Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý hoá sinh theo tiến trình sinh trưởn...

Tài liệu Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý hoá sinh theo tiến trình sinh trưởng, phát triển

.PDF
88
182
144

Mô tả:

Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý hoá sinh theo tiến trình sinh trưởng, phát triển
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cây Chuối (Musa paradisiaca L.) thuộc họ chuối (Musaceae) họ thực vật hạt kín, lớp 1 lá mầm. Thân thảo lá rất to, hình bầu dục, có bẹ lá ôm nhau thành thân giả: cao 3- 4 m. Cụm hoa dạng bông thẳng hoặc treo, nhô ra từ bẹ lá có nhiều bó hoa hẹp bao bằng lá bắc to có màu. Hoa đối xứng bên, lưỡng tính hoặc đơn tính, hoa cái tạo thành quả thường ở phần gốc của trục chung. Đài dính liền với 2 cánh và có cánh môi trong 6 nhị có 1 nhị lép, bao phấn 3 ô bầu hạ 3 ô, mọc nhiều noón, đớnh noón trung trụ. Quả mọng dài, hạt có nội nhũ bột, có 2 chi khoảng 70 loài. Cây chuối có nguồn gốc ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Chuối trồng chủ yếu ở các nước nhiệt đới, nhiều nhất là ở châu Á và Trung Mỹ, trong đó đáng kể là Philippines, Malaysia, Trung Quốc (Đảo Hải Nam), Việt Nam, Panama, Hawaii… Trên thế giới chuối là một trong số cây ăn quả được trồng nhiều nhất, cùng với cam quít, nho, táo, bom. Năm 1978, các nước nhập chuối tới 7,5 triệu tấn, trong khi nhập cam quít 5,4 triệu tấn, bom 3,6 triệu tấn, nho 1,46 triệu tấn, dứa 0,54 triệu tấn. Chứng tỏ chuối được con người ưa chuộng và trao đổi rất nhiều. Ở Việt Nam, chuối được trồng ở mọi nơi vì chuối dễ trồng có thể sống trên nhiều loại đất và lại có nhiều dinh dưỡng vì thế trồng chuối thu được lợi ích kinh tế cao, nên việc trồng chuối được nông dân rất quan tâm. Chuối là cây ăn trái cung cấp nhiều năng lượng, chứa nhiều chất đường bột, các loại vitamin.. dễ tiêu hoá ngoài ra thân và bẹ lá chuối đều có công dụng đối với cuộc sống của con người. Chuối không chỉ dùng để ăn tươi mà cũn có thể làm nguyên liệu chế biến các sản phẩm như chuối sấy khô, làm mứt chuối. 1 Trong y học dõn gian, chuối cũn được dùng để trị một số loại bệnh như sạn mật, loét dạ dày tá tràng, huyết áp…[21] Hà Nội là thủ đô của cả nước, diện tích đất cho trồng trọt là rất hạn hẹp vì vậy người dân khu vực ngoại thành có thể tận dụng đất để trồng chuối thu được sản phẩm quả có giá trị kinh tế và dinh dưỡng. Loại chuối mà được người dân ưa thích hơn cả đó là giống chuối tây quả có đặc điểm vỏ mỏng, quả vị ngọt đậm, thơm. Để bổ sung kiến thức về giá trị của quả chuối tõy tụi quyết định thực hiện đề tài “Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý hoá sinh theo tiến trình sinh trưởng, phát triển của quả chuối tây tại huyện Thanh Trì – Hà Nội” . 2. Mục đích của đề tài - Theo dõi động thái sinh trưởng của quả chuối tây trồng tại huyện Thanh Trì Hà Nội từ lúc hình thành đến khi quả chín. - Định tính và định lượng thành phần dinh dưỡng trong thịt quả qua các pha sinh trưởng phát triển từ đó rút ra quy luật chuyển hóa sinh lí, hóa sinh các chất dinh dưỡng từ khi quả non đến khi quả chín. - Xác định phẩm chất của quả chuối và thời gian chín sinh lí thực sự của quả. Đề tài của chúng tôi cũng mong muốn giúp người nông dân hiểu rõ hơn về giá trị của quả chuối tõy và tiến trình sinh trưởng phát triển của nó để có biện pháp chăm sóc cây phù hợp nhằm đạt năng suất cao, ổn định; đề xuất thời điểm thu hoạch phù hợp với việc bảo quản, vận chuyển; đảm bảo giá trị dinh dưỡng và giá trị thương phẩm cao nhất. Vì quả chuối sau khi thu hái vẫn tiếp tục chín và hô hấp mạnh, chuối thuộc loại quả có hô hấp tuổi khủng hoảng[39]. Quả chuối khi chớn thỡ mềm dễ dập nát khó khăn cho việc vận chuyển và nhanh chóng bị giảm chất lượng và giá trị thương phẩm gây trở ngại cho việc tiêu thụ sản phẩm. 2 PHẦN NỘI DUNG Chương I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Đặc điểm sinh học của cõy chuối 1.1.1. Nguồn gốc phân loại Cây chuối có tên khoa học là: Musa paradisiaca L [2] Thuộc chi: Musa Họ: Musaceae Bộ: Gừng (Zingiberales) Chuối có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, nó được trồng khắp vùng nhiệt đới. Chuối được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ở Việt Nam có khoảng 15 loài chia làm 2 chi Ensete và Musa. Số loài là thế nhưng chỉ loài chuối ăn quả thông thường có số lượng giống khá nhiều: chuối già, chuối xiêm, chuối lá, chuối cao, chuối tiêu, chuối cơm, chuối ngự... Song giống chuối có giá trị kinh tế chỉ có vài giống, thực tế có ba nhóm giống phổ biến là chuối tiêu, chuối tây và chuối ngự [2, 33]. * Chuối tiêu (chuối già) Nhóm chuối tiêu gồm hầu hết những giống được bán trên thị trường thế giới. Những giống chuối tiêu thuộc nhóm này, tuỳ theo chủng loại, có đặc tính khác nhau về chiều cao và thời gian sinh trưởng. Ở Việt Nam, trồng loài lùn cao và lùn thấp, sức chống bệnh tốt hơn. Giống này có năng suất cao, chất lượng tốt, chịu rét tốt. Khi chuối chín bột chuyển hết thành đường nên ăn dễ tiêu [22]. * Chuối tây (chuối sứ, chuối xiêm) Nhóm chuối tây nói chung có quả to nhưng ngắn, vỏ mỏng, thẳng, không cong cong như chuối tiêu. Chuối tây mọc khoẻ, hơn chuối tiêu ở mặt 3 chịu hạn, chịu úng, chịu đất xấu và chống bệnh. Giá trị về cung cấp năng lượng ở chuối tây cao hơn chuối tiêu, nhiều bột hơn [22]. * Chuối ngự (chuối cau) Loại chuối này nhỏ trái, nhỏ buồng, có hương vị thơm, ngọt nhưng năng suất thấp Hiện nay ba giống chuối tiêu, chuối tây và chuối ngự được trồng phổ biến nhất và cũng là ba giống được thị trường chấp nhận, có nhiều tiềm năng xuất khẩu nếu như công nghệ mới về cải thiện giống, kỹ thuật trồng trọt và công nghệ sau thu hoạch được đầu tư và thực hiện nghiêm túc. Đặc trưng sinh trưởng, phát triển của buồng và quả chuối, ngoài bản chất di truyền còn phụ thuộc vào điều kiện sống do vậy cần xem xét khái quát điều kiện sinh thái và đặc điểm sinh học chung của cây chuối trước khi đi sâu phân tích quá trình chín của quả. 1.1.2. Đặc điểm hình thái của cây chuối Ước tính có khoảng 300 giống chuối hiện được trồng trên thế giới. Mặc dầu, số lượng giống chuối là nhiều như vậy nhưng về mặt hình thái chúng đều có cấu tạo cơ bản giống nhau. 1.1.2.1. Rễ chuối Rễ chuối là rễ chùm, nhỏ và mềm. Rễ chuối sơ cấp của cây con Lá trồng bằng hạt thường chết sớm và được thay thế bằng hệ thống rễ hữu hiệu. Cây chuối con trồng bằng thân Thân giả ngầm có hệ thống rễ hữu hiệu ngay từ những rễ đầu tiên. Rễ chuối phát sinh từ hệ thống mạch tiếp giáp giữa vỏ thân ngầm và rễ trụ. 4 Các rễ cái thường mọc thành từng nhóm 3 đến 4 rễ ở bề mặt rễ trụ của thân ngầm chuối, trước tiên có màu trắng và hơi mềm sau đó trở nên cứng. Đường kính rễ cái từ 5 – 10 mm. Số lượng rễ thay đổi tùy theo tình trạng sinh trưởng của cây, thân ngầm chuối khoẻ có khoảng 200 đến 300 rễ cái còn sống ở cây mẹ. Từ lúc trồng đến khi chết cây chuối có tổng cộng khoảng 600 – 800 rễ cái. Trong điều kiện thuận lợi, mỗi ngày rễ cái có thể vươn dài 2 - 4,2 cm. Chúng thường mọc nhiều ở phần trên thân ngầm, phớa dưới chỗ tiếp giáp với bẹ lá, từ vị trí này chúng phát triển theo hướng nằm ngang trong tầng đất mặt, các rễ cái mọc ra ở phần dưới của thân ngầm thường có khuynh hướng mọc theo chiều thẳng đứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt rõ ràng giữa hai loại rễ này. Rễ cái có thể phát triển dài 5 – 10 cm và sâu 75 cm, đôi khi xuống sõu hơn 1,2 m. Rễ cái mọc nhiều nhất từ tháng thứ năm sau khi trồng. Từ các rễ cái sẽ mọc ra nhiều rễ nhánh ngang có đường kính nhỏ hơn rễ cái, từ 1 – 2 mm, dài tối đa khoảng 15 cm, mỗi ngày vươn dài khoảng 1 – 2 cm. Rễ nhánh ngang có nhiều lông để hút nước và dưỡng liệu nuụi cõy, nờn thường được gọi là rễ dinh dưỡng[31]. Rễ nhánh ngang thường mọc cạn trong tầng đất từ 15 – 30 cm và mọc ở phần cuối của rễ cái, vì vậy khi bón phân không nên bón gần gốc [31]. 1.1.2.2. Thân chuối Cây chuối là loài thân thảo lớn nhất. Chuối là loại cây có thân ngầm, nông dõn gọi là củ chuối. Bộ phận quen gọi là thân chỉ là một thân giả do các bẹ lá cấu tạo thành. Toàn bộ cây cao trung bình khoảng 3 - 5 m, có giống như chuối sáp cao tới 10 m. Từ thân chính (thân ngầm) mọc lên thân giả và rễ. Thân ngầm chuối hay còn gọi là thân thật nằm dưới mặt đất, khi phát triển đầy đủ có thể đạt đến đường kớnh 30 cm. Phần bên ngoài chung quanh thân ngầm được bao phủ bởi những vết sẹo từ bẹ lỏ cú dạng tròn. Ở đáy mỗi bẹ lá đều có một chồi mầm nhưng chỉ 5 có các chồi ở phần giữa đến ngọn thân ngầm là phát triển được, có khuynh hướng mọc trồi dần lờn. Cỏc sẹo bẹ lá mọc rất gần nhau làm thành khoảng cách lóng rất ngắn. Phần mô phân sinh ở ngọn thân ngầm cho ra cỏc lỏ chuối ngay từ khi cõy cũn nhỏ. Khi cây trưởng thành, điểm sinh trưởng ở thân ngầm chuối chuyển hoá thành một hoa. Trước tiên, thân thật bị thu hẹp từ 30 cm xuống còn 5 -8 cm, sau đó vươn dài ra khỏi thân giả cùng với một buồng hoa. Phần bên trong thân ngầm chuối gồm 2 vựng chớnh là trục trung tâm và vỏ thân ngầm. Sau khi tách khỏi cây mẹ, thân ngầm chuối phát triển theo chiều ngang ít đi, các chồi mầm nhanh chóng phát triển lên khỏi mặt đất thành lập một thân mới gọi là thân giả. Thân giả cao từ 2 -8 cm tùy giống, được hình thành do các bẹ lá ốp sát vào nhau. Màu sắc thân giả thay đổi tùy giống. 1.1.2.3. Lá chuối Đặc điểm chung của lá chuối là lá lớn, mọc xen. Từ khi trồng đến khi đốn cây, cây chuối mọc ra chừng khoảng 60 – 70 lá. Các loại lỏ trờn cõy gồm có:- Lá vảy: Mọc trên chồi lỳc cũn nhỏ, chỉ có bẹ và gân lá. - Lỏ mỏc: Lỏ cú bẹ với phiến lá rất nhỏ, hình lưỡi mác. - Lá mo (lá bắc): Mọc trên phát hoa (cùi buồng) và trên buồng hoa (bắp chuối). - Lá cờ: Chỉ có một lá cờ, xuất hiện báo hiệu cây sắp trổ hoa. Phiến lá to, ngắn, cuống lá rất rộng. - Lá bàng: Là loại lỏ chính của cây, cấu tạo gồm bẹ lá, cuống lá, phiến lá với gõn chớnh và cỏc gõn phụ. - Đọt xì gà: Là giai đoạn phiến lá chưa nở ra, vẫn còn cuộn tròn. * Bẹ lá: Mọc từ thân ngầm, vươn dài ra trên mặt đất. Cắt ngang bẹ thấy có dạng hình lưỡi liềm giữa phình to 2 -3 cm, mỏng dần về hai bên. Trong bẹ có 6 những lỗ hổng to chứa đầy không khí, chiếm gần hết diện tích với các vách ngăn là cỏc bó mạch dẫn. Khi bẹ lỏ phớa ngoài già, sẽ bị các bẹ non bên trong nong ra làm dạng lưỡi liềm của thân bẹ càng mở rộng [31]. Trờn thân giả, các bẹ lá xếp thành vòng xoắn ốc chênh nhau một góc từ 150 – 1700. Chân bẹ mở rộng bao quanh thân ngầm, khi chết để lại sẹo bị suberin hóa. Ngoài việc đếm lá còn xanh để biết chuối mọc nhanh hay chậm, việc quan sát các bẹ chuối mà phiến lá đó khụ sẽ biết chuối mọc mạnh hay yếu. Ở các cây chuối mọc nhanh thì các bẹ này có khuynh hướng tỏch nghờng ra khỏi thân giả. Bẹ dính sát vào thân khi cây mọc yếu. Bẹ lá thường sống lâu hơn phiến, mọc theo hình xoắn ốc, dài tối đa 30 cm mỗi ngày. * Phiến lá: Rất rộng, mọc đối xứng qua gõn chớnh, phiến lá dày 0,35 – 1 mm, cú cỏc gõn phụ song song nhau và thẳng gốc gõn chớnh. Tùy giống mà gân phụ nổi rõ lên hay không. Trước khi trổ, lá chuối cuốn lại còn gọi là đọt xì gà, khi trổ thì phiến bên trái mở ra trước. Khi nhiệt độ trên 25 0C với đầy đủ nước và dinh dưỡng, đọt xì gà có thể vươn dài 17 cm/ngày (phát triển mạnh nhất vào ban đêm). Khi điều kiện thời tiết thuận lợi thì khoảng năm đến chín ngày sẽ nở ra một lá (giống Naine và Poyo), tám đến mười một ngày ở giống Gros Michel. Nhiệt độ thấp sẽ kéo dài thời gian nở lá, ở nhiệt độ dưới 160C thỡ lỏ không nở được, ở 25 0C lá nở bình thường. Chiều dài phiến lá thường thay đổi nhiều hơn chiều rộng. Kích thước phiến lá còn tùy thuộc các thời kì tăng trưởng của cây chuối, chất dinh dưỡng, các yếu tố khí hậu (nhất là nhiệt độ) [31]. Một cây chuối đang phát triển tốt thường có khoảng mười đến mười lăm lá bàng, trong đó 4 – 5 lỏ trờn ngọn là quang hợp mạnh nhất. Nếu chuối mọc thật tốt thì có thể có hai mươi lá bàng. Khi buồng quả sắp chớn thỡ số lá bàng còn độ 6 – 8 lỏ trờn cõy. Như vậy, khi chưa có buồng một cây chuối cần có khoảng mười lá xanh mới xem là sinh trưởng tạm được. Ở nước ta, 7 chuối trồng ít khi đạt được số lá nói trên vì mức độ thâm canh thường thấp, sâu bệnh nhiều...[31] * Cuống lá: Đỉnh bẹ hẹp dần và dầy lên tạo thành cuống lỏ, cỏc bú sợi trong bẹ xếp chặt hơn nhưng vẫn còn các lỗ thông khí. Cuống lá thường dai chắc để mang nổi phiến lá. Cuống của lá càng mọc sau thì càng dài ra hơn. Khoảng cách giữa hai cuống lỏ trờn thõn giả gọi là lóng giả, lóng càng ngắn càng biểu hiện cây mọc kém. Phiến lá chuối lớn dần mãi cho đến khi chuối sắp trổ buồng. Gõn chính: Là nơi cuống lá kéo dài và nhỏ dần có mang phiến lá hai bên. Ở phần gõn chớnh cú một tầng tế bào đặc biệt để trương nước. Chuối thiếu nước thì sẽ héo và phiến lá uốn cong vào ở tầng này để giảm bớt sự thoát hơi nước. Thời gian một lá chuối sống từ khi nở đến khi khô là 100 – 200 ngày tùy điều kiện dinh dưỡng và sâu bệnh [31]. 1.1.2.4. Hoa chuối và quả chuối * Hoa chuối: Cụm hoa dạng bông thẳng hoặc treo, nhô ra từ bẹ lá có nhiều bó hoa hẹp bao bằng lá bắc to có màu. Hoa đối xứng bên, lưỡng tính hoặc đơn tính, hoa cái tạo thành quả thường ở phần gốc của trục chung. Đài dính liền với 2 cánh và có cánh môi, trong 6 nhị có 1 nhị lép, bao phấn 3 ô, bầu hạ 3 ô, chứa nhiều noón, đớnh noón trung trụ. Có rất nhiều hoa trong một buồng, có thể lên tới 19 ngàn hoa. Trên buồng, hoa mọc thành từng 8 chùm (nải hoa) trờn chóp của thân ngầm, theo đường xoắn ốc. Hoa sắp thành hai hàng tạo thành nải chuối. Những chùm hoa mọc sau có số hoa ít dần và kích thước cũng nhỏ dần. Hoa cỏi có núm và vòi nhụy lớn, cánh hoa thường có màu trắng chia thành năm khía ở đỉnh, nhị đực không có túi phấn. Hoa đực cú noón thoái hóa, vòi nhụy nhỏ và nhị đực có bao phấn, nhưng ở các giống trồng trọt thì ít khi bao phấn chứa phấn hoa. Một ngày sau khi nở, hoa đực rụng. Hoa cái không có tầng tế bào rụng ở đáy noón nờn không rụng. Đầu núm nhụy hoa cái có mật hoa để thu hút ong, bướm, kiến. * Quả chuối: Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới 20 quả, và mỗi buồng có 3–20 nải. Buồng chuối nặng 30–50 kg. Một quả trung bình nặng 125 g, trong số đó vào khoảng 75% là nước và 25% là chất khô. Mỗi quả riêng có vỏ dai chung quanh thịt mềm ăn được. Trong cùng một nải cũng có sự khác biệt về kích thước quả. Quả ở hàng trên lớn hơn ở hàng dưới. Sự khác biệt này lớn nhất ở nải thứ nhất (15%) và giảm dần đến nải cuối cùng thì không có sự khác biệt nữa. Kích thước trung bình của quả giảm dần từ nải thứ nhất đến nải cuối và thường quả nải cuối chỉ đạt 55 – 60% so với nải thứ nhất [31]. 1.1.3. Đặc diểm sinh thái của cây chuối Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp 20 – 25oC. Ở miền Bắc nước ta mùa đông nếu nhiệt độ xuống dưới 15oC nhiều ngày, đó cú biểu hiện ngọn chuối bị rụt lại, lá nhạt màu, thân bị nứt, hoa trổ khụng thoỏt. Xuống 5 – 6oC cây chuối bị vàng lá hoặc chết, nhất là chuối mới trồng. Chuối chịu được nhiệt độ cao tới 40oC, tuy vậy tình trạng này rất ít xảy ra ở nước ta. Giống chuối tiêu khi quả chín nếu gặp nhiệt độ cao quả to nhưng vỏ dày, không chín vàng, ruột nhão và hơi chua, ít thơm. Nếu chín vào mùa thu đông nhiệt độ thấp, màu quả vàng và chất lượng tốt hơn. Các vườn chuối trồng trong khí hậu á nhiệt đới thường có năng suất cao hơn các vườn chuối ở khí hậu nhiệt 9 đới như ở Việt Nam, tuy rằng ở vựng ỏ nhiệt đới có nhiệt độ thấp vào mùa đông làm chuối ngừng tăng trưởng cả tháng. Nếu chuối chưa có buồng, gặp nhiệt độ thấp thì số lá ra nhiều hơn (40 -45 lá thay vì 30 – 35 lá), thời gian lá xuất hiện lâu hơn, nghĩa là lâu thu hoạch. Nếu chuối bắt đầu trổ buồng mà gặp lạnh thì buồng sẽ hư hại, các hoa chuối sẽ ít hơn. Sau khi trổ buồng mà gặp trời lạnh thì thời gian chín có thể kéo dài đến sáu tháng, ruột chuối bị vàng đi, vỏ bị bầm, dễ thối, phẩm chất xấu[31]. Lượng mưa: Trong mùa mưa, lượng mưa đạt 1500 – 2000 mm, phân bố đều, là đủ cho nhu cầu của chuối. Cây chuối yêu cầu nước rất nhiều do diện tích lá lớn. Người ta đó tớnh với giống chuối tiêu trồng 2.500 cõy/ha thỡ mỗi tháng tiêu thụ gần 2.000 m3 nước. Trong thực tế chỉ cần lượng mưa mỗi tháng khoảng 130 – 150 mm là đáp ứng đủ yêu cầu nước của cây. Cây chuối là cây chịu hạn kém do bộ rễ ăn nông và sức hút nước yếu. Ngay ở những vựng cú lượng mưa hàng năm trên 2.000 mm nhưng có mùa khô rõ rệt thì cũng phải tưới nước mới có năng suất cao. Ở miền nhiệt đới, mỗi tháng nắng cần tưới tiêu trên 180 mm mới đủ thỏa mãn nhu cầu về thoát hơi nước cho chuối. Việt Nam có khí hậu gió mùa, lượng mưa phân bố không đều trong năm. Mùa nắng kéo dài khoảng sáu tháng, lượng mưa không đáng kể và ở vùng đất cao, thủy cấp trong đất rút xuống sâu, chuối bị thiếu nhiều nước cần phải được tưới. Hạn và rét là nguyên nhân chính làm chuối trổ hoa không hết, buồng nhỏ và vặn vẹo, chất lượng kém. Ngược lại, cây chuối chịu úng cũng kém so với nhiều cây ăn quả khác. Nước ngập trên 10 ngày liên tục cây sinh trưởng kộm, lỏ vàng và có thể chết [31]. Ánh sáng: Tất cả các giống chuối đều cần nhiều ánh sáng, vì ánh sáng rất cần thiết cho quá trình quang hợp. Các khí khổng mặt dưới của lá chuối bắt đầu mở để quang hợp khi cường độ ánh sáng bắt đầu từ 1000 lux và tăng dần từ 2000 – 10000 lux, chậm dần từ 10000 đến 30000 lux, sau đó 10 sẽ có hiện tượng bão hòa ánh sáng. Mặt trên của lá chuối ít quang hợp hơn và các khí khổng ở mặt trên lá cần cường độ ánh sáng từ 20000 lux để mở. Vào mùa mưa, nhiều ngày ánh sáng dưới 30000 lux sẽ không đủ cho sự quang hợp tối đa, nhất là trờn nhúm chuối già. Ở những vườn chuối thiếu ánh sáng thì cây con đời sau thường cao hơn đời trước khoảng 50 cm. lá màu vàng trắng khi cây bị thiếu quá nhiều ánh sáng. Không nên để bụi chuối có quá nhiều cây con gây cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng [31]. Đất: Chuối là loại cây dễ trồng khụng kộn đất tuy nhiên sản xuất chuối hàng hóa phải chọn những vùng đất bằng phẳng, có lợi điểm là vận chuyển dễ dàng. Rễ chuối là rễ chùm, nhỏ và mềm. Vì vậy đất trồng chuối cũng phải mềm, kết cấu thuần nhất, không có tầng cứng sỏi đá gần mặt đất. Chuối cũng cần nhiều nước nên đất cũng phải nhiều mùn, xốp, chứa được nhiều nước nhưng cũng cần thoát nước trong mùa mưa. Mực nước ngầm cần sõu trờn 0,8 m. Chuối có thể được trồng trong đất có pH từ 4,5 – 8,5, tuy nhiên thích hợp nhất là khoảng 6. Nói chung, đất trồng chuối không được quá chua, cần nhiều chất hữu cơ, có tỉ lệ N cao, P vừa phải và đủ K. Nói chung, cây chuối khụng kộn đất, ở nước ta vùng nào cũng trồng được vì khí hậu thích hợp, chỉ cần đất không bị ngập nước [22]. Gió: Gió bão yếu tố khí hậu gây thiệt hại vườn chuối khó khắc phục nhất. Ở nước ta gió bão cần phải quan tâm khi lập vườn. Vườn chuối không trồng cây chắn gió sẽ làm lỏ rỏch nhiều, ảnh hưởng đến quang hợp, giảm năng suất sau này. Gió lớn làm tróc gốc, góy thõn, góy bẹ, làm hư hệ thống rễ, tạo điều kiện cho bệnh Panama phát triển. Để khắc phục có thể trồng hàng cây chắn gió [22]. 1.2. Giá trị của cây chuối 1.2.1. Giá trị về dinh dưỡng Chuối là một loại rau quả có thành phần của hầu hết những nguyên tố vi lượng cần thiết cho dinh dưỡng của cơ thể. Theo Viện Nghiên Cứu và 11 Phát Triển Nông Nghiệp Malaysia (MARDI), chuối là loại trái cây duy nhất hội tụ đầy đủ thành phần những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người. Theo phân tích của khoa học, chuối chín bao gồm nhiều hợp chất như cacbohidrat, nitơ, lipit, chất xơ, sinh tố và khoáng chất. Thành phần dinh dưỡng tớnh trờn 100g chuối ăn được (theo cách tính của Tổ chức Nông – Lương thế giới – FAO, 1976) như ở bảng 1. Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của quả chuối chín Giá trị dinh dưỡng trên 100g thịt quả chuối Calories 72 calo Protein 1,8g Lipid 0,2g Calcium 10mg Vitamin C 8mg VitaminA 80UI Đặc biệt chuối có hàm lượng Kali rất cao và cả 10 loại axit amin thiết yếu của cơ thể. Do đó, chuối đặc biệt thích hợp để bổ sung khẩu phần dinh dưỡng cho trẻ em và người già. Thân chuối non xắt mỏng là một món rau ghém quen thuộc ở vùng quê. Bắp chuối có thể làm rau sống, ngâm giấm hoặc làm gỏi trộn. Chuối chát là một món ăn kèm với thịt luộc hoặc cá nướng chấm mắm nêm rất hấp dẫn. 1.2.2.Giá trị dược liệu Theo Đông Y, chuối có vị ngọt, tớnh bỡnh, nhuận phế, chỉ khát, lợi tràng vị. Thân ngầm chuối vị ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc [21]. Y học dân gian dùng chuối hột để trị sạn thận và sạn mật. Ngoài ra chuối có thể điều hoà hoạt động của hệ thần kinh và làm giảm nguy cơ những bệnh về tim mạch do hàm lượng Kali tự nhiên rất cao có trong chuối [21]. 12 Chuối chín có tác dụng làm hạ áp huyết cao Từ lâu y học cổ truyền Ấn Độ đã có kinh nghiệm sử dụng chuối để làm hạ áp huyết cao [21]. Gần đây, nhiều cuộc thí nghiệm khác nhau ở trường đại học Kasturba, Ấn Độ, cũng như trường đại học John Hopskin, Hoa Kỳ, cũng đã xác nhận kết quà này [21]. Ăn chuối chín có thể làm hạ áp huyết cao mà không sợ xảy ra những phản ứng phụ. Chỉ cần ăn 2 quả chuối mỗi ngày, trong một tuần có thể giảm được 10% chỉ số huyết áp. Người ta cho rằng việc hạ huyết áp của chuối đối với những người có huyết áp cao có liên quan đến hàm lượng Kali có trong chuối. Chuối là loại trái cây có hàm lượng Kali cao nhất trong số những loại rau quả thông dụng. Trong một 100gram thịt chuối có đến 396 mg khoáng chất này. Sự tương quan giữa muối Natri và Kali có liên quan đến việc duy trì độ pH và sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể. Trong khi Natri – thành phần quan trọng của muối ăn và những thức ăn mặn hàng ngày – có tác dụng giữ lại một lượng nước nhất định tạo gánh nặng cho hệ tim mạch thì Kali lại có tính năng như một chất điện phân giúp thải trừ bớt Natri ra khỏi cơ thể. Ngoài ra cả hai loại muối này còn liên quan đến việc làm thư giãn cơ bắp. Sự thiếu hụt muối K+ có thể làm gia tăng trương lực cơ và tác động xấu đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm. Những yếu tố này đều có khả năng làm gia tăng áp huyết. Vào tháng 10 năm 2000, FDA (Cơ Quan Quản Trị Thuốc và Thực Phẩm Hoa Kỳ) đã chính thức công nhận "những loại thực phẩm giàu Kali và ít Natri có khả năng làm giảm nguy cơ xơ vữa mạch máu cao và đột quị." Cơ quan này cũng đánh giá chuối thuộc nhóm thực phẩm ưu tiên cho yêu cầu này vì chuối không những có hàm lượng Kali cao, mà còn có nhiều giá trị dinh dưỡng khác. Có lẽ đây là lý do khiến gần đây ở phương Tây người ta đã phổ biến tiêu ngữ "A banana a day keeps the doctor away" (Ăn một trái chuối mỗi 13 ngày để không cần đến thầy thuốc). Căn cứ vào những nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học Mỹ cho rằng nhu cầu trung bình về Kali cho một người để hạn chế hoặc ngăn ngừa nguy cơ đột quị là 3 gram mỗi ngày [21]. Chuối là nguồn bổ sung năng lượng hoàn hảo cho hoạt động thể lực Theo Douglas N. Graham[21], chuối là một nguồn thực phẩm bổ sung rất tốt cho những vận động viên và những người làm việc nặng nhọc. Một bữa ăn chỉ toàn bằng chuối cũng có thể cung cấp đủ năng lượng để duy trì hoạt động thể lực hàng giờ đồng hồ. Trong chuối có cacbohidrat hấp thụ nhanh và cacbohidrat hấp thu chậm. Trong những hoạt động thể lực kéo dài khi năng lượng bị hao hụt nhiều, cơ thể phải huy động đến lượng đường trong máu để cung cấp cho cơ bắp. Những trường hợp này, đường glucose trong chuối được hấp thụ nhanh vào máu có thể bổ sung tức thì lượng đường bị hao hụt giúp vận động viên phục hồi sau khi vận động mệt mỏi. Đường fructose trong chuối được hấp thụ chậm hơn. Ngoài ra chuối còn những cacbohidrat khác được chuyển hoá chậm và phóng thích đường vào máu từ từ có thể đáp ứng cho những hoạt động thể lực kéo dài hàng giờ sau đó. Đặc biệt tỷ lệ Kali cao trong chuối còn liên quan đến trương lực cơ có khả năng làm giảm nguy cơ vọp bẻ ở vận động viên. Do đó, người ta khuyờn nờn chọn chuối trong số những thức ăn nhanh cho vận động viên trước, trong và sau những buổi tập [21]. Chuối xanh chữa bệnh loét dạ dày, tá tràng Nhiều cuộc nghiên cứu khác nhau của những nhà khoa học ở Anh và Ấn Độ đã đưa đến kết luận giống nhau về tác động của chuối xanh đối với các bệnh nhân loét dạ dày, tá tràng [21]. Người ta đã sử dụng những loại chuối khác nhau, chuối khô, chuối bột, chuối xanh, chuối chín, đồng thời với những nhóm đối chứng không dùng chuối. Kết quả cho thấy, chuối xanh được phơi khô ở nhiệt độ thấp có khả năng kích thích sự tăng trưởng của lớp 14 màng nhày ở thành trong của dạ dày. Những tế bào sản xuất chất nhầy được tăng sinh, lớp màng nhầy dầy lên để bảo vệ thành dạ dày tránh khỏi bị loét và còn hàn gắn nhanh chóng những chỗ loột đó hình thành trước đó. Những thí nghiệm này cũng xác định những loại chuối được phơi khô ở nhiệt độ cao, hoặc chuối chín không có tính năng này. Kết quả này cũng phù hợp với kinh nghiệm dân gian dùng chuối xanh phơi khô tán bột để trị bệnh loét dạ dày [21]. Chuối chín chữa bệnh táo bón và ngăn ngừa ung thư ruột già Thịt chuối chín mềm, mịn nhưng lại chứa nhiều chất xơ không hoà tan. Chất xơ không được tiờu hoỏ tạo thành chất bã hấp thu nước và kích thích nhu động ruột nên có tác dụng chống táo bón rất tốt. Mặt khác, việc kích thích nhu động ruột sẽ thúc đẩy nhanh sự lưu thông trong ruột già làm giảm thời gian tiếp xúc của các chất độc hại hoặc có khả năng gây ung thư với niêm mạc ruột. Chất xơ còn có thể hoà quyện, kết dính những chất độc hại này để bài tiết theo phân ra ngoài. Do đó, ăn chuối hàng ngày có thể giúp bảo vệ niêm mạc ruột phòng ngừa nhiều chứng bệnh ở ruột già [21]. 1.2.3. Giá trị kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái Người Trung Quốc cú núi bộ phận nào của cây chuối cũng quý[35]. Từ thân ngầm chuối, thân chuối (thân giả gồm bẹ cuốn ốp), lá khô, lá tươi, hoa, trái xanh trỏi chớn đều có thể sử dụng được: để ăn, làm rau sạch, lá khô và tươi làm nguyên liệu gúi, trỏi chuối chín để cải thiện dinh dưỡng gia đình và làm hàng hoỏ. Cỏc bộ phận của cây chuối đều có thể làm thuốc Nam chữa hàng chục bệnh khác nhau. Chuối dễ trồng, có thể sống trên nhiều loại đất và lại có nhiều dinh dưỡng vì thế trồng chuối thu được lợi ích kinh tế cao, nên việc trồng chuối được nông dân rất quan tâm. - Thị trường trong nước: Tiềm năng thị trường trong nước rất lớn. Trong điều kiện đất đai và khí hậu rất thuận lợi cho các loài cây ăn quả phát 15 triển, nhất là cây chuối ở đâu cũng có thể trồng được, dễ nhân gống, chi phí thấp. Chuối được dùng để ăn tươi, sấy khô làm mứt...[31] - Thị trường nước ngoài: Thị trường chuối trên thế giới là thị trường rộng, là trái cây hàng hóa đứng vào hàng đầu. Theo một thống kê năm 1987, lượng trái cây nhập vào các nước đối với chuối là 7,5 triệu tấn; cam quýt là 5,4 triệu tấn; táo hơn 3,6 triệu tấn; nho 1,46 triệu tấn. Tiêu thụ lớn nhất là Bắc Mỹ và châu Âu. Ở Mỹ công ty UFC có hàng vạn hecta chuối với phương tiện hiện đại để chuyên chở, cắt xén, xử lý, đóng gói và những tàu lạnh chuyên dùng chuyên chở chuối. Ở Việt Nam thị trường xuất khẩu chỉ có ở nước gần như Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia, New Zealand, Singapore,... Tác dụng bảo vệ môi trường Với các đặc điểm sinh học của cây chuối, vườn chuối có độ che phủ tốt, là cây một năm nhưng bụi chuối thì lâu năm. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên chân đất gò rẫy chua phèn mới mở, chuối cùng một số cõy khỏc như khoai mỡ, được coi như “cõy tiờn phong”, sau khi trồng chuối mấy năm, phèn bị rửa trụi nờn đất sẽ thích hợp cho trồng nhiều loại cõy khỏc như mía, rau quả..Tỏc dụng che phủ và ngăn cản đất bị xói mòn, cũng như hiệu quả kinh tế sẽ tăng lên nếu trồng xen vào vườn chuối những cây trồng thích hợp [31]. 1.3. Tình hình trồng chuối trên thế giới và ở Việt Nam 1.3.1. Trên thế giới Trước đõy Linnộ, chuối trồng trọt được chia thành cỏc nhúm:[31] * Musa sapientum L.: chỉ nhóm chuối trỏi chớn ngọt, ăn tươi. * Musa parasidiaca L.: chỉ nhóm chuối khi nấu chín mới ăn được. * Musa corniculata Rumph: là giống chuối Tá – quạ, trái rất to, dài, thường được nấu chín để ăn. Buồng cú ớt nải, trổ hết hoa trên buồng, không còn bắp chuối như các giống thông thường. * Musa sinensis (Musa cavenđish, Musa nana) chỉ nhóm chuối già lùn. 16 Từ năm 1948, Cheesman [31] đã phân biệt hai nguồn gốc chính của các giống chuối trồng trọt là Musa acuminata Colla và Musa balbisiana Colla. Trong họ phụ Musoidae có hai giống là Ensete và Musa.  Giống Ensete: Có khoảng 7 đến 8 loài, các loài trong giống này là dạng hoang dại ở châu Phi, cũng có vài loài ở châu Á nhiệt đới. Đó là những cây rất giống chuối về bộ lá nhưng thân ngầm không đẻ nhánh, ít nhất là trong điều kiện tự nhiên. Các loài này chỉ sinh sản bằng hạt. Các loài trong giống Ensete có lá bắc và hoa dính liền nhau vào cuống buồng.  Giống Musa: Gồm các loài sinh sản bằng hạt và các loài trồng cú trỏi khụng hạt. Các loài sinh sản bằng hạt được biết nhiều ở Ấn độ, Nờpan, Mianma, bán đảo Đông Dương, Malaixia, Indụnexia, Philippin, Tõn Ghinờ và quần đảo phía đông Thái Bình Dương. Các loài sinh sản bằng hạt được xếp vào 2 nhóm:  Nhóm 1: Chi Australimusa: Gồm năm đến sáu loài có hạt hơi tròn, lép, trong chi này chỉ có một loài có giá trị kinh tế là Musa textilis, có nguồn gốc ở Philippin, trồng để lấy sợi. Một số loài trong chi này có nhựa màu và trỏi cú màu sặc sỡ[31]. Chi Callimusa: Gồm 5 đến 6 loài, nhỏ cây, phát hoa mọc đứng, thường gặp ở Malaixia, Indụnexia và Đông Dương, chỉ có giá trị về mặt nghiên cứu.  Nhóm 2: Chi Rhodochlamys: Gồm 5 đến 6 loài, phát hoa mọc đứng và có rất ít hoa trong mỗi lá bắp. Chi Eumusa: Có khoảng 9 đến 10 loài, đây là chi quan trọng. Các loài trong chi này có phát hoa mọc ít nhiều cụp xuống, ngang hay hơi ngang, buồng thừng nghiờng hay đứng, cú trỏi nhiều ở mỗi nải và xếp thành hai 17 hàng. Theo các nghiên cứu về nhiễm sắc thể và di truyền các thứ chuối trồng là tạp chủng giữa Musa acuminata và Musa balbisian [31]. Chuối Acuminata: thân nhỏ, mảnh khảnh cao độ 3 – 4 mét, mọc thành bụi nhiều cây và trái cho hạt gieo mọc được. Chuối Balbisiana thỡ thõn cao to hơn, thân xanh, trái to nhưng ngắn hơn. 1.3.2. Tình hình kinh doanh chuối ở Việt Nam. 1.3.2.1.Một số giống chuối ở Việt Nam Theo từ điển bách khoa nông nghiệp [33], ở Việt Nam có khoảng 30 giống chuối, chuối tõy nhiều nhất, dễ trồng. Dưới đõy là một số giống chuối phổ biến ở Việt Nam: + Chuối tây: quả to, vỏ mỏng. Khi chín quả màu vàng, trũn quả. + Già lùn: Trái cong và vỏ còn xanh khi chín. Chúp trỏi hỡnh cổ chai ngắn, đầu trái bằng phẳng. Quày ớt lụng, dạng nón cụt, chống quày còn có nhiều lá mo chưa rụng hết. + Già (tiêu) hương: Trái hơi cong và còn xanh khi chín, đầu trỏi lõm vào rõ rệt. Quày cú ớt lụng hay trung bình, hình lăng trụ, cuống quày không có mo khụ vỡ rụng hết. Vũi noón khụ cũng rụng hết. + Già (tiờu) cúi: Trái hơi cong và còn xanh khi chín, đầu trái bằng phẳng hay hơi lõm vào. Quày ít lông hay trung bình, quày hơi có hình nón cụt vỡ cú một nải mọc ra xa. Mo khô rụng hết ở quày nhưng còn lại ít hơn già lựn. Vũi noón khụ còn sót lại ở trái. + Cau mẳn: Trái tròn nhưng thẳng, có vỏ láng bóng và màu vàng khi chớn, trỏi rất nhỏ và ngắn. Quày ớt lụng hay lông trung bình. + Cau quảng: Giống như cau mẳn, nhưng trái dài và lớn hơn. + Cau tây (bom): Giống như cau mẳn nhưng lớn hơn cả cau quảng. + Chuối ngự (dong): Trái có cạnh to, trái thẳng và lớn, đầu trái hơi lồi một chút. Quày khụng lụng, vũi noón khụ cũn sút nhiều ở trái. 18 + Chuối xiêm đen: Trái ít cạnh, đầu trái lồi, trái hơi ngắn, kích thước trung bình, cuống hơi ngắn khoảng 2,5 cm, chúp trỏi hỡnh cổ chai. Vỏ trỏi chớn có đốm mốc. Quày khụng lụng. Vũi noón khụ rụng gần hết. + Chuối ximon: Ruột trái màu hồng khi còn non, vỏ vàng trắng lợt khi chín và ăn có vị chua. + Chuối mật: quả có 5 cạnh. + Chuối lá: quả dài, 4 cạnh. + Chuối hột: quả to thẳng, 5 cạnh, có hạt 1.3.2.2. Tình hình trồng chuối ở Việt Nam. Các loại chuối trồng trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều thuộc loài Musa paradisiaca, là cây tam bội thể bắt nguồn từ 2 loài: Musa acuminata (nhị bội thể 2n = 22, phát sinh ở Malaixia) và Musa balbisiana (nhị bội phát sinh ở Ấn Độ) [33]. Ở Việt Nam, chuối được trồng phổ biến ở nhiều vùng trong cả nước. Đế phát triển nghề trồng chuối, ngày nay ở Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản về cây chuối như khả năng tái sinh chuối[20], nghiên cứu tỏch dũng và đọc trình tự gen 18sr DNA của chuối cavendish Việt Nam[26].. 1.3.2.3. Các giống chuối có khả năng xuất khẩu [31] - Goros Michel: Có nguồn gốc ở VN, Malaixia - Lacatan: Là chuối thân cao nhất của nhóm Cavendish. - Poyo: Còn gọi là chuối Robusta, tall Mons Mari, Valery. - Grande Naine: còn gọi là Giant Cavendish, Mons Mari. - Naine: Còn gọi là Dwart Cavendish, Cavendish, Petite Naine. 1.3.2.4. Phẩm chất quả chuối trên thị trường. Hiện nay, các loại hoa quả bỏn trờn thị trường rất nhiều và phong phú với nhiều loại và chất lượng quả khác nhau. Nhưng có một điểm chung là rất nhiều các loại quả đã được hái non và xử lí, bảo quản bằng hoá chất để giữ 19 được quả lâu hơn trong đó có quả chuối. Điều đó ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và gây ô nhiễm môi trường. Như vậy, để hạn chế được việc thu hoạch quả khi quả còn non, phẩm chất dinh dưỡng kộm thỡ cần biết được thời điểm chín sinh lí của quả để thu hoạch quả vừa đạt giá trị dinh dưỡng tốt nhất đồng thời cũng bảo quản dược quả lâu hơn và đặc biệt là hạn chế được việc sử dụng hoá chất trong bảo quản hoa quả. Từ thực tiễn đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài "Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lí, hoá sinh theo tiến trình sinh trưởng và phát triển của quả chuối tõy (Musa paradisiaca L.) nhằm tìm ra thời điểm chín sinh lí của quả chuối tây với mong muốn giúp người nông dân xác định được thời điểm thu hoạch tốt nhất. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan