Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý, hóa sinh theo tiến trình phát triể...

Tài liệu Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý, hóa sinh theo tiến trình phát triển của quả na dai

.PDF
76
417
126

Mô tả:

Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý, hóa sinh theo tiến trình phát triển của quả na dai
PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Cây na hay còn gọi là mãng cầu ta có tên khoa học là Annona squamosa L, thuộc họ Na Annonaceae [1,18,28,30] có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ hiện đang được trồng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, na được trồng ở nhiều nơi trong cả nước, nơi trồng tập trung nhiều nhất là tỉnh Tây Ninh và Lạng Sơn [27]. Cây na nguyên sản ở vùng nhiệt đới, có tính thích nghi rộng, dễ trồng, khụng kộn đất, chịu hạn tốt. Nhưng cây na thích hợp hơn cả là trồng trên đất chõn núi đá vụi thoỏt nước, nhiều mùn, giàu dinh dưỡng [27] nên hiện đang được mở rộng diện tích trồng trên nhiều xã của huyện Hữu Lũng – Lạng Sơn. Ở các tỉnh miền Bắc, người ta phân biệt hai loại na: na dai và na bở. Na bở vỏ quả mầu xanh, thịt bở, khó bóc vỏ hơn so với na dai, quả lại thường hay bị nứt, ăn ngọt song thịt quả không chắc. Ngon nhất là na dai khi chớn khụng nứt bở, vỏ vẫn bọc lấy quả, ít hạt, nhiều thịt, thịt chắc, ngọt đậm và thơm ngon hơn na bở. Hạt nhỏ và dễ tách ra khỏi thịt quả. Xu hướng hiện nay người làm vườn thích trồng loại na dai vì bán được giá cao hơn, quả sau khi hái cất giữ được lâu hơn so với na bở [27]. Hình 1: Hình thái quả na bở (trái) và na dai (phải) 1 Na chủ yếu dùng để ăn tươi, làm nước giải khát, làm rượu. Quả na chín khi ăn có tác dụng hạ khớ, tiờu đờm, ngoài ra còn được dùng để trị kiết lỵ, ỉa chảy, đái tháo và bệnh tiờu khỏt [32]. Rễ, lá, hạt và quả na xanh có thể dùng làm thuốc cho người, để chữa nhiều loại bệnh như làm thuốc trợ tim, tiêu độc các vết thương [27], sốt rét mãn tính, làm thuốc sát trùng, trị giun, chấy rận [32]… Hạt na chứa 15-45% tinh dầu dùng làm thuốc trừ sâu và chế mỹ phẩm [27]. Do tính thích nghi rộng, sớm cho quả (cây trồng bằng hạt nếu được chăm sóc tốt sau 3 năm đã cho quả), năng suất cao lại ít sâu bệnh, trồng trong vườn nhà cho thu nhập cao. Ở vùng đồi gò Hà Tây 1ha na có giá trị sản phẩm khoảng 33 triệu đồng/năm. Vùng núi đá vôi ở Đồng Mỏ - Chi Lăng Lạng Sơn có nhiều gia đình làm giàu nhờ trồng na. Quả na ở Bà Đen – Tây Ninh đã được xuất khẩu sang Pháp, Úc, Canada…[27]. Trên cơ sở tổng quan tài liệu và thực tiễn chúng tôi nhận thấy, hiện nay đề tài nghiên cứu về cây na còn rất hạn chế. Đặc biệt chưa có tài liệu nào chỉ rõ sự biến đổi sinh lớ, hoỏ sinh của quả na dai qua các thời kì sinh trưởng, phát triển cũng như thời gian chín sinh lí của quả, mà điều này rất quan trọng trong thực tiễn bởi: Nếu thu hoạch sớm phẩm chất của quả kém, còn thu hoạch muộn phẩm chất của quả cũng bị giảm sút và nhanh chóng bị hỏng, khó bảo quản. Hữu Lũng – Lạng Sơn là nơi có diện tích trồng na khá lớn và đang ngày càng được mở rộng; với mong muốn góp phần nâng cao hiểu biết về giá trị của cây na nói chung, đặc biệt là na của Hữu Lũng – Lạng Sơn quê hương tác giả, đồng thời bổ sung kiến thức về cây, quả na qua các giai đoạn sinh trưởng phát triển, tìm ra thời điểm chín sinh lí của quả; chúng tôi quyết định thực hiện đề tài: “Nghiên cứu động thái một số chỉ tiêu sinh lý, hóa sinh theo tiến trình phát triển của quả na dai (Annona squamosa) tại Hữu Lũng, Lạng Sơn”. 2 2. Mục đích của đề tài - Theo dõi động thái sinh trưởng của giống na dai trồng tại Hữu Lũng từ lúc hình thành đến khi chín. - Định tính và định lượng thành phần dinh dưỡng trong thịt quả qua các pha phát triển từ khi hình thành quả đến khi quả na chín. - Xác định thời điểm chín sinh lí và phẩm chất dinh dưỡng của quả na dai chín thực sự (ăn được). Nhằm đề xuất thời điểm thu hái hợp lí đảm bảo giá trị dinh dưỡng, giá thương phẩm cao sau thu hoạch. Đề tài của chúng tôi cũng mong muốn người nông dân hiểu rõ thêm về giá trị của cây, quả na và tiến trình sinh trưởng, phát triển của quả na dai để có biện pháp chăm sóc cây cho phù hợp nhằm đạt năng suất cao và ổn định, thu hoạch vào đúng thời gian chín sinh lí của quả để đảm bảo giá trị dinh dưỡng và đạt hiệu quả kinh tế cao. 3 PHẦN NỘI DUNG Chương I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Đặc điểm sinh học của cây na 1.1.1. Nguồn gốc phân loại Cây na hay còn được gọi là mãng cầu ta, phan lệ chi, mác na [21] có tên khoa học là Annona squamosa L, Thuộc chi na: Annona họ na: Annonaceae bộ na: Annonales lớp Ngọc lan: Magnoliophyta [1,18,22,32,36] Cỏc cây ăn trái họ mãng cầu (na) Annonaceae đều có nguồn gốc từ xứ núng chõu Mĩ [25]. Cây na phát sinh rất sớm và được con người thuần hoá trước tiên ở các vùng nhiệt đới châu Mĩ. Từ thế kỉ XVI, cỏc cõy họ na đã được nhập vào nhiều nước nhiệt đới và do tính thích nghi rộng nó được trồng phổ biến ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Tuy nhiên do trái phức hợp, thường to, nhiều nước, khó vận chuyển nên hiện nay na vẫn thuộc loại trái cây chưa khai thác hết tiềm năng [10]. Ở nước ta, cây na là cây được trồng phổ biến ở nhiều nơi trong cả nước. Do dễ trồng, sớm cho quả, năng suất cao, ít sâu bệnh, cho thu nhập cao [27] nên diện tích trồng na đang được mở rộng, đặc biệt có hai nơi trồng na tập chung có giá trị hàng hoá lớn là na Chi Lăng – Lạng Sơn và mãng cầu (na) Bà Đen – Tây Ninh. Hiện nay, diện tích trồng na ở Chi Lăng đã ngày càng được mở rộng ở nhiều xã thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn giáp huyện Chi Lăng. 4 1.1.2. Đặc tính sinh thái của cây na 1.1.2.1. Khí hậu Na có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới nên thích hợp với khí hậu ấm áp và khô. Tuy vậy, na vẫn sinh trưởng được trong điều kiện nóng ẩm. Cây na dai tương đối chịu rét nhưng khả năng chịu rột kộm vải và nhón. Cõy trưởng thành có thể chịu được nhiệt độ O0C trong thời gian ngắn. Người ta thấy ở 40C cõy đó có thể bị thiệt hại do nhịờt độ thấp, vì vậy ít thấy na mọc ở các điểm vùng cao của các tỉnh phía Bắc, nơi hàng năm có sương muối. Về mùa đông, ở các tỉnh phía Bắc cây na ngừng sinh trưởng, rụng hết lá, mùa xuân ấm áp lại ra đợt lá mới, nhờ đó mà na không những được trồng ở miền Bắc mà còn được trồng ở Nam Trung Quốc, Đài Loan, Bắc Ấn Độ...[10]. Nhưng nếu ở cỏc vựng mà nhiệt độ mùa hè quá cao trên 40 0C, lại bị hạn hoặc khụ núng cũng không thích hợp cho việc thụ phấn, thụ tinh của na và sự phát triển của quả, dễ gây hiện tượng rụng quả sau khi thụ tinh hoặc nếu quả có phát triển được cũng kém về năng suất và phẩm chất [27]. Na sinh trưởng phát triển thích hợp ở nhiệt độ trung bình hàng năm 20250C, số giờ chiếu sáng trung bình 2500 giờ/năm [5]. 1.1.2.2. Đất đai Na khụng kộn đất, chịu hạn tốt, ưa đất thoáng, không thích đất úng [10,24,27]. Đất cát sỏi, đất thịt nặng, đất có vỏ sò hến, đất đá vôi đều trồng được na [27]. Tuy chịu được đất cát xấu nhưng chỉ phát huy được ưu điểm nếu đất nhiều màu và nếu cây na không được bón phân thỡ chúng già cỗi, nhiều hạt, ít thịt [10]. Đất phù sa, đất có tầng dày, đất rừng mới khai phá, đất đồi ven sông suối, đất chân núi đá vụi thoỏt nước nhiều mùn, giàu dinh dưỡng là thích hợp hơn cả. Độ pH thích hợp là 5,5-7,4 [27]. 5 1.1.3. Đặc điểm sinh học của cây na *Rễ na Cây na có bộ rễ phát triển, ăn sâu tuỳ thuộc vào loại đất và mực nước ngầm. Bộ rễ gồm một rễ cọc to, dài và nhiều rễ ngang nhỏ hơn. Hình 2: Cây na 8 tháng tuổi *Thân cành na Cây cao 2-8 mét, vỏ có nhiều lỗ bì nhỏ, tròn, trắng [27;28; 29]. Cành na nhỏ, mềm kiểu cành la, thường mọc trên cành mẹ (cành của năm trước). Trờn tỏn cõy, phần từ giữa trở xuống cành cho quả tốt hơn [24]. * Lá na Lỏ hình mũi mác, tù hay nhọn, hơi mốc ở phần dưới, thường dài khoảng 10cm, rộng 4cm, có 6-7 đụi gõn phụ [5]. Lỏ nguyên mềm, dài, nhẵn, mọc so le [26]. Lá mỏng hình thuôn dài hoặc hình trứng, mặt lá mầu xanh lục, lá non có lông thưa đến khi già thì không còn nữa, vũ lỏ có mùi thơm. Cuống lá ngắn, có lông nhỏ, chiều dài cuống khoảng 1,5-1,8cm. Na thuộc nhóm cây ăn quả rụng lá vào mùa đông. Lá rụng xong trơ cuống lúc đó mới mọc mầm mới. * Hoa na Hoa mọc đơn hoặc mọc thành chùm 2-4 hoa trên nách lá hoặc đỉnh cành năm trước hoặc mọc trên đoạn dưới của cỏc lỏ già. Hoa nhỏ, mầu xanh lục, 6 mọc đối với lá, có cuống dài 2-3cm. Chiều dài hoa khoảng 2-4cm, hoa bé 1,4-2cm. Hoa thường rũ xuống có ba lá đài mầu lục, cánh hoa xếp hai vòng, mỗi vòng ba cánh, ba cánh hoa ngoài hẹp và dầy, các cánh hoa ở trong rất hẹp hoặc thiếu hẳn. Nhiều nhị và nhiều lỏ noón, nhị và nhụy của hoa na mọc trên cùng một hoa. Nhị bé nhưng nhiều tạo thành một lớp bọc ở vòng ngoài của nhụy. Nhụy cũng rất nhiều, xếp thành hình tròn, nhọn. Cây na thụ phấn chéo do nhụy thường chín sớm hơn so với nhị của cùng một hoa nên thời gian tiếp nhận phấn ngắn nếu không có côn trùng hoặc thụ phấn bổ sung thì đậu quả kém [27,28; 29]. Cây na thường ra hoa vào tháng 4-5 dương lịch, những lứa hoa đầu thường rụng nhiều, sau đó khi bộ lá đã khoẻ, quang hợp đủ thì đậu quả. Những lứa hoa cuối vào tháng 7-8 cũng rụng nhiều, quả tạo thành nhỏ, vì vậy na thuộc loại trái cây cú mựa [10]. * Quả na Quả mọng, kép, mầu xanh mốc, gần như hình cầu, đường kính từ 710cm, có từng múi, mỗi múi ứng với một lỏ noón, thịt quả trắng, hạt đen, vỏ hạt cứng. Thời gian sinh trưởng và phát triển của quả từ khi hoa nở đến khi quả chín khoảng 90-100 ngày [24]. Mùa na chín từ tháng 6-9 dương lịch. Miền Nam thu hoạch sớm hơn miền Bắc. Quả được thu hoạch làm nhiều đợt, khi quả đã mở mắt, vỏ quả chuyển sang mầu vàng xanh, kẽ mắt na có mầu trắng [24]. Dấu hiệu na chín là mầu trắng xuất hiện ở các kẽ ranh giới giữa hai mắt, các kẽ này dày lên, đỉnh múi thấp xuống. Đối với giống na bở, kẽ có thể nứt toác. Vỏ quả khi vận chuyển nếu bị sát vào nhau dễ thâm lại và nát quả, mã xấu đi [10]. 7 1.1.4. Một số đặc tính sinh lý, sinh thái đặc trưng của cây na dai Ngoài các đặc điểm trên, về mặt sinh lý, sinh thái, na dai cùng với nê được coi là loại cây rễ tính nhất trong họ na, trồng được ở cỏc vựng khí hậu nhiệt đới và cả á nhiệt đới như Đài Loan. Ở đồng bằng sông Hồng hay sông Cửu Long, đất tốt, đủ ẩm hay ở ven biển Nam Trung Bộ với khí hậu nóng, hạn, trên đất cát gần như bỏ hoang đều có thể trồng được na dai và có sản lượng, duy ở đồng bằng thâm canh thì quả to, sản lượng và chất lượng tốt hơn [9]. Còn một ưu điểm nữa là trong các loài na, na dai là loài ra quả nhanh nhất, đầu tư cho một vườn na chóng thu vốn và đầu tư không nhiều. Bệnh cây nguy hại hầu như không cú, sõu nguy hiểm nhất chỉ có rệp sáp, rệp mềm và các loài này dễ trị bằng thuốc. Về đất đai, na dai cũng rất dễ tính. Dọc đường quốc lộ ở Phan Giang và Phan Thiết nhiều người đã gặp những vườn na trên đất cát gần như trắng và trong vườn nhà trên đất xấu nhất, miễn là thoát nước, đặt cây na vào cũng có thể cho quả [9]. Về độ pH đất, nơi nào có thể trồng trọt được, không kể cõy gỡ là có thể trồng được na dai (giới hạn pH rất rộng). Cũng vì na dai dễ tính nên ở Việt Nam người ta trồng na dai rất quảng canh: không chọn giống, có khi không dùng vườn ương mà trồng bằng hạt gieo thẳng vào chỗ cố định. Ở các nơi đất xấu không trồng được cõy gỡ, thường là đất cát, không tưới nước, bỏ phân rất ít mà vườn na vẫn cho quả. Tuy nhiên, quả nhỏ, khi ăn chỉ thấy hạt. So sánh quả na dai của ta bán ở chợ, hai bên đường với những quả na bán ở chợ các nước Đông Nam Á thấy ngay trình độ thâm canh na của ta còn thấp. Đó cũng là một thiệt thòi lớn cho nghề trồng na vì người tiêu thụ không mua, trong khi nhu cầu tiêu thụ quả tươi của ta đang tăng lên [9]. 8 1.2. Giá trị của cây na 1.2.1. Giá trị dinh dưỡng Quả na là một trong những loại quả có giá trị dinh dưỡng cao. Theo GS.TS Trần Thế Tục (2008), trong 100g phần ăn được của quả na cho 66cal, 1,6g protein, 14,5g gluxit, 0,12% axit, 30mg vitamin C, 0,54% chất béo và 1,22% xenlulozơ. Na chủ yếu dùng để ăn tươi, làm nước giải khát, làm rượu [26;27]. Theo GS.TS Vũ Công Hậu, trong quả na dai chứa nhiều đường, canxi, photpho và rất giàu vitamin, trừ vitamin A. Hàm lượng dinh dưỡng chứa trong 100g phần ăn được của quả na so với na xiêm, xoài, chuối sứ [10, 31]: Giá trị dinh dưỡng Na dai Na xiêm Xoài Chuối sứ Năng lượng (cal) 78 59 62 100 Độ ẩm (%) 77,5 83,2 82,2 71,6 Đạm (g) 1,4 1 0,6 1,2 Chất béo (g) 0,2 0,2 0,3 0,3 Cacbonhidrat (g) 20 15,1 15,9 26,1 Xenlulozơ (g) 1,6 0,6 0,5 0,8 Tro (g) 0,9 0,5 0,6 0,8 Canxi (mg) 30 14 10 12 Photpho (mg) 36 21 15 32 Sắt (mg) 0,6 0,5 0,3 0,8 Natri (mg) 5 8 3 4 Kali (mg) 299 293 214 401 Vitamin A (μg) 5 _ 1880 225 Vitamin B1 (mg) 0,11 0,08 0,06 0,03 Vitamin B2 (mg) 0,1 0,1 0,05 0,04 Vitamin PP (mg) 0,8 1,3 0,6 0,6 Vitamin C (mg) 36 24 36 14 Triptophan (mg) 9 11 14 Metionin (mg) 7 7 7 Lizin (mg) 60 60 44 9 Theo FAO (1976), giá trị dinh dưỡng của quả na dai trong 100g phần ăn được so với một số loại quả khác [9]: Thành phần Nước (%) Năng lượng (cal) Gluxit (g) (cả xenlulozơ) Protein (g) Lipit (g) Tro (g) Canxi (mg) Photpho (mg) Sắt (mg) Vitamin A (μg) Vitamin B1(mg) Vitamin C (mg) Cam 88,6 41 Dứa 87 47 Nhãn 81 71 Ổi 80,6 69 Đu đủ 87,1 45 Na dai 77,5 78 9,9 11,6 15,6 17,3 11,8 20,0 0,7 0,2 0,3 26 14 0,2 465 0,09 42 0,7 0,3 0,4 17 12 0,5 35 0,06 22 1,0 1,4 1,0 23 36 0,4 _ 0,3 56 1,0 0,4 0,7 15 24 0,7 75 0,05 132 0,5 0,4 0,5 24 22 0,7 710 0,03 71 1,4 0,2 0,9 30 36 0,6 5 0,11 36 Như vậy, về mặt dinh dưỡng và cả hương vị, na dai xứng đáng được xếp vào loại trái cây nhiệt đới có giá trị. 1.2.2. Giá trị dược liệu Ở nhiều nước khác nhau, người ta sử dụng các bộ phận của cây na để làm thuốc chữa nhiều chứng bệnh. Người ta dùng rễ na và vỏ na trị ỉa chảy và trục giun. Ở Vân Nam – Trung Quốc, lá na dùng để trị trẻ em bị lòi dom, quả dùng trị u ác tính. Ở Thái Lan, lá tươi và rễ dùng để trị chấy, mụn nhọt, nấm tóc, lang ben. Ở Ấn Độ, rễ được dùng để gây xổ, hạt kích thích và gây sẩy thai. Tại Ấn Độ, nước sắc cành non, nước sắc lỏ cũn được dùng để chữa tổn thương bàng quang, ho, tiêu chảy, chứng khó tiêu, thậm chí có tác dụng hỗ trợ phụ nữ sau khi sinh con. Tại Guiana, nước ép từ trái na dùng để chữa say rượu, còn ở Ecuado dùng để giảm đau, trị chứng co thắt. Tại Hà Lan, lá na được cho vào bao gối hoặc khăn trải dường để hi vọng có một giấc ngủ 10 ngon. Nhai lá na đắp lên vết thương hở hoặc vết mổ làm mất sẹo lồi. Lá na giã thành bột nhão, làm thuốc đắp, chữa vết chàm bội nhiễm, thấp khớp. Nhựa lá na non có tác dụng kích thích nhanh lên da non. Bột thịt quả na non có tác dụng làm se mặt vết thương. Nước ép của quả na chín được xem như một phương thuốc lợi tiểu, giúp chữa bệnh huyết liệu [31]. Rễ, lá, hạt, quả na xanh có thể dùng làm thuốc trợ tim, tiêu độc các vết thương cho người [27]. Quả na xanh còn làm săn da, tiêu sưng. Quả chín vị ngọt, hơi chua, tính ấm, có tác dụng hạ khớ ỏch, tiờu đờm, bồi bổ khí huyết, kiện tỳ, nhuận táo [8,21]. Hạt na chứa 38,5- 42% dầu, các axit myristic, palmitic, stearic, arachidic, hexadecanoic, oleic, ancanoit annonain có tính diệt trùng, trừ chấy rận. Lá, vỏ thân và rễ chứa axit hydrocyanic độc [8]. Một số bài thuốc ở Việt Nam sử dụng na: + Lỵ ra nhầy mãi: 10 quả na ương, ăn thịt quả và lấy vỏ, hạt sắc uống. + Mọc mụn ở vú: Quả na điếc mài giấm bôi nhiều lần. + Mụn nhọt, sưng tấy: Lá na và lá bồ công anh lấy cùng lượng giã, đắp. + Sốt rét mãn tính: Lá 20-30g giã, chiết nước ép, phơi sương, thêm rượu, hâm nóng, uống liền 5-7 ngày, chặn cơn sốt. + Giun đũa ngoi lên, ợ nước trong: Rễ na 3-6g sao vàng, sắc uống cho ra giun. + Chấy, rận: Giã hạt na, sắc nước, gội đầu hay ngâm quần áo. Tránh vương vào mắt vì độc. Có thể giã hạt ngâm rượu dùng dần [8]. 1.2.3. Giá trị kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái Tất cả các bộ phận rễ, thõn, lá, quả, hạt của na đều có giá trị sử dụng. Rễ, lá, quả xanh, hạt dùng làm thuốc. Thõn cú hàm lượng xellulozơ từ 65- 11 76%, là nguồn nguyờn liệu tiềm năng cho ngành công nghiệp giấy. Quả na được dõn vựng đảo Virgin dùng làm mồi đánh bắt cá [10]. Cây na sớm cho quả, năng suất cao, ít sâu bệnh, cho thu nhập cao. Vùng núi đá vôi ở Đồng Mỏ, Chi Lăng, Lạng Sơn nhiều gia đình làm giàu nhờ trồng na. Riờng xó Chi Lăng có 800 hộ trồng na với tổng diện tích khoảng 350 ha, tổng sản lượng khoảng 1400 tấn và thu nhập 6-8 tỉ đồng/năm. Năm 2005, tỉnh Tây Ninh có 3036ha na với sản lượng 23136 tấn. Diện tích na tập trung ở chõn nỳi Bà Đen, thị xã Tây Ninh, ở đây 1ha na cho thu hoạch 7-8tấn quả/năm, thậm chí 12tấn quả/năm nhờ làm thêm quả trái vụ. Với 7-8tấn quả/năm/ha bỏn xụ 10000-12000đồng/kg thì 1ha cho thu nhập khoảng 70100 triệu đồng/năm, trừ chi phí đầu tư trung bình 1ha na là 20 triệu đồng, lợi nhuận thu được 50-80 triệu đồng/ha. Na Bà Đen được trở đi tiêu thụ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam bộ, miền Trung, miền Bắc. Những năm gần đây, một số công ty kinh doanh ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đem na Bà Đen xuất khẩu sang Pháp, Úc, Canada... Tuy nhiên, na vẫn chưa được xuất khẩu nhiều chủ yếu vỡ khụng chịu vận chuyển, khó bảo quản [10;27]. Na dai hoàn toàn có thể xuất khẩu nếu được cải tiến giống, giảm tỉ lệ hạt, vỏ, tổ chức đóng gói, chuyên chở tốt, hoặc chế biến thành đồ hộp, thức uống. Một ưu điểm lớn của cây na dai là tính thích ứng rộng. Ví dụ, trên đất cát ven biển miền Nam Trung bộ đất xấu đến độ cỏ mọc cũng khó nhưng người ta vẫn trồng được na dai do nó chịu được mùa khô khắc nghiệt, không cần tưới [10]. Một quả chín nặng khoảng 150-250g có 60-70% thịt vừa một người ăn nên rễ bán. Nghề trồng na dai dễ phát triển vì những lý do sau: Hương vị quả na được nhiều người ưa thích, độ ngọt cao, hơi có vị chua nờn khụng lạt, lại có hương thơm của hoa hồng. Giàu sinh tố, giàu chất khoáng. 12 Thích ứng với nhiều vùng đất khác nhau, dễ trồng, dễ chăm sóc, nhanh cho quả. Cây na được chăm sóc tốt chỉ sau 2-3 năm trồng đã cho quả [10]. Có thể sử dụng cây na làm cây phủ xanh đất chống, đồi núi trọc, đặc biệt là ở vùng núi đá vôi đang nghèo kiệt, hạn chế xói mòn rửa trôi đất, đá bảo vệ môi trường sinh thái và cho thu nhập cao. 1.3. Tình hình trồng và nghiên cứu na trên thế giới và ở Việt Nam 1.3.1. Trên thế giới Cây na dai có nguồn gốc ở vựng Caribờ và Nam Mĩ, nó rất được ưa thích và được trồng nhiều nhất ở đây (chưa kể những cây mọc nửa dại) như ở các nước Mehico, Braxin, Cuba [9]. Từ miền nhiệt đới châu Mỹ, cây na được du nhập sang miền nhiệt đới châu Á từ rất sớm. Hiện nay cây na được trồng ở khắp các vùng nhiệt đới của cả Bắc và Nam bán cầu, thậm chí ở cả vựng ỏ nhiệt đới Florida của nước Mỹ. Chi na (Annona) có khoảng 50 loài khác nhau [24] trong đó có hàng chục loài cú trỏi ăn được nhưng chỉ có hai loài được trồng phổ biến nhất đó là mãng cầu dai (na dai - Annona squamosa) và mãng cầu xiêm (na xiêm Annona muricata) [10]. Trong các loài na (Annona) thích hợp với khí hậu nhiệt đới đứng đầu bảng là na dai, do hương vị thích hợp với nhiều người, nhiều dân tộc và cũng do nú khỏ dễ tính, trồng được cả ở vựng núng và vựng cú mùa đông lạnh nên được trồng nhiều nhất trong các loài na trên phạm vi toàn thế giới. Ngoại trừ na (Annona cherimola) là cõy ỏ nhiệt đới, na dai cũng được đánh giá cao nhất về mặt chất lượng. Những nước đánh giá na dai rất cao là ấn Độ, Cuba, Braxin [10]. Riêng ở Thái Lan, 1986-1987, trồng trên 51500 ha với sản lượng 188900 tấn, một con số không nhỏ với một loại quả được coi là thứ yếu. [9] 13 Ở Ấn Độ, na dai được nhập nội từ lâu và được trồng rộng đến mức độ nó trở thành cây dại và có nhiều tác giả đã cho rằng Ấn Độ là đất tổ của na dai. Theo Venkataratnam (1963), diện tích trồng na ở Ấn Độ đã đạt 44613 ha [8]. Ngay ở Nam Trung Quốc, Đài Loan na dai cũng được đánh giá cao và được trồng rộng rãi với tên gọi là phan lệ chi [8,10]. Mặc dù na được trồng phổ biến ở các nước vùng nhiệt đới, song những nghiên cứu về na lại rất ít. Chủ yếu tập trung vào việc tuyển lựa giống quả to, ít hạt, độ đường cao, kỹ thuật nhân giống, bón phân, cắt tỉa nhưng còn rất hạn chế. Nhiều nghiên cứu đã cung cấp thông tin về giá trị dinh dưỡng của quả na dai ở thời kỳ ăn được nhưng chưa thực sự quan tâm đến biến đổi sinh lý, hoá sinh theo tiến trình phát triển của quả na. 1.3.2. Ở Việt Nam Vùng phân bố cây na ở nước ta khá rộng, trừ những nơi có mùa đông lạnh và sương muối không trồng được na, còn hầu hết các tỉnh đều có na. Phần lớn cây na được trồng lẻ tẻ trong các vườn gia đình với mục đích thu quả để ăn tươi, cải thiện khẩu phần ăn, còn một ít đem ra chợ địa phương bỏn, khụng trở thành hàng hoá lớn [27]. Cỏc vùng trồng na tập trung ở miền Bắc: xó Thỏi Đào, Lạng Giang, Bắc Giang; xã Mai Sơn, Trường Sơn, Lục Sơn, Vô Tranh huyện Lục Nam, Bắc Giang thị trấn Đồng Mỏ, Chi Lăng, Lạng Sơn [26], cỏc xó Hoà Lạc, Cai Kinh, Đồng Tân huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn. Miền Nam: huyện Tân Thành, Châu Đức thành phố Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; tỉnh Tây Ninh, ngoài ra còn ở Ninh Thuận và Đồng Nai. Những nghiên cứu về na ở trong nước cũng rất hạn chế. Cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu thật đầy đủ về các giống na. Qua điều tra, GS.TS Trần Thế Tục nhận thấy, ở cỏc vựng trồng có những giống na có màu vỏ khác nhau: loại vỏ màu xanh nhạt, loại vỏ màu nâu, loại mầu vàng nhạt; được xếp theo hai nhúm: nhúm na dai và nhóm na bở. Xu hướng 14 người dân thích trồng na dai vì bán được giá cao và quả cất giữ được lâu hơn sau thu hoạch [27]. 1.3.3. Tình hình trồng na ở tỉnh Lạng Sơn và huyện Hữu Lũng Theo GS.TS Trần Thế Tục (2008), Vùng trồng na tập trung ở huyện Chi Lăng, Lạng Sơn ước khoảng trên 1300 ha. Bắt nguồn từ người dõn Minh Khai, huyện Hoài Đức, Hà Tây đi kinh tế mới đem đến trồng từ những năm 1960 đến khoảng năm 1980, cây na được trồng lên núi đá và phát triển mạnh từ năm 1990 cho đến nay[27]. Năm 2003-2005, Đào Thanh Vân và các cộng sự Khoa Trồng trọt- Đại học Nông Lâm Thỏi Nguyờn đó tiến hành điều tra đánh giá hiện trạng, tuyển chọn cây ưu tú và xây dựng quy trình thâm canh na ở Chi Lăng- Lạng Sơn. Kết quả bước đầu cho thấy: Na là nguồn thu quan trọng của người dân huyện Chi Lăng, song chủ yếu lại được trồng theo lối quảng canh, thiếu đầu tư chăm sóc nên năng suất thấp, sâu bệnh phát triển, có dấu hiệu suy thoái về chất lượng. Áp dụng một số biện pháp kỹ thuật như: bón phân, tỉa cành, sử dụng chất điều hoà sinh trưởng năng suất và chất lượng được cải thiện một cách rõ rệt. Kết quả của đề tài đã xác định được 8 cây ưu tú, 42 cây xuất sắc, tuy nhiên do không có sự phối hợp với các cơ quan chỉ đạo kỹ thuật địa phương nờn cõy tuyển chọn đã không được bảo tồn lưu giữ. Tỉnh Lạng Sơn có chế độ khí hậu, đất đai tương đối thuận lợi cho sự phát triển của cây na. Diện tích, sản lượng và năng suất trồng na của tỉnh Lạng Sơn không ngừng được tăng lên qua các năm đặc biệt là ở hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng nơi có diện tích trồng na chiếm gần 90,21% tổng diện tích trồng na của cả tỉnh năm 2007. 15 Tình hình khí hậu tỉnh Lạng Sơn qua một số năm gần đây: Năm Nhiệt độ trung bình (oC) Số giờ nắng trung bình (h) Lượng mưa trung bình (mm) Độ ẩm trung bình (%) 2003 21,9 1758 1062 81 2004 21,0 1492 1312 84 2005 21,2 1356 1421 86 2006 21,2 1593 1052 82 2007 21,5 1613 1263 83 (Cục thống kê tỉnh Lạng Sơn, Niên giám thống kê 2007 [7]) Diện tích, sản lượng và năng suất trồng na của tỉnh Lạng Sơn và hai huyện Chi Lăng, Hữu Lũng trong một số năm gần đây: Năm Vùng trồng 2000 2004 2005 2006 2007 Tỉnh Diện tích (ha) 1467,6 1758,8 1970,4 2123,7 2395,5 Lạng Sản lượng (tấn) 4236,8 5355,1 8910,3 9693,5 10114,4 Sơn Năng suất (tấn/ha) 2,89 3,04 4,52 4,56 4,22 Huyện Diện tích (ha) 789,54 836,3 936,9 1025,4 1176 Chi Sản lượng (tấn) 2927,4 3216,0 5351,1 6650 5345,2 Lăng Năng suất (tấn/ha) 3,71 3,84 5,71 6,49 4,55 Huyện Diện tích (ha) 593,2 779,7 873,5 885,2 984,9 Hữu Sản lượng (tấn) 1219 1989,6 3310,5 2735,3 4123,3 Lũng Năng suất (tấn/ha) 2,05 2,55 3,79 3,09 4,19 (Cục thống kê tỉnh Lạng Sơn, Niên giám thống kê 2007 [7]) 16 Hình 3: Vườn na thí nghiệm với các cây na 4 năm tuổi Cũng theo số liệu thống kê của cục thống kê tỉnh Lạng Sơn, năm 2007, cây na ở Lạng Sơn có tổng diện tích trồng đạt 12,61% và sản lượng đạt 26,67% trong tổng số diện tích và sản lượng cây ăn quả chủ yếu của toàn tỉnh, chỉ đứng sau cây vải. Nhưng nhìn chung, năng suất, sản lượng na của tỉnh Lạng Sơn còn thấp so với cỏc vựng trồng na chuyên canh của Tây Ninh và chưa ổn định. Mặc dù vậy, Ở Lạng Sơn, cõy na cũng đã thực sự trở thành cõy xoỏ đúi giảm nghèo cho nhiều hộ nụng dõn, đem lại hiệu quả kinh tế cao so với các cây vải, hồng, mận, quýt đang được trồng phổ biến trong tỉnh. 17 Chương II PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tượng nghiên cứu: Giống na dai (Anona squamosa L) trồng tại Hữu Lũng – Lạng Sơn. Đây là giống na đặc sản của Lạng Sơn, là giống ngon nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam. Cây na có một số đặc điểm chính sau: Là loại cây gỗ nhỏ cao 2-5 m, thõn trũn vỏ nhẵn, phân nhiều cành. Cành na nhỏ, mềm. Lá đơn, bầu dục, thuôn dài, đuôi nhọn, mặt trên xanh tươi, mặt dưới hơi mốc. Hoa mọc đơn hoặc mọc thành chựm trờn một nách lá hoặc ở đỉnh cành. Quả thuộc loại quả kép, do kết hợp nhiều quả nhỏ lại với nhau mà thành. Quả to hình tim, vỏ xù xì, thịt quả mềm màu trắng sữa. Khi quả chín ăn rất ngọt, có mùi thơm đặc biệt, bên trong có nhiều hạt cứng màu đen hoặc nâu đen. Ra hoa kết quả tập trung vào một vụ, hoa nở vào cuối tháng 4 (dương lịch), những đợt hoa đầu thường rụng. Những đợt hoa cuối vào tháng 7 – 8 cũng rụng nhiều. Quả chín vào tháng 7, 8, 9 (dương lịch). Để tìm hiểu sự biến đổi sinh lý, hoá sinh của quả na dai Hữu LũngLạng Sơn theo tiến trình sinh trưởng phát triển, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở các thời điểm sau: Quan sát thời điểm nở hoa. Xác định một số chỉ tiêu sinh lý của quả vào các thời điểm : + 2 ngày tuổi + 1 tuần tuổi 18 Xác định một số chỉ tiêu sinh lý, hoá sinh của quả vào các thời điểm: + 3 tuần tuổi + 5 tuần tuổi + 7 tuần tuổi + 9 tuần tuổi + 11 tuần tuổi + 13 tuần tuổi + 14 tuần tuổi + 15 tuần tuổi + 16 tuần tuổi để nhận thấy rõ sự biến đổi và động thái sinh trưởng, phát triển của quả. 2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 2.2.1. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 3 đến tháng 11 năm 2009 2.2.2. Địa điểm nghiên cứu + Địa điểm thu mẫu Vườn na nhà ông Nguyễn Anh Đức - xã Đồng Tân, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn với 100 cây. + Địa điểm phân tích Hầu hết các chỉ tiêu được phân tích tại phòng thí nghiệm tổ Sinh lý sinh lý thực vật và ứng dụng, tổ Vi sinh và công nghệ sinh học, khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Một số chỉ tiêu như hàm lượng axit amin, hàm lượng các nguyên tố khoáng, protein được đặt phân tích tại Viện Công nghệ sinh học, Viện hoá học thuộc Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam. 19 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp quan sát thời điểm nở hoa và thụ phấn Dựa trên kinh nghiệm của người làm vườn, chúng tôi theo dõi thời điểm ra hoa, ngày nở hoa, đánh dấu trên một loạt các hoa mới nở, theo dõi quá trình thụ phấn, đậu quả để tính thời gian (tuổi quả). Quan sát hình thái của hoa bằng kính lúp và mắt thường. Với mỗi thời điểm phát triển của hoa đều chụp hình. 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu quả 2.3.2.1. Phương pháp thu mẫu Mẫu được thu theo phương pháp lấy mẫu hỗn hợp [20]. Trên toàn diện tích vườn, chúng tôi thu mẫu tại nhiều điểm, trên nhiều cây, cỏc cõy này đều khoẻ mạnh, không sâu bệnh, phân bố đều, cùng độ tuổi và điều kiện chăm sóc. Sau khi thu mẫu, mẫu được trộn đều. Khi quả được 2 ngày tuổi chúng tôi tiến hành đánh dấu trên hàng loạt cỏc cõy thí nghiệm và ghi chép lại ngày tháng. Mỗi thời điểm nghiên cứu chúng tôi thu mẫu ở nhiều cây mỗi cây lấy từ 1-3 quả. Mẫu quả thu về được trộn đều rồi cho vào túi nilon đen đã ghi nhãn: tuổi, ngày lấy mẫu. Các mẫu được thu vào buổi sáng sau được bảo quản lạnh và chuyển về phòng thí nghiệm. Một phần mẫu được bảo quản ở -80 0C, -40oC phần khác được sấy khô để giữ phẩm chất ban đầu của quả. Các chỉ tiêu sắc tố, axit hữu cơ, vitamin C, enzim được ưu tiên phân tích trước. Các chỉ tiêu số lượng (kích thước, khối lượng, thể tích) được cân đo lặp lại từ 30-50 lần. Các chỉ tiêu còn lại được nhắc lại 3 lần/đợt. 2.3.2.2. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu * Các chỉ tiêu sinh lý - Phương pháp xác định chiều dài và đường kính quả. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan