Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu một số chỉ số thể lực, trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ ...

Tài liệu Nghiên cứu một số chỉ số thể lực, trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã minh đạo

.PDF
114
468
115

Mô tả:

Nghiên cứu một số chỉ số thể lực, trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo
1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Xã hội ngày càng văn minh, đời sống vật chất ngày càng được nâng cao đòi hỏi mỗi con người phải không ngừng phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực. Con người còn là nền tảng của gia đình và là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước. Hơn nữa phát triển con người là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội, là nhân tố cơ bản để đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [28], [29]. Theo đánh giá của Liên hợp quốc [13], thực trạng chỉ số phát triển của con người Việt Nam đứng vị trí 116 trên tổng số 173 nước trên thế giới, chỉ số này thuộc nhóm thấp của thế giới. Do đó công tác giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nguồn nhân lực tri thức của đất nước chính là thế hệ học sinh, sinh viên đang học tập và nghiên cứu trong các trường phổ thông, trung học chuyên nghiệp và đại học. Các chỉ số hình thái thể lực và trí tuệ của học sinh được coi là hai mặt cùng phát triển trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực tri thức cho đất nước. Thực tế cho thấy, muốn đưa ra một biện pháp đúng đắn và hiệu quả đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo một cách toàn diện, phải dựa vào hiện trạng thể lực và năng lực trí tuệ của học sinh. Ngay từ trước năm 1975, nhiều tác giả đã nghiên cứu về các chỉ số thể lực và trí tuệ của con người Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong quyển “HSSH” [85]. Tài liệu này được sử dụng trong các sách giáo khoa, các giáo trình, tài liệu dạy và học... Trong thời kì đổi mới cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về thể lực và trí tuệ của học sinh Việt Nam ở các địa bàn khác nhau. Các kết quả nghiên cứu đã được trình bày trong các tạp chí, tài liệu chuyên ngành và trong cuốn “Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam” [65]. 2 Đáng chú ý là công trình “Nghiên cứu đặc điểm sinh thể con người Việt Nam, tình trạng dinh dưỡng và các biện pháp nâng cao chất lượng sức khỏe” mã số KX-07-07 do GS. TS Lê Nam Trà làm chủ nhiệm đề tài [81], [82] và nhóm đề tài “Nghiên cứu các chỉ tiêu thể lực và trí tuệ ở học sinh” do GS. TSKH Tạ Thúy Lan làm chủ nhiệm đề tài [47], [48], [49], [50], [51], [52] và của một số tác giả khác [57], [58], [59], [62] ... Các chỉ số thể lực và trí tuệ của học sinh không phải hằng định mà có thể thay đổi phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu và các kỳ điều tra đáng kể nhất là chế độ dinh dưỡng và lượng thông tin [4], [14], [24], [81]. Vì vậy, việc nghiên cứu các chỉ số thể lực và trí tuệ của học sinh cần phải tiến hành thường xuyên và rộng khắp. Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu một số chỉ số thể lực, trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Xác định được thực trạng một số đặc điểm thể lực của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh như chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình, chỉ số pignet, BMI. - Xác định được thực trạng một số đặc điểm về chức năng sinh lý của một số hệ cơ quan của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh như tần số tim, huyết áp động mạch. - Xác định được các chỉ số trí tuệ, trí nhớ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. - Xác định chỉ số vượt khó (AQ) của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. - Xác định được mối liên quan giữa các chỉ số nghiên cứu. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu các chỉ số thể lực của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình, chỉ số pignet, BMI). 3 - Nghiên cứu một số chỉ số chức năng ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (tần số tim, huyết áp động mạch). - Nghiên cứu các chỉ số trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (chỉ số IQ, mức trí tuệ và trí nhớ). - Nghiên cứu chỉ số vượt khó (AQ) của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu là học sinh tiểu học và trung học cơ sở ở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tất cả có 9 nhóm với 9 độ tuổi khác nhau từ 7 - 15 tuổi. Tổng số đối tượng nghiên cứu khoảng 897 học sinh trong đó có khoảng 460 học sinh nam và 437 học sinh nữ. - Địa điểm nghiên cứu là trường tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Các chỉ số chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình được xác định theo phương pháp hiện hành của ngành y tế. - Tần số tim được xác định bằng ống nghe tim phổi. - Huyết áp được xác định bằng phương pháp Korotkov. - Năng lực trí tuệ được xác định bằng cách sử dụng test “Khuôn hình tiếp diễn” của Raven loại A, B, C, D và E dùng cho người từ 6 tuổi trở lên. - Trí nhớ được xác định bằng phương pháp Nechaiev. - Chỉ số AQ được xác định bằng cách sử dụng test Paul Stoltz. PH. D, có cải tiến. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI - Là đề tài đầu tiên xác định được một số chỉ số về thể lực và trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. - Kết quả trong luận văn có thể góp phần vào việc bổ sung số liệu cho hướng nghiên cứu về thể lực, sinh lý, trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở, cung cấp dẫn liệu cho quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học và là dẫn liệu cho công tác giáo dục học sinh được tốt hơn. 4 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. ĐẶC ĐIỂM THỂ LỰC CỦA TRẺ EM 1.1.1. Các chỉ số thể lực Các chỉ số thể lực của con người phản ánh mức độ phát triển tổng hợp của các hệ cơ quan trong cơ thể hoàn chỉnh, thống nhất. Ở bất kỳ người bình thường nào cũng đều có mức độ phát triển thể lực nhất định. Một trong những biểu hiện cơ bản của thể lực là các số đo kích thước của cơ thể, trong đó chiều cao, cân nặng và vòng ngực là các chỉ số cơ bản phản ánh thể lực của con người. Từ các chỉ số cơ bản kể trên có thể tính thêm các chỉ số khác biểu hiện mối liên quan giữa chúng như chỉ số pignet, chỉ số khối cơ thể (BMI)...Các chỉ số đó có ý nghĩa trong việc đánh giá sự phát triển thể lực của trẻ em, biểu hiện sự tăng trưởng của cơ thể con người từ lức mới sinh đến lúc chết. Trong các chỉ số trên, chiều cao là chỉ số phát triển thể lực quan trọng nhất và được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu nhân trắc học. Chiều cao phản ánh quá trình phát triển chiều dài của xương và nói lên tầm vóc của con người. Sự phát triển chiều cao mang tính chất đặc trưng cho chủng tộc, giới tính và chịu ảnh hưởng của môi trường [5], [6], [8], [9], [19], [20], [21], [22], [43], [66]. Cân nặng cũng là một chỉ số được sử dụng thường xuyên trong các nghiên cứu nhằm đánh giá thể lực của con người. So với chiều cao, cân nặng ít phụ thuộc vào yếu tố di truyền, mà liên quan đến điều kiện dinh dưỡng. Cân nặng cơ thể là đặc điểm tổng hợp, biểu thị mức độ và tỉ lệ giữa quá trình hấp thu và sử dụng năng lượng [30], [69]. 5 Vòng ngực cũng được coi là đặc trưng cơ bản của thể lực. Mức độ phát triển của lồng ngực có liên quan đến hoạt động hô hấp và sức khỏe của con người. Thể lực của con người là một chỉ tiêu phức hợp nên không thể đáng giá qua một số chỉ số riêng biệt. Vì vậy, muốn đánh giá thể lực phải dựa vào mối liên quan giữa các chỉ số hình thái giải phẫu, sinh lý khác nhau. Đây là phương pháp đánh giá thể lực bằng các chỉ số. Loại chỉ số đơn giản nhất được xác định dựa vào chỉ số là chiều cao, cân nặng như chỉ số Broca, Kaup, chỉ số khối cơ thể (BMI)...Còn loại chỉ số phức tạp hơn dựa vào nhiều chỉ số hơn (chiều cao, cân nặng, vòng ngực...) như chỉ số pignet, QVC, Vervaek. Bởi vậy, đã có nhiều công trình ngiên cứu về các chỉ số này [5], [7], [8], [12], [14], [15], [23], [24], [25], [30], [32], [33], [41], [43], [49], [62], [64], [81]. Công trình nghiên cứu đầu tiên về thể lực của con người là của C.F.Jumpert (theo [83]). Ông đã nghiên cứu cân nặng cơ thể, chiều cao và các đại lượng khác ở trẻ em từ 1 đến 25 tuổi. Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao do P.Montbeilard (theo [83]) thực hiện ở người con trai của mình trong 18 năm liên tục, kể từ khi sinh ra đến năm 1777. Sau này số liệu của P.Montbeilard được D.A.Thomson thể hiện trên đồ thị (theo [83]). Tiếp theo đã có nhiều tác giả nghiên cứu về thể lực của trẻ em. Theo một số tác giả, quá trình phát triển cơ thể con người diễn ra không đồng đều [6], [7], [14], [15], [24], [41], [62], [81], [82], [83]. Sự phát triển không đồng đều ở trẻ em thể hiện qua các thời kỳ khác nhau, có thời kỳ tốc độ tăng trưởng nhanh, còn thời kỳ khác lại tăng trưởng chậm [14], [62], [69]. Trong quá trình phát triển ở trẻ em từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành có hai giai đoạn tăng trưởng “nhảy vọt”. Đó là giai đoạn từ 5 đến 7 tuổi và giai đoạn dậy thì [62], [69]. Trong quá trình phát triển ở trẻ em, sự 6 hoàn chỉnh các cơ quan xảy ra không đồng thì và không đồng tốc [6], [27], [39], [50], [83], [88]. Nhiều tác giả khác [62], [81], [88]... nhận thấy có sự khác nhau về tốc độ phát triển thể lực giữa nam và nữ. Từ 7 đến 10 tuổi, tốc độ tăng chiều cao của nữ nhanh hơn của nam. Từ 11 tuổi trở đi, tốc độ tăng chiều cao của nam lại nhanh hơn của nữ. Đó là nguyên nhân đã tạo ra điểm giao chéo tăng trưởng chiều cao lần thứ nhất và lần thứ hai lúc 11 và 14 tuổi [62]. Thực tế cho thấy, sự phát triển thể lực ở trẻ em phụ thuộc vào nhiều yếu tố và là kết quả của sự tác động qua lại giữa cơ thể với môi trường [4], [5], [50]. Dưới tác động của yếu tố di truyền và điều kiện của môi trường sống, đã xảy ra quá trình cải tổ về mặt hình thái và chức năng, làm cho cơ thể trẻ em ngày một hoàn thiện hơn [44], [62], [88]. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu thể lực của trẻ em ở Việt Nam Ở Việt Nam, người nghiên cứu đầu tiên về sự tăng trưởng chiều cao và cân nặng của trẻ em là Mondiere (1875) và sau này là của Huard và Bogot (1938), Đỗ Xuân Hợp (1943) (theo [83]). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó còn lẻ tẻ và các phương pháp nghiên cứu còn đơn giản. Sau năm 1954, có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu các đặc điểm hình thái, giải phẫu, sinh lý của người Việt Nam và năm 1975 cuốn “HSSH” [85] được xuất bản. Đây là một công trình trình bày khá hoàn chỉnh về các chỉ số sinh học, sinh lý, hóa sinh của người Việt Nam Năm 1980, 1982, 1987, Đoàn Yên và cs [88] đã nghiên cứu một số chỉ số sinh học của người Việt Nam từ 3 đến 10 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở mọi lứa tuổi, chiều cao, cân nặng của người Việt Nam nhỏ hơn so với người châu Âu, châu Mĩ, nhịp độ tăng trưởng chậm, thời kỳ tăng trưởng kéo dài hơn và bước vào thời kỳ nhảy vọt tăng trưởng dậy thì cũng muộn hơn. Tăng trưởng nhảy vọt về chiều cao của nữ xuất hiện vào lúc 12-13 tuổi, của 7 nam lúc 13-16 tuổi và đến 23 tuổi đạt giá trị tối đa. Tăng trưởng nhảy vọt về cân nặng ở nữ lúc 13 tuổi, ở nam lúc 15 tuổi và kết thúc tăng trưởng cân nặng cơ thể lúc 19 tuổi ở nữ và 20 tuổi ở nam. Do đó, nữ bước vào thời kỳ tăng tiến và ổn định về chiều cao, cân nặng sớm hơn so với nam. Từ năm 1980 đến năm 1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp [24] nghiên cứu dọc trên 101 học sinh Hà Nội từ 6-17 tuổi. Với 31 chỉ tiêu nhân trắc học được nghiên cứu, tác giả đã rút ra kết luận là chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 1112 tuổi ở nữ, 13-15 tuổi ở nam, chiều cao trung bình của nữ trưởng thành là 158cm và của nam là 163cm. Cân nặng phát triển mạnh nhất lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuổi ở nam. Vòng ngực trung bình của nữ trưởng thành là 79cm và của nam là 78cm. Năm 1989, nhóm tác giả Thẩm Thị Hoàng Điệp, Nguyễn Quang Quyền, Vũ Xuân Khôi và cs [25] đã tiến hành nghiên cứu chiều cao, vòng đầu, vòng ngực, chỉ số dài chi dưới... trên 8000 người từ 1-55 tuổi ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Nhóm tác giả nhận thấy, chiều cao của nam tăng nhanh đến 18 tuổi, của nữ tăng nhanh đến 14 tuổi và có quy luật gia tăng chiều cao cho người Việt Nam (tăng 4cm/20 năm). Vòng ngực tăng nhanh nhất ở nam lúc 13-16 tuổi và ở nữ lúc 11-14 tuổi. Đào Huy Khuê [41] nghiên cứu 36 chỉ tiêu kích thước về sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể trên 1478 học sinh từ 6-17 tuổi ở thị xã Hà Đông. Tác giả nhận thấy, hầu hết các thông số hình thái đều tăng dần theo tuổi, nhưng nhịp độ tăng không đều. Tốc độ tăng tối đa các thông số nghiên cứu của nữ là lúc 11-15 tuổi và của nam lúc 14-16 tuổi. Từ 6-9 tuổi, các kích thước của nữ và nam không có sự khác biệt rõ rệt. Từ 11-15 tuổi, các kích thước của nữ thường cao hơn của nam và 16-17 tuổi, các chỉ số này của nam lại vượt của nữ. Tác giả cũng cho rằng, có sự gia tăng chiều cao của người Việt Nam. Năm 1991-1995, nhóm tác giả Trần Văn Dần và cs [14], nghiên cứu trên 13747 học sinh từ 8-14 tuổi ở các địa phương Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái 8 Bình về các chỉ số chiều cao, cân nặng và vòng ngực trung bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, so với số liệu trong cuốn “HSSH” [85] thì sự phát triển chiều cao của trẻ em từ 6-16 tuổi tốt hơn, đặc biệt là trẻ em thành phố, thị xã, nhưng sự gia tăng cân nặng chỉ thấy rõ ở trẻ em Hà Nội, còn ở khu vực nông thôn chưa thấy có sự thay đổi đáng kể. Học sinh thành phố và thị xã có xu hướng phát triển thể lực tốt hơn so với ở nông thôn. Nghiêm Xuân Thăng [77], đã đo 17 chỉ số hình thái (chiều cao, cân nặng, vòng ngực, chỉ số pignet, Broca...) của người Việt Nam từ 1-25 tuổi ở một số vùng của Nghệ An và Hà Tĩnh. Tác giả có nhận xét rằng, sự phát triển chiều cao ở tất cả các độ tuổi của cư dân vùng Nghệ An có khí hậu vừa nóng khô vừa nóng ẩm so với cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ không có thời kỳ nóng khô thấp hơn 0,5-4cm, nhưng cân nặng lại tương đương, mức chênh lệch cao nhất cũng chỉ là 0,5kg. Theo tác giả, điều kiện sống đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển các chỉ số hình thái của con người. Tác giả còn cho biết các chỉ số về kích thước có sự khác biệt giữa nam và nữ, ở các độ tuổi, các kích thước của nam đều lớn hơn của nữ. Tuy nhiên, cũng có một số giai đoạn nữ phát triển nhanh hơn nam và đạt giá trị lớn hơn. Ở các lứa tuổi khác nhau có sự phát triển không đồng đều, phát triển nhanh ở độ tuổi 5-7 tuổi, 10-11 tuổi và 13-14 tuổi. Năm 1995, nhóm tác giả Trần Đình Long, Lê Nam Trà, Nguyễn Văn Tường và cs [64] nghiên cứu trên học sinh ở thị xã Thái Bình. Nhóm tác giả cho thấy, chiều cao đứng, chiều cao ngồi, cân nặng, vòng cánh tay của học sinh thị xã Thái Bình lớn hơn so với số liệu trong cuốn “HSSH” [85] nhưng thấp hơn so với học sinh ở quận Hoàn Kiếm [65]. Năm 1998 - 2002, Trần Thị Loan [60], [62] nghiên cứu trên học sinh Hà Nội từ 6-17 tuổi. Tác giả cho thấy, các chỉ số chiều cao, cân nặng, vòng ngực của học sinh lớn hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác từ 9 những thập kỷ 80 trở về trước và so với học sinh ở Thái Bình và Hà Tây ở cùng thời điểm nghiên cứu. Điều này chứng tỏ, điều kiện sống đã ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển thể lực của học sinh. Năm 2009, Đỗ Hồng Cường [12], nghiên cứu học sinh trung học cơ sở các dân tộc tỉnh Hòa Bình. Tác giả cho biết, các chỉ số hình thái- thể lực ở học sinh nam, nữ giữa các dân tộc Mường, Thái, Kinh không có sự khác biệt và giữa các dân tộc Tày, Dao cũng không có sự khác biệt. Tuy nhiên, các chỉ số hình thái- thể lực của học sinh nam, nữ các dân tộc Mường, Thái, Kinh đều cao hơn so với học sinh nam, nữ các dân tộc Tày, Dao. Sự vượt trội của các chỉ số hình thái -thể lực ở học sinh các dân tộc Mường, Thái, Kinh so với ở học sinh các dân tộc Tày, Dao có thể có liên quan với sự khác biệt về điều kiện kinh tế- xã hội giữa các huyện ở tỉnh Hòa Bình. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về thể lực của học sinh ở Việt Nam khá phong phú. Tuy kết quả nghiên cứu trong các công trình có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều xác định được là chúng biển đổi theo lứa tuổi và mang đặc điểm giới tính. Trong quá trình phát triển ở trẻ em có hai giai đoạn nhảy vọt tăng trưởng. Mốc đánh dấu lứa tuổi nhảy vọt của các công trình là tương đối thống nhất đó là chiều cao tăng nhanh nhất từ 13-15 tuổi ở nam, 1113 tuổi ở nữ và có sự khác biệt về những chỉ số này giữa nam và nữ, giữa học sinh thành phố, thị xã và học sinh nông thôn. 1.2. CÁC CHỈ SỐ VỀ CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ HỆ CƠ QUAN 1.2.1. Tần số tim và huyết áp động mạch Hoạt động của hệ tuần hoàn đảm bảo cung cấp ôxi và chất dinh dưỡng cho toàn bộ cơ thể sống, trong đó tần số tim và huyết áp động mạch là những chỉ số cơ bản biểu hiện hoạt động của hệ tuần hoàn. Tim có chức năng vừa hút và vừa đẩy máu, là động cơ chính của hệ tuần hoàn. Bởi vậy tần số tim là một trong các chỉ số dùng để đánh giá hoạt động của hệ tuần hoàn và tình trạng sức khỏe của con người. 10 Theo Tur A. P. (theo [62]), tần số tim trung bình của trẻ sơ sinh trong những ngày đầu tiên là 120-140 nhip/phút, sau đó giảm dần theo độ tuổi và đạt mức ổn định ở lứa tuổi trưởng thành. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho biết ở trẻ lứa tuổi đang bú mẹ tần số tim trung bình là 110-160 nhip/phút, trước tuổi đến trường là 80-100 nhịp/phút và ở tuổi học đường là 72-82 nhip/phút (theo [62]). Sự giảm tần số tim trong quá trình phát triển của trẻ em có liên quan đến sự giảm hoạt động của nút xoang và giảm ảnh hưởng của các dây thần kinh ngoài tim [62]. Trong những năm tiếp theo, tần số tim tiếp tục giảm đi chút ít [53], [70]. Tần số tim có thể thay đổi theo độ tuổi, theo trạng thái cơ thể, khí hậu, bệnh lý, giới tính. Tần số tim của trẻ em cao hơn của người lớn, càng nhỏ càng nhanh và rất dễ thay đổi khi khóc, sốt, sợ hãi, gắng sức [72]. Huyết áp là áp lực của máu tác động lên thành mạch. Huyết áp khi tim co gọi là huyết áp tối đa hay huyết áp tâm thu, huyết áp khi tim giãn gọi là huyết áp tối thiểu hay huyết áp tâm trương. Mức chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu gọi là huyết áp hiệu số. Đây là điều kiện cần cho sự tuần hoàn máu. Huyết áp hiệu số lớn nhất ở các động mạch chủ và động mạch lớn [26], [84]. Panaven V. V. (theo [88]) đã theo dõi sự biến đổi huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu, huyết áp hiệu số ở trẻ em 7-17 tuổi và nhận thấy, huyết áp tăng dần theo tuổi, nhưng tăng không đều, thời điểm huyết áp tăng nhảy vọt ở nam là 9, 12 và 13 tuổi, ở nữ là 9 và 12 tuổi. Theo Fedorova E. V. và Zasukhina V. N. (theo [62]), lứa tuổi huyết áp tăng nhảy vọt ở cả nam và nữ là 7-8 tuổi. Theo Frolkis V. V. (theo [62]), dưới 5 tuổi huyết áp của nam và nữ hầu hết giống nhau, nhưng 5-9 tuổi huyết áp của nam cao hơn của nữ. Kết quả nghiên cứu của Fedorova E. V. (theo [62]) và Kaluifnaia R. A. (theo [62]) cũng cho thấy, lúc 8-12 tuổi huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu của nam đều 11 cao hơn của nữ. Như vậy, một số tác giả cho rằng, có sự thay đổi huyết áp theo giới tính. 1.2.2. Những công trình nghiên cứu về chức năng của một số hệ cơ quan 1.2.2.1. Tần số tim Theo Frolkis (theo [62]) thì tần số tim của trẻ sơ sinh là 120-140 nhịp/phút, ở tuổi học sinh là 70 nhip/phút. Trong cuốn “HSSH” [85], các tác giả tiến hành đếm mạch cổ tay, cổ hoặc nghe tim trong một phút và tính giá trị trung bình của các đối tượng nghiên cứu cho thấy, tần số tim ở nam trưởng thành là 70-80 nhịp/phút và ở nữ trưởng thành là 75-85 nhịp/phút. Nghiêm Xuân Thăng [77], nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động tim mạch và huyết áp với khí hậu của cư dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ở hai nhóm tuổi 12-15 tuổi và 18-25 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tần số tim và huyết áp ở nhóm tuổi nào cũng chịu ảnh hưởng của khí hậu. Tần số tim tăng theo sự tăng của nhiệt độ môi trường và biến đổi trong ngày. Trong ngày, tần số tim tăng dần từ sáng đến trưa, cao nhất lúc 12 -14 giờ, sau đó giảm dần và thấp nhất lúc 22-24 giờ. Vào cùng một thời điểm thì mùa hè tần số tim cao hơn mùa đông. Ngoài ra, tần số tim còn bị chi phối bởi các yếu tố khác như lao động và trạng thái tâm lý. Đoàn Yên và cs [88] nhận thấy, người Việt Nam trước 12 tuổi có tần số tim của nam và nữ gần như nhau, sau 12 tuổi tần số tim có sự khác biệt theo giới tính, từ đó đến già tần số tim của nữ cao hơn của nam. Tần số tim của người Việt Nam biến đổi có tính chu kỳ. Tần số tim giảm dần cho đến 25 tuổi đạt trung bình 72 nhịp/phút sau đó ổn định đến 69 tuổi. Theo Tạ Thuý Lan và Trần Thị Loan [53], [54] cho thấy, tần số tim của người lớn trong điều kiện nghỉ ngơi là 68-70 nhịp/phút còn ở trẻ em tần số tim cao hơn nhiều so với người lớn và phụ thuộc vào lứa tuổi. Cụ thể, trẻ em lúc 6 12 tháng tuổi là 120-140 nhịp/phút, trên 6 tháng tuổi là 100-130 nhịp/phút, 2 tuổi là 90-120 nhịp/phút, 5-6 tuổi là 80-110 nhịp/phút. Trần Thị loan [62] nhận thấy, tần số tim của học sinh giảm dần theo tuổi. Từ 6-17 tuổi tần số tim của học sinh nam giảm 18,90 nhịp/phút, mỗi năm giảm trung bình 1,72 nhịp/phút và của nữ giảm 14,00 nhịp/phút, mỗi năm giảm trung bình 1,27 nhịp/phút. Đỗ Hồng Cường [12], nghiên cứu trên học sinh trung học cơ sở các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã cho thấy, từ 11-15 tuổi tần số tim của học sinh nam và của học sinh nữ các dân tộc giảm dần. Ở học sinh nam mỗi năm giảm khoảng 1,95-2,36 lần/phút còn ở học sinh nữ giảm khoảng 1,75-2,02 lần/phút. Tần số tim của nam nữ học sinh giữa các dân tộc không có sự khác biệt và ở các lứa tuổi khác nhau tần số tim của nữ đều cao hơn của nam. Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy, tần số tim có thể biến đổi theo tuổi, tùy thuộc vào trạng thái tâm sinh lý, khí hậu, bệnh lý, giới tính. 1.2.2.2. Huyết áp động mạch Trong cuốn “HSSH” [85], huyết áp động mạch của trẻ em tăng dần từ 13-15 tuổi. Huyết áp của nam cao hơn của nữ. Ở nhóm trẻ từ 10-14 tuổi huyết áp tâm thu là 104,6 mmHg và huyết áp tâm trương là 62,0 mmHg. Các tác giả nhận thấy, huyết áp thay đổi tùy theo tư thế của trẻ khi đo. Cụ thể là khi đo đứng cao hơn khi nằm và ngồi. Trần Đỗ Trinh [84], nghiên cứu huyết áp người Việt Nam tại 20 tỉnh thuộc 7 vùng địa lý trong cả nước từ 15 tuổi trở lên. Tác giả nhận thấy, huyết áp tăng dần theo tuổi ở cả nam và nữ, mức tăng chậm nhất ở nhóm tuổi 15-19. Huyết áp của nam cao hơn của nữ khoảng 1-3 mmHg và có ý nghĩa thống kê. Đoàn Yên và cs [88], nghiên cứu tần số tim và huyết áp của người Việt Nam nhận thấy, sau khi sinh, tần số tim và huyết áp động mạch biến đổi có 13 tính chu kỳ. Huyết áp động mạch tăng đến 18 tuổi, sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng dần. Huyết áp động mạch của người Việt Nam ở mọi lứa tuổi đều thấp hơn so với người châu Âu, châu Mỹ. Theo Frolkis (theo [87]), ở trẻ dưới 5 tuổi huyết áp của nam và nữ hầu như bằng nhau, còn từ 5-9 tuổi huyết áp của nam cao hơn của nữ. Kết quả nghiên cứu của Fedorova, Kaluifnaia (theo [62]) cho thấy, ở lứa tuổi 8-12, huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu của nam đều cao hơn của nữ. Theo Tổ chức y tế thế giới (theo [62]), người trưởng thành có huyết áp tối đa là 110-120 mmHg và huyết áp tối thiểu là 90 mmHg trở lên gọi là cao huyết áp. Nếu như huyết áp tối đa thấp hơn 100 mmHg và huyết áp tối thiểu thấp hơn 60 mmHg gọi là hạ huyết áp. Trần Thị Loan [62], nghiên cứu huyết áp động mạch của học sinh từ 617 tuổi ở Hà Nội đã cho thấy, huyết áp của học sinh tăng dần theo tuổi, mỗi năm tăng trung bình 2 mmHg. Tốc độ tăng huyết áp không đều. Thời điểm tăng nhanh huyết áp ở nam lúc 13 tuổi, ở nữ lúc 12-13 tuổi. Từ 6-17 tuổi huyết áp của nữ cao hơn của nam khoảng 2-3 mmHg. Đỗ Hồng Cường [12], nghiên cứu huyết áp động mạch của học sinh trung học cơ sở các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình đã nhận xét rằng, huyết áp động mạch của học sinh tăng dần theo tuổi, hiện tượng này liên quan với sự biến đổi cấu trúc và chức năng hệ tim mạch trong quá trình phát triển cá thể. Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy huyết áp biến đổi theo tuổi, giới tính, hoạt động sinh lý, theo các vùng miền và các nước khác nhau. 1.3. CÁC CHỈ SỐ TRÍ TUỆ CỦA TRẺ EM 1.3.1. Trí tuệ Trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết vấn đề nhanh chóng thích nghi với tình huống mới. Trí tuệ là khả năng rất quan trọng trong hoạt 14 động của con người, có liên quan đến cả thể chất và tinh thần. Hoạt động trí tuệ biểu hiện ra nhiều mặt, có liên quan đến nhiều hiện tượng tâm sinh lý và nhiều bộ môn khoa học khác nhau như triết học, sinh học, y học, xã hội học, giáo dục học.... Bởi vậy việc nghiên cứu trí tuệ được coi là một lĩnh vực liên ngành [9], [10], [11], [31], [37], [73]. Cho đến nay, vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về trí tuệ và có thể phân chia thành ba khuynh hướng chính. Khuynh hướng thứ nhất coi trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực học tập của cá nhân. Theo Huarte J. (theo [79]), trí tuệ là tập hợp các khả năng lĩnh hội tri thức, phán xét, đánh giá và sáng tạo. Khuynh hướng thứ hai coi trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng. Theo Rubinstein. S. L (theo [62]), hạt nhân của trí tuệ là các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa). Khuynh hướng thứ ba coi trí tuệ là năng lực thích nghi của con người đối với thế giới xung quanh. Đại diện cho khuynh hướng này là Stern (theo [79]). Theo Wechsler D. (theo [93]), trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, được thể hiện trong hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán, thông hiểu và làm cho môi trường thích nghi với những khả năng của mình. Piaget J. [73], (theo [90]) lại coi trí tuệ là hình thái nhất định của sự cân bằng, hình thành trên nghiên cứu cơ sở tri giác, kỹ xảo. Bản chất của trí tuệ bộc lộ trong mối quan hệ giữa cơ thể với môi trường (theo [37]). Ngoài ra, năng lực trí tuệ còn được hiểu ở các phẩm chất khác như óc tò mò, lòng say mê, sự hứng thú, sự kiên trì và miệt mài. Năng lực trí tuệ còn thể hiện ra hành động như nhanh trí, tháo vát, linh hoạt sáng tạo hay thể hiện ở khả năng tưởng tượng (óc tưởng tưởng tượng phong phú, hình dung ngay và đúng điều người khác nói). Do đó, có thể nói năng lực trí tuệ biểu hiện ở cả hai mặt nhận thức và hành động. Sự tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về trí tuệ chứng tỏ, nó là hoạt động phức tạp của con người. Xung 15 quanh vấn đề trí tuệ, các nhà nghiên cứu còn dùng các thuật ngữ “trí khôn”, “trí thông minh”… Theo Claparede và Stern, trí khôn là sự thích nghi của tinh thần với các hoàn cảnh mới (theo [71]). Còn theo D.Wechsler [92] thì trí khôn là tổng thể của nhiều chức năng trí tuệ, gắn chặt với nhiều điều kiện văn hóa xã hội nơi con người sinh ra và lớn lên. Trí khôn thường dùng cho động vật và trẻ em. Thông minh là phẩm chất cao của trí tuệ mà bản chất của nó là tư duy tích cực, chủ động, sáng tạo, linh hoạt trước những vấn đề thực tiễn và có liên quan chặt chẽ với trình độ văn hóa của mỗi người. Như vậy, trí tuệ, trí khôn, trí thông minh là những khái niệm có nhiều điểm giống nhau nhưng có tính chất biểu hiện khác nhau. Trong đó trí khôn, trí thông minh là các phạm trù hẹp nằm trong nội hàm trí tuệ. Để đánh giá năng lực trí tuệ, có nhiều phương pháp khác nhau. Một phương pháp phổ biến là dùng trắc nghiệm (test). Thuật ngữ “test” trong tiếng Anh có nghĩa là “thử” hay “phép thử”. Test là phương pháp để thăm dò một vài đặc điểm của năng lực trí tuệ (khả năng ghi nhớ, chú ý, năng khiếu... hoặc để kiểm tra kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo...). Từ sau năm 1905, nhà tâm lý học Pháp A. Bitnet (1857-1911) cộng tác với T. Simon [89] tiến hành hàng loạt các thực nghiệm nghiên cứu năng lực trí tuệ của trẻ em ở các lứa tuổi khác nhau và công bố hệ thống trắc nghiệm để xác định mức độ phát triển trí tuệ. Các test này được dùng làm kiểu mẫu để phát triển nhiều test trí tuệ khác (Test phân tích nghiên cứu trí tuệ của R.Meili (1828) (theo [35]), test khuôn hình tiếp diễn của J.Raven (1936) [91], test trí thông minh của trẻ em WISC [92] và test trí thông minh của người lớn WAIS [93], test cấu trúc trí tuệ của Anthauer (1953) (theo [2]). Hiện nay, trên thế giới có nhiều loại test được sử dụng, nhưng test “khuôn hình tiếp diễn” của J.Raven (test Raven) là trắc nghiệm được sử dụng 16 phổ biến và rộng rãi nhất. Test Raven được xây dựng trên thuyết tri giác hình thể của tâm lý học Gestal và thuyết tân phát sinh của Spearman. Test Raven được công bố lần đầu tiên năm 1936. Sau hai lần chuẩn hóa vào năm 1945 và 1956, đã được UNESCO công nhận và chính thức đưa vào sử dụng để chẩn đoán trí tuệ của con người từ năm 1960 [1], [80]. Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của các công trình [1], [2], [31], [38]...cho thấy, có thể sử dụng test trí tuệ để đánh giá khả năng hoạt động trí tuệ của trẻ em Việt Nam. Đơn vị được sử dụng để đánh giá năng lực trí tuệ của con người là chỉ số thông minh (IQ). Từ cuối những năm 80 trở lại đây đã có một số công trình nghiên cứu trí tuệ của học sinh Việt Nam. Một số tác giả [3], [36], [80] quan tâm đến bản chất và cấu trúc của trí tuệ. Kết quả nghiên cứu của các công trình [1], [2], [34], [35], [78], [79]…cho thấy, có thể sử dụng các trắc nghiệm trí tuệ để chẩn đoán khả năng hoạt động trí tuệ của trẻ em. Người đầu tiên nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của học sinh Việt Nam là Trần Trọng Thủy [78], tác giả đã nghiên cứu sự phát triển trí tuệ bằng test Raven và đã xác định được chiều hướng, cường độ, trình độ và chất lượng phát triển trí tuệ ở học sinh, đồng thời còn đề cập đến mối liên quan giữa trí tuệ và thể lực của học sinh. Ông nhận thấy, sự phân phối điểm IQ của học sinh Việt Nam gần với phân phối chuẩn, năng lực trí tuệ của học sinh nông thôn và thành thị, với trình độ học lực và thành phần gia đình có sự khác biệt. Ngô Công Hoàn [34], khi nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của học sinh thành phố Huế và Hà Nội đã cho thấy, có sự chênh lệch về mức độ phát triển trí tuệ giữa học sinh bình thường với học sinh chuyên toán. Trịnh Văn Bảo và cộng sự [4], [5], đã nghiên cứu mối quan hệ giữa yếu tố di truyền và sự phát triển trí tuệ của học sinh. Tác giả nhận thấy, yếu tố di truyền là tiền đề cho sự phát triển trí tuệ của học sinh. 17 Tạ Thúy Lan và Võ Văn Toàn [47], [48], [75], [76], nghiên cứu khả năng hoạt động trí tuệ của học sinh tiểu học, trung học cơ sở ở Hà Nội và Quy Nhơn bằng test Raven và điện não đồ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng lực trí tuệ của học sinh tăng dần theo lứa tuổi và có mối liên quan thuận với kết quả học tập. Khả năng trí tuệ của học sinh Quy Nhơn kém hơn so với học sinh Hà Nội. Khả năng hoạt động trí tuệ của trẻ em tương quan với quá trình hoàn chỉnh hóa điện não đồ, thể hiện qua nhịp α và nhịp β ở vùng chẩm, trán. Tạ Thúy Lan và Trần Thị Loan [50], [51], [52], nghiên cứu trí tuệ của học sinh nông thôn và thành phố Hà Nội bằng test Raven. Kết quả ngiên cứu cho thấy, khả năng trí tuệ của học sinh nông thôn kém hơn so với của học sinh Hà Nội, giữa học sinh nữ và học sinh nam không có sự khác biệt rõ về khả năng độ hoạt động trí tuệ. Điều này chứng tỏ, hoạt động trí tuệ của học sinh không phụ thuộc vào giới tính. Trần Thị Loan [57], [58], [59], [61], [62], nghiên cứu mối quan hệ giữa năng lực trí tuệ và học lực của học sinh phổ thông và nghiên cứu trí tuệ ở độ tuổi (6-17 tuổi). Tác giả nhận thấy, trí tuệ và học lực của học sinh có mối liên quan thuận không chặt chẽ. Quá trình phát triển trí tuệ của học sinh diễn ra liên tục và không có sự khác biệt theo giới tính. Năng lực trí tuệ có mối liên quan nghịch với chỉ số pignet và tương quan thuận với chỉ số BMI nhưng các mối liên quan này không chặt chẽ. Tạ Thúy Lan và Mai Văn Hưng [49], nghiên cứu trí tuệ của học sinh ở Thanh Hóa đã nhận thấy, năng lực trí tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi và có mối liên quan thuận với học lực. 1.3.2. Trí nhớ Trí nhớ là hoạt động liên quan đến toàn bộ đời sống tâm lý con người, là thành phần quan trọng của trí tuệ. Trí nhớ là sự tiếp nhận và tái hiện những sự vật, hiện tượng mà con người đã cảm giác, đã suy nghĩ, đã hành động. Trí 18 nhớ của con người là một quá trình hoạt động phức tạp có bản chất là sự hình thành các đường liên hệ thần kinh tạm thời, lưu giữ và tái hiện chúng. Khi các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan tác động vào cơ thể con người thì chúng gây ra các cảm giác đơn lẻ. Sau đó bộ não phân tích tổng hợp để cho tri giác trọn vẹn các sự vật, hiện tượng và để lại dấu vết của chúng trên vỏ não [16], [50]. Trí nhớ của cá thể rất khác nhau, nhưng tất cả các cách nhớ đều có thể xếp vào hai nhóm chính là trí nhớ dài hạn (lưu giữ hình thông tin trong một khoảng thời gian dài, nó liên quan đến sự thay đổi bền vững về mặt vi thể, hình thành các protein hoạt hóa) và trí nhớ ngắn hạn hay sự lưu thông hưng phấn trong các vòng neuron [45], [46], [63]. Về cơ chế nhớ, một số tác giả đã cho rằng, việc hình thành phản xạ có điều kiện đã tạo nên các “vết hằn” của trí nhớ. Như vậy phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý của trí nhớ. Theo Hyden (theo [63]) thì cơ sở của trí nhớ là sự thay đổi trong cấu trúc phân tử axit ribonucleic (ARN). Theo Conell M. C và Jacobson (theo [63]), trí nhớ có liên quan đến lượng axit dezoxyribonucleic (ADN) trong các nơron. Penphil W.(theo [63]) lại cho rằng trong não có những trung khu nhớ và mọi kích thích tác động lên cơ thể đều được giữ lại dưới dạng lưu trữ. Ở Việt Nam cũng có một số tác giả nghiên cứu về trí nhớ [5], [62], [77] … Nghiêm Xuân Thăng [77], nghiên cứu khả năng ghi nhớ của học sinh và sinh viên Nghệ Tĩnh từ 10-20 tuổi trong các điều kiện khí hậu khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khả năng ghi nhớ của học sinh biến đổi theo sự biến động của nhiệt độ, độ ẩm, cường độ bức xạ và đối lưu không khí. Trịnh Văn Bảo và cs [5], nghiên cứu trí nhớ của học sinh lớp 6 trường Marie-Curie và trường Trung học cơ sở Tô Hoàng Hà Nội có nhận xét, trí nhớ của nhóm học sinh năng khiếu tốt hơn của nhóm học sinh bình thường. 19 Trần Thị Loan [62], nghiên cứu trí nhớ của học sinh từ 6-17 tuổi tại quận Cầu Giấy, Hà Nội. Tác giả cho thấy, trí nhớ của học sinh tăng dần theo tuổi và không có sự khác biệt giữa nam và nữ. 1.4. CHỈ SỐ VƯỢT KHÓ (AQ) CỦA TRẺ EM Chỉ số vượt khó là chỉ số đo khả năng ứng xử, quản lý nghịch cảnh, khó khăn, stress. Bên cạnh các chỉ số quen thuộc như IQ hay EQ, hiện nay AQ được coi là một trong những chỉ số định lượng các phẩm chất tạo nên thành công của con người [94]. Năm 1997, nhà tâm lý học người Mỹ Paul Stoltz [94] đưa ra một khái niệm về AQ. Ông đã định nghĩa AQ là đại lượng đo khả năng đối diện và xoay sở của một người trước những thay đổi, áp lực và những tình huống khó khăn. Paul Stoltz khẳng định dựa vào chỉ số AQ có thể giải thích được tại sao một số người không hẳn đã thông minh hay được giáo dục tốt, kiến thức xã hội không nhiều, mà lại thành công trong khi nhiều người khác thất bại. Ông viết ra trên cơ sở tích lũy kinh nghiệm thực tế từ những nghiên cứu trên hàng ngàn giám đốc điều hành và nhân viên trong những lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Cuốn sách này đã nhanh chóng được nhiều doanh nghiệp áp dụng và trở thành bí quyết thành công của nhiều tập đoàn, tổ chức. Nó được sử dụng trong những bài tập dành cho vận động viên thể thao Olympic, trường học, tập đoàn, doanh nghiệp. Theo tác giả, AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, sáng tạo... của con người. Nó cũng chính là một cảnh báo về 4 mức độ cao thấp của bản lĩnh sống (đối mặt khó khăn, xoay chuyển cục diện, vượt lên nghịch cảnh, tìm ra lối thoát). AQ gồm 4 chỉ số thành phần: - Chỉ số C - Khả năng kiểm soát, điều khiển. Chỉ số C xác định mức độ kiểm soát các trở ngại của một người. Đó là khả năng phục hồi về thể chất và tinh thần. Người có chỉ số C cao có thể kiểm soát tốt các tình huống xảy ra, 20 ngay cả các tình huống xuất hiện quá khả năng của họ vẫn có thể tìm ra giải pháp, trái ngược với những người có chỉ số C thấp. - Chỉ số O - Khả năng xử lý tình huống. Chỉ số O xác định mức độ chịu trách nhiệm, khả năng xử lý tình huống và hành động. Người có chỉ số O cao thường có trách nhiệm giữ mình để đối phó với bất kỳ tình huống nào đó do họ gây ra. Ngược lại người có chỉ số O thấp thường cảm thấy cô đơn và cần giúp đỡ trong các tình huồng. - Chỉ số R - Khả năng chịu đựng. Chỉ số R xác định mức độ, phạm vi tiếp cận sự kiện, sức chịu đựng các cấp độ căng thẳng. Người có chỉ số R cao chấp nhận thất bại và thách thức trong mọi thời điểm và không để nó ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống, trái ngược với những người có chỉ số R thấp. - Chỉ số E - Khả năng nhẫn nại, lạc quan. Chỉ số E xác định thời gian chịu đựng các sự kiện xấu và thước đo sự lạc quan hy vọng. Người có chỉ số E cao luôn đối diện khó khăn với thái độ lạc quan và hy vọng. Ngược lại, người có chỉ số E thấp xem trở ngại như khó khăn không giải quyết nổi. Chỉ số AQ mới được đưa ra cách đây khoảng hơn 10 năm nên ở Việt Nam, chỉ số AQ còn ít được nghiên cứu.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan