xúc xích lên
men. Vai trò của các chủng khởi động cho thấy ở nhiệt độ thấp cả Lactobacillus và
Pediococcus đều cho thấy khả năng ức chế sự tạo thành aflatoxin [9].
Việc lạm dụng nhiệt độ trong quá trình bảo quản dẫn đến sự phát triển của
nấm mốc và sự chuyển hóa lactat, mà điều này làm tăng giá trị pH tới một mức mà
tại giá trị đó sự phát triển và sự sinh độc tố có thể xảy ra.
Các sản phẩm thịt nói chung và thịt lên men nói riêng là các cơ chất không
thuận lợi đối với sự tạo thành mycotoxin thậm chí cả khi các sợi nấm phát triển ồ
ạt.
Đối với một số sự đánh giá, các tranh luận về khả năng nấm mốc sinh
mycototoxin trong thịt lên men làm sao lãng sự quan tâm đến vấn đề quan trọng
hơn có liên quan tới việc lựa chọn loại nấm mốc làm chín. Sự an toàn có thể được
đảm bảo bằng việc cấy các chủng vào thịt lên men mà các chủng đó phải được biết
đến là không sinh độc tố và sau đó là sự quan tâm tới liệu các chủng có bắt nguồn
ngẫu nhiên có sinh mycotoxin hay không. Tương tự như thế, với các loại xúc xích
được làm chớn khụng do mốc nên chú ý đảm bảo rằng các điều kiện trong quá
trình bảo quản và vận chuyển như là để ngăn chặn sự phát triển của nấm mốc.
2.4 Sự tạo thành các amin sinh học (biogenic amines)
Các loài thuộc chủng Lactobacillus góp phần sinh các amin sinh học như
histamine và tyramine. Trong quá trình đề cacboxyl hóa cỏc aa, thành histidine và
tyrosine. Sự xuất hiện của các amin sinh học với số lượng đáng kể có thể dẫn tới
sự tăng lên tới hạn huyết áp, kèm theo đau đầu, đỏ mặt và có thể là phát ban.
Trong một số trường hợp, các triệu chứng thoạt tiên là thuộc dạ dày- ruột, bao gồm
đột nhiên nôn mửa và tiêu chảy kèm theo đau bụng. Sự bùng nổ được thừa nhận về
bệnh do sự xuất hiện của các amin sinh học diễn ra sau khi sử dụng các loại rau
muối (lên men) và pho mát đặc biệt là ở các sản phẩm khác nhau như pho mát
Anh(stilton) và Thụy sĩ. Không có trường hợp xác thực nào kết hợp với việc tiêu
thụ xúc xích lên men, nhưng sự phát triển về các triệu chứng như đau đầu và tiêu
chảy thì có liên quan mật thiết với các amin sinh học. Tuy nhiên sự sáng tỏ này
nên được xử lý cẩn thận vì hàm lượng nitrite cao có thể gây nên các tác động
tương tự đối với cảm nhận của người tiêu dùng để tránh nhầm lẫn.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự tạo thành histamine trong sản phẩm
Mettwurst đã được nghiên cứu tỷ mỷ. Sự tạo thành histidine xảy ra mạnh trong 2
tuần đầu của giai đoạn chín,cần phải có mặt với số lượng lớn các vi khuẩn đề
cacboxyl hóa tạo histidine và mức độ histidine cũng phải cao hơn đáng kể so với
chỉ tiêu. Với mức độ như vậy được kết hợp với sự bảo quản thịt chưa được chế
biến ở nhiệt độ cao và/hoặc đối với thời kỳ vượt quá mức, việc bảo vệ chống lại
đáng kể sự tạo thành amin sinh học đạt được bởi việc sử dụng loại thịt có chất
lượng tốt làm nguyên liệu sống và bằng việc sử dụng các chủng khởi động mà
chúng không có hoạt tính decarboxyl hóa aa.
III. Một số chỉ tiêu về vi sinh vật đối với sản phẩm thịt lên men ( nhóm sản
phẩm ăn ngay ).[1]
Theo tiêu chuẩn của Food Safety Standard of Australia & New Zealand:
Bảng 1.1: Giới hạn cho phép chỉ tiêu vi sinh vật đối với sản phẩm
thịt lên men theo tiêu chuẩn Food Safety Standard of Australia & New Zealand.
Các
chủng
gây Chất lượng Chấp
bệnh
Staphylococci
Clostridium
nhận Không tốt
Tiềm
tốt
<102
<102
được
102 – 103
102 – 103
4
10 - 10
103 - 104
nguy
> 104
> 104
perfringens
Bacillus cereus và <102
102 – 103
103 - 104
> 104
< 3 – 102
102 – 104
>104
3
ẩn
mối
một số gây bệnh
thuộc họ Bacillus
Vibrio
<3
parahaemolyticus
Salmonella spp
Không
có
Phát hiện ra
Campylobacter
trong 25 g
Không có
Phát hiện ra
spp
Listeria
trong 25 g
Không có
> 102
monocytogenes
trong 25 g
Bảng 1.2 Giới hạn cho phép chỉ tiêu vi sinh vật đối với sản phẩm ăn liền (Salami
và xúc xích lên men) của Ireland
Tiêu chuẩn
Tổng số khuẩn lạc hiếu
khí ( 300C/48h)
Chất lượng vi sinh vật ( CFU/g) (a)
Đạt tiêu
Chấp
Không tốt Tiềm ẩn mối
chuẩn
nhận
(b)
nguy(c)
N/A
103-<104
≥104
N/A
Nhóm vi sinh vật chỉ thị
Enterobacteriaceae
<100
100-<104
≥104
N/A
<20
20-<100
≥ 100
N/A
Listeria spp
Nhóm gây bệnh
Salmonella spp
<20
Không
có/25g
20-<100
≥ 100
N/A
Có trong
25g
Campylobacter spp
Không
có/25g
Escherichia coli
E.coli O157 và nhóm có
độc tố khác
Vibro cholerae
Có trong
25g
Không
có/25g
Có trong
25g
Không
có/25g
Không
có/25g
Vibro parahaemolyticus)
<20
20-<100
L.monocytogenes
Staphylococcus aureus
Clostridium perfringens
Bacillus cereus và các
nhóm gây bệnh Bacillus
spp
<20
<20
<20
< 103
100-<103
≥103
20-<100
20-<100
20-<100
N/A
100-<104
100-<104
≥ 100
≥104
≥104
103 -<104
104-<105
≥105
Ghi chú N/A : (không được phép)
Họ Enterobacteriaceae bao gồm nhiều loại vi khuẩn tìm thấy trong hệ
đường ruột của con người và động vật kể cả những loài gây bệnh như Salmonella
và Shigella. Các loài thuộc Enterobacteriaceae là những chỉ thị hữu dụng nhằm chỉ
ra tình trạng nhiễm khuẩn trong quá trình chế biến.
Một lượng > 104 / g sản phẩm có mặt trong sản phẩm là không chấp nhận
được đối với loại sản phẩm ăn liền như xúc xích lên men.
Escherichia coli.
Sự có mặt của E. coli trong các sản phẩm ăn liền là không thể chấp nhận
được bởi nó chỉ ra tình trạng vệ sinh nghèo nàn và dễ dàng có những sự nhiễm
khuẩn khác.
Sản phẩm ăn liền nờn cú lượng số E. coli là < 3 và số tế bào E. coli > 100 /g
là không thể chấp nhận được.
Salmonella được báo cáo là gây độc đối với sự tiêu dùng salami ở Úc, Ý và
hầu hết hiện nay là ở Anh, nhiều nhất là sản phẩm salami-snack, một loại sản
phẩm có thời gian chế biến rất ngắn. Tuy nhiên trong các trường hợp, Samonella
không có khả năng phát triển trong xúc xích lên men nếu sự nhiễm tạp của nó
thấp. Trong các dạng salami được sản xuất ở Úc, sự axit hóa bởi các chủng khởi
động có ảnh hưởng một cách rõ rệt hơn đối với Salmonella so với sự axit hóa bởi
glucono-δ-lactone.
Ở Việt Nam hiện chưa có tiêu chuẩn cụ thể cho loại sản phẩm này, do đó
chúng tôi tham khảo một số tiêu chuẩn trên để đánh giỏ chất lượng sản phẩm nem
chua và xúc xích lên men.
B.ỨNG DỤNG CHẾ PHẨM VI KHUẨN LACTIC Cể HOẠT TÍNH SINH
HỌCVÀCHẾ PHẨM TỎI TRONG SẢN PHẨM THỊT LÊN MEN.
I. Sự lên men tự nhiên
Trong một số trường hợp, các quá trình lên men tự nhiên phụ thuộc hoàn
toàn vào sự có mặt của LAB trong thịt tươi. LAB xuất hiện trong thịt là điều bất
biến nhưng ban đầu với số lượng thấp, trừ khi thịt được bảo quản một thời gian
trong cỏc tỳi chân không. Sự lựa chọn các điều kiện ban đầu ngăn cản quần thể vi
sinh vật gram âm nổi trội trong thịt và các vi khuẩn sinh hương gram dương bao
gồm Micrococcus và các loài Staphylococcus coagulase dương và âm, cũng như
các loại LAB. Người ta chứng minh rằng quá trình lên men theo thứ tự bất đầu là
các loài Enterobacteriaceae, tiếp theo là Enterococcus và cuối cùng là
Lactobacillus và Pediococcus.Ở những loại xúc xích có bổ sung nitrate mà không
có mặt của nitrite thỡ cỏc loại vi khuẩn có thể phát triển rộng hơn và điều này làm
cải thiện chất lượng của xúc xích lên men khô một cách rõ rệt. Với những loại xúc
xích được lên men theo đúng công nghệ thì LAB phát triển nhanh và đạt mức
10 6 −10 8 cfu/g sau 2-5 ngày lên men. Sự giảm giá trị pH tương ứng làm cho chủng
Pseudomonas và các loại cầu khuẩn gram âm nhạy cảm với axit khác bị tiêu diệt
trong vòng 2-3 ngày, mặc dù có nhiều loài có thể chống chịu axit hơn như
Salmonella, có thể tồn tại trong thời kỳ kéo dài. Số lượng LAB có xu hướng giảm
sau khi đạt được cực đại, mặc dù trong các loại xúc xích được chín bởi nấm mốc
thì thời kỳ thứ hai của quá trình sinh trưởng thường diễn ra khoảng sau 15 ngày
trùng với sự tăng giá trị pH do sự chuyển hóa lactate. Sự trì hoãn quá trình lên men
lactic ban đầu và sự giảm chậm giá trị pH tạo thuận lợi cho sự phát triển của S.
aureus và có thể sinh enterotoxin. Lượng mùi hương thấp cũng có thể do sự phát
triển của các vi sinh vật không mong muốn.
Các loài thuộc chủng Lactobacillus là các LAB nổi trội trong quá trình lên
men xúc xích tự nhiên. Các loài xuất hiện phổ biến nhất là Lb. bavaricus, Lb.
curvatus, Lb. farciminis, Lb. plantarum và Lb. sake. Lb. sake có thể là loài đóng
vai trò quan trọng nhất, tiếp đó là Lb. curvatus. Các loài không mong muốn như
loài Lb. viridescens sinh H2O2, cũng có thể xuất hiện với số lượng rõ rệt.
Pediococcus xếp thứ 2 sau chủng Lactobacillus, nó nổi trội hơn về số lượng trong
quá trình lên men. Các loài Pd. damnosus, Pd. acidilactici và Pd. pentasacceous
đều đóng vai trò quan trọng. Lactococcus và Leuconostoc thường chỉ xuất hiện với
số lượng nhỏ, mặc dù chủng Leuconostoc với số lượng lớn thường đi kèm với các
loại xúc xích kém chất lượng.
II. Sự lên men thịt có cấy chủng khởi đầu (starter culture)[22]
1. Nhóm vi sinh vật hay sử dụng làm chủng giống trong sản xuất thịt lên men
Để định hướng quá trình lên men và nâng cao chất lượng của nhóm sản
phẩm thịt lên men trên thế giới việc lựa chọn và sử dụng các chủng cấy vi sinh vật
có lợi vào công nghệ sản xuất thịt lên men đã được thực hiện từ rất lâu. Các chế
phẩm vi sinh vật thương mại được bán rộng rãi trên cơ sở cỏc nhúm vi sinh vật
như sau:
Vi khuẩn:
-
Các chủng LAB được sử dụng phổ biến: Lactobacillus ( Lb. plantarum, Lb.
curvatus, Lb. rhamnosus, Lb. sakei…); Pediococcus (P. pentosaceus);
Lactococcus lactis.
-
Micrococcaceae ( Micrococcus varians).
-
Staphylococci ( Staphylococcus carnosus, S. .xylosus )
Nấm men: Debaryomyces hansenii, Candida famata
Nấm mốc: Penicillium nalgiovense, P. chrysogenum, P. camemberi
Các chủng LAB được lựa chọn làm chủng khởi động trong xúc xích lên
men phải đáp ứng một số các tiêu chuẩn như sau :
-
Phải có khả năng cạnh tranh hiệu quả đối với các LAB bản thể.
-
Phải sinh axit lactic với số lượng đầy đủ.
-
Phải có khả năng chống chịu NaCl và có thể phát triển ở nồng độ muối cao ( có
thể là 6% ).
-
Phải có khả năng chống chịu được NaNO 2 và có thể phát triển ở nồng độ ít
nhất là 100mg/kg.
-
Phải có khả năng phát triển trong khoảng nhiệt độ 15-40°C, tối ưu ở 30-37°C.
-
Phải là chủng lên men đồng hình.
-
Phải không phân giải protein ( must not be proteolytic ).
-
Phải không sinh H2 O2 với số lượng lớn.
-
Nờn có catalase dương
-
Nên có khả năng phân giải nitrate
-
Nên có khả năng tăng cường hương cho xúc xích thành phẩm
-
Nên không có khả năng sinh các amin biogenic
-
Nờn không sinh nhày nhớt
-
Nên có khả năng đối kháng với các vi sinh vật gây hư hỏng và các vi sinh vật
không mong muốn.
-
Nên có khả năng chống chịu hoặc kết hợp với các chủng khởi động khác.
Sử dụng các chủng vi khuẩn lactic thuần khiết nhằm mục đích:
Rút ngắn thời gian lên men
Tăng tốc độ cho quá trình làm chín
Loại bỏ những nguy hiểm do các vi sinh vật khác.
Loại các vi sinh vật không mong muốn và các vi sinh vật gõybệnh. bệnh.
Tăng chất lượng sản phẩm.
Làm sản phẩm ổn định và bảo quản tốt hơn.
Góp phần đưa lại hương vị đặc trưng
2. Vi khuẩn lactic sinh bacterioxin ứng dụng trong sản xuất thịt lên men
Cơ chế kháng khuẩn hay cạnh tranh môi trường của LAB là do gây ra sự
nhiễu vi sinh vật đối với các vi khuẩn gây hỏng và gây bệnh thông qua một số cơ
chế như cạnh tranh oxi và dưỡng chất, cạnh tranh vị trí tấn cụng/bám dính và sản
sinh ra một loạt các chất ức chế: axit lactic, axetic, acetaldehit, diacetyl,
hydroperoxit, reuterin… và bacterioxin. Trong đó bacterioxin một thành phần
kháng khuẩn có bản chất protein chỉ được sinh ra bởi một số loài. Nhiều loại
bacterioxin có phổ kháng khuẩn khá rộng đặc biệt là có khả năng kháng được các
vi sinh vật gây bệnh, sinh độc tố. Do có bản chất là protein nên rất dễ bị phân huỷ
bởi proteaza trong hệ thống tiêu hóa, do vậy hiện nay trên thế giới nó được quan
tâm đặc biệt nhằm ứng dụng trong chế biến và bảo quản thực phẩm.
Bacterioxin là các polipeptit có tính kháng khuẩn được sản sinh trên
ribosome hoặc các protein có tác dụng kháng khuẩn khi ở dạng thành thục, chống
lại một phổ hẹp các loài vi khuẩn họ hàng gần gũi (Jack và cộng sự, 1995). Tuỳ
thuộc vào bản chất protein của mình mà bacteriocin có thể bị vô hoạt bởi các
proteaza trong đường ruột. Phần lớn các bacterioxin đã biết cho đến nay là các
phân tử cation có tới 60 phần tử axit amin và bền nhiệt.
Bacterioxin do vi khuẩn lactic sinh ra là các phân tử protein hay peptit
mang điện tích dương, kích thước nhỏ (gồm 30-60 axit amin), có điểm đẳng điện
cao và có khả năng ức chế các vi khuẩn có quan hệ gần với vi khuẩn sinh ra
bacterioxin đó. Nhiều chủng vi khuẩn lactic sản sinh bacterioxin là: Latococcus
sub. lactic (nisin), L. acidophilus (lactacinB,F), L. brevis, L. casei, L. carnis, L.
delbrueckii, L. fermenti, L. gasseri, L. helveticus, L. plantarum…
2.1. Bacterioxin của vi khuẩn lactic [11]
Theo hệ thống do Klaenhammer công bố, các bacterioxin được chia thành 4
nhóm như sau:
a- Nhóm I: Nhóm lantibiotic gồm các bacterioxin có phân tử lượng nhỏ hơn 5
kDa, có chứa các axit amin dị thường lanthionin, tiêu biểu là nisin, lactixin 481,
carnoxin U149 và lactoxin S. Chúng là các peptit nhỏ, phân biệt với các
bacteriocin khác nhờ các thành phần axit dehydroamino và axit amin thioeter của
chúng.
b- Nhóm II: Nhóm bacterioxin có phân tử lượng nhỏ hơn 10 kDa, bền nhiệt nhưng
không chứa lanthionin (<10KDa), được chia thành 3 phân nhóm trên cơ sở hoặc là
trật tự khác biệt của đầu amin của chuỗi mạch, sự tạo thành các lỗ bicomponent
của chúng, hoặc là sự có mặt của nhóm chức sulfhydryl. Nhóm bacteriocin II được
chia nhỏ thành 3 phân nhóm khác nhau. Nhóm IIa gồm các bacteriocin là các
peptit đơn bao gồm nhóm giống Pediocin ức chế Listeria; Nhóm IIb là các
bacteriocin có các peptit đôi tiêu biểu là Lactococxin G, lactococxin M và lactixin
F và nhóm IIc là các bacteriocin được tiết ra phụ thuộc thứ cấp (Von Heijne, 1986,
1988) Lactococin B.
c- Nhóm III: Nhóm bacterioxin có phân tử lượng lớn hơn 30 kDa, không bền
nhiệt. Nó bao gồm nhiều enzim ngoại bào có tính kháng khuẩn (hemolisins và
muramidases) mà có thể bắt chước hoạt động sinh lý của bacteriocin bền nhiệt,
tiêu biểu là helvetixin J, helvetixin V-1829, acidophilucin A, lactticin A và B.
Nhóm này bao gồm cả các enzim ngoại bào làm tan vi khuẩn.
Bảng 2.1: Đặc điểm của bacterioxin của vi khuẩn lactic
(theo Vuyst và Vandamme, 1993)
Bacteriocin
Vật sản xuất
Nhóm I: Lantibiotics
Nisin (A và Z)
Lactococcus lastic
Trường
Số
lượng
Ức
Vị trí
axit amin
chế*
Rộng
34
Transposon
Lacticin 481
Lactocin S
Carnocin U149
Lactococcus lastic
Rộng
27
Plasmit
Lactobacillus sake
Rộng
37
Plasmit
Carnobacterium
Rộng
35-37
Chưa biết
piscicola
Nhóm II: Non-lantibiotic, nhỏ, bền nhiệt
Diplococcin
Lactococcus lastic
Hẹp
51
Plasmit
Lactococcin A
Lactococcus lastic
Hẹp
54
Plasmit
Lactococcin B
Lactococcus lastic
Hẹp
47
Plasmit
Lactococcin M
Lactococcus lastic
Hẹp
48
Plasmit
Lactacon F
Lactobacillua
Hẹp
57&48
Plasmit
johsonii
Sakacin A
Lactobacillus sake
Rộng
41
Plasmit
Curvacin A
Lactobacillus
Rộng
38-41
Chưa biết
curvatus
Sakacin P
Lactobacillus sake
Rộng
41
Chưa biết
Carnobacteriocin
Carnobacterium
Rộng
53&48
Plasmit
A&B
piscicola
Pediocin AcH
Pediococcus
Rộng
44
Plasmit
acidilactici
Pediocin PA-1
Pediococcus
Rộng
44
Plasmit
acidilactici
Leucocin A-UAL- Leuconostoc
Rộng
37
Plasmit
187
gelidum
Enterocin 1146
Enterococcus
Rộng
Nhiễm sắc
faecium
thể
Nhóm III: lớn, không bền nhiệt
Helveticin J
Lactobacillus
Hẹp
333
Nhiễm sắc
helveticus
thể
*
( Trường ức chế hẹp là chỉ các bacteriocin chỉ có ảnh hưởng lên các loài sản
xuất)
d- Nhóm IV: Nhóm bacterioxin phức hợp là nhóm trong cấu trúc của chúng ngoài
protein ra còn chứa một hay nhiều loại chất khác là các lipit hoặc một nửa
hydrocacbon cùng với protein, tiêu biểu cho nhóm này là plantarixin S, leuconoxin
S, lactoxin 27.
Cho đến nay, nhóm bacteriocin I và II là nhóm được nghiên cứu kỹ nhất vì
chúng đa dạng nhất và có nhiều ứng dụng trong công nghiệp. Các LAB có khả
năng sản sinh bacterioxin trong thịt được công bố đa số thuộc về nhóm I và II.
Đặc tính bacterioxin
Tính chất công nghệ quý báu của bacterioxin là vẫn giữ được hoạt tính ở một
số điều kiện xử lý khác nhau như nhiệt độ, pH, dung môi hữu cơ…Plantacin rất
bền sau khi bảo quản ở nhiệt độ 4 - 2 0C, hoặc xử lý với dung môi hữu cơ như
metanol, cloroform, axetonitrit và nhiệt độ 1000C trong 60 phút hoặc 1210C trong
10 phút. Lactacin B, Lactacin F chịu được 100 0C trong vòng 1giờ được dùng nhiều
trong việc sản xuất thực phẩm đóng hộp
Bản chất các bacterioxin là peptit nên bị phân hủy bởi hệ enzim proteaza của
hệ thống tiêu hóa vì vậy không có hại đối với cơ thể.
Với các đặc tính trên của bacterioxin đã mở ra triển vọng ứng dụng rộng lớn
của bacterioxin trong công nghiệp thực phẩm.
2.2 Ứng dụng của bacterioxin trong công nghệ thịt và thịt lên men [12]
a- Phương pháp ứng dụng bacterioxin trong các sản phẩm thịt theo bốn biện
pháp cơ bản sau :
Bổ sung chủng LAB thuần khiết, có sản sinh bacterioxin và có thể phát
triển được vào trong thực phẩm. Biện pháp này là cách trực tiếp để phối hợp đồng
đều bacterioxin vào trong các sản phẩm thực phẩm. Sự thành công của nó phụ
thuộc vào khả năng phát triển và sản xuất bacterioxin của chủng bổ sung trong các
điều kiện kỹ thuật và môi trường (nhiệt độ, pH, chất phụ gia, …) của thực phẩm.
Vì thịt không thể thanh trùng paster trước khi bổ sung chủng LAB nên các chủng
LAB để ngăn ngừa sinh học hoặc để lên men thịt phải có khả năng cạnh tranh với
hệ vi sinh vật tự nhiên.
Bổ sung các chế phẩm bacteriocin thô, dịch lên men hoặc dịch cô đặc thu
nhận được từ quá trình nuôi LAB sản sinh bacteriocin trong các chất nền phức tạp.
Cách này tránh được việc sử dụng các hợp chất tinh chế.
Bổ sung các chất đối kháng đã tinh chế hoặc bán tinh chế. Theo cách này,
liều lượng bacteriocin phải chính xác hơn và do đó phải được ước lượng trước.
Tuy nhiên, ứng dụng của nó còn hạn chế, tuỳ theo tập quán sử dụng phụ gia của
từng nước.
Bổ sung LAB ưa nhiệt ụn hoà như là yếu tố bảo quản ‘an toàn dự phòng’ để
chống lại sự lạm dụng nhiệt độ. Trong trường hợp này, các chủng bảo vệ sinh học
sẽ giữ ở mật độ như ban đầu trong các điều kiện kiện giá lạnh còn trong điều kiện
lạm dụng nhiệt độ, chúng sẽ phát triển cạnh tranh vượt trước các vi khuẩn gây
bệnh. Vì vậy tránh được những nguy hại cho sức khoẻ.
b- Ứng dụng của các bacterioxin trong thịt và các sản phẩm thịt [12]
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy LAB sinh ra từ thịt như là một nguồn
cung cấp các chủng sản xuất bacterioxin. Tuy nhiên chỉ một số bacterioxin được
nghiên cứu như là chất bảo quản sinh học trong thực phẩm và đặc biệt là trong các
sản phẩm thịt bao gồm nisin A, P và K và leucoccin A, đặc biệt là pediocin PA1/AcH…
Nissin dạng phun xịt (AmbicinR, 5000AU/malolactat) có hiệu quả loại trừ
sự ô nhiễm trên bề mặt thịt. Sự phối hợp của nitrit với nisin 1000-10000 IU/g có
hiệu quả chống lại Clostridium và một vài vi khuẩn gây bệnh Gram dương khác
như Lissteria và Staphylococcus trong xúc xích Đức, thịt lợn nghiền nhão và thịt
thô. Trong xúc xích lên men kiểu Mỹ sự sản sinh Pediocin trong xúc xích ngăn
ngừa sự phát triển của L. monocytogenes ngay khi không có độ chua. Hoạt động
của Pediocin PA-1 không bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của chất béo hay protein
trong thực phẩm, còn tác động của Pediocin và axit lactic lại hỗ trợ lẫn nhau. Quá
trình chế biến Wisonsin sử dụng chủng sản sinh Pediocin P. acidilactici cùng với
cacbohydrat đã được USDA phê chuẩn để sử dụng trong thịt muối có hàm lượng
nitrit giảm để trợ giúp ngăn ngừa sự sản sinh độc tố botulinum do sự bùng phát
của Cl. botulinum. Quá trình này cũng được cải tiến để sử dụng trong các thực
phẩm bảo quản lạnh có độ axit thấp như salat gà ở pH 5,1.
c- Những hạn chế của bacterixin và biện pháp tăng phạm vi ứng dụng
Một cản trở trong việc ứng dụng các bacteriocin làm chất bảo quản sinh học
cho thịt là do chúng có khu vực vật chủ hẹp, chỉ ảnh hưởng tới các vi khuẩn họ
hàng gần gũi. Tuy nhiên các chủng sản sinh bacteriocin có thể có tác động dương
tính đối với các vi khuẩn Gram (-) theo cách gián tiếp như là tạo ra một hệ vi sinh
vật chiếm ưu thế và loại trừ các vi sinh vật Gram (-) ưa lạnh.
Trái lại với vi khuẩn G (+), vi khuẩn G(-) , như Escherichia coli O157 :H7,
có thêm vào màng trong một màng ngoài mà những kháng khuẩn kỵ nước không
thể xuyên qua. Lớp trong của màng ngoài thì được tạo thành bởi
glyserophospholipid, trong khi lớp ngoài thì được tạo ra bởi lipopolysaccharide.
Lipopolysaccharide bao gồm một phần chất béo kỵ nước bên trong và một phần
heteropolysaccharide ưa nước bên ngoài, mà được ổn định bởi cation hoá trị II
(như Mg 2+). Màng nguyên vẹn bên ngoài có thể bị phá hỏng bởi sự thấm qua, như
là EDTA, a xit citric hoặc a xit lactic, mà kháng khuẩn kỵ nước có thể xuyên vào
tế bào G (-). Tác động của LAB trong tế bào có thể một phần dựa trên việc tạo ra
nồng độ tương ứng của a xit lactic trong môi trường vi sinh, mà kết hợp với chất
tẩy trong ruột như muối mật để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn gây độc G (-).
Các biện pháp xử lý khác nhau đã được thử nghiệm làm cho vi khuẩn Gram
(-) nhạy cảm với bacterioxin, đặc biệt là nisin. Việc sử dụng nisin cùng với tác
nhân có càng kẹp (EDTA, Tween, Triton-X 100) đã mở rộng phổ kháng kháng
khuẩn của nisin tới cả các vi khuẩn Gram (-) (bằng sáng chế US 4 980 163). Sự
gõy sốc về tính thẩm thấu (hàm lượng muối cao) cũng đã được thử nghiệm như là
phương tiện để vi khuẩn Gram (-) nhạy cảm hoá với nisin.
3. Các hợp chất kháng khuẩn từ tỏi và ứng dụng trong công nghệ thực phẩm
3.1 Tỏi và các hợp chất có hoạt tính kháng vi sinh vật [8][15]
Lịch sử phát hiện và sử dụng tỏi làm gia vị và làm thuốc. Các nhà nghiên
cứu thực vật coi Trung Á là nơi phát sinh của cây tỏi, và Allium sativum (tên khoa
học của tỏi) dường như đã được con người sử dụng từ thời đại đồ đá mới. Lần đầu
tiên nhà khoa học người Đức Wertheim (1844 - 1845) đã chứng minh được bản
chất của các chất gõy mựi ở tỏi mà cũng là các chất có tác dụng sinh lý và dược lý
của tỏi chính là các hợp chất sulfur. Hàm lượng các hợp chất sulfur có trong tỏi
cao khác thường so với trong cỏc cõy thực vật khác (1,1-3,5%), và nếu làm mất đi
từ cỏc tộp tỏi một lớp hợp chất sulfur dễ bay hơi gọi là các thiosulfinates trong đó
- Xem thêm -