BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------
Trần Đức Trung
Nghiên cứu đánh giá sự đa dạng di truyền các giống/dòng chè
(Camellia sinensis (L.) O. Kuntze) ở Việt Nam
bằng chỉ thị hình thái và chỉ thị phân tử microsatellite (SSR)
Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Luận văn Thạc sỹ Công nghệ sinh học
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lã Tuấn Nghĩa
Hà Nội- 2009
Dành tặng những người tôi thương yêu nhất;
… bố mẹ…
… vợ…
… gia đình…
… và bé Trần Đức Hoàng Minh….
viii
Lời cảm ơn
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới
TS. Lã Tuấn Nghĩa, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ tôi
trong suốt quá trình công tác cũng như trong thời gian học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô và cán bộ công tác tại Viện
Công nghệ Sinh học thực phẩm, Viện đào tạo sau đại học‐ Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội đã dạy dỗ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập tại trường.
Nhân dịp này, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cán bộ
công tác tại Viện Khoa học kỹ thuật Nông‐Lâm nghiệp miền núi phía Bắc
(NOMAFSI) đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian thu thập số liệu và vật
liệu nghiên cứu tại Viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ, anh chị em trong Nhóm nghiên
cứu Đa dạng di truyền và Công nghệ sinh học Nông nghiệp, Viện Di truyền
Nông nghiệp, đã giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình công tác và nghiên
cứu khoa học vừa qua.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã nhiệt tình
động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học cũng
như trong cuộc sống.
Luận văn này được thực hiện với nguồn kinh phí từ Chương trình Công
nghệ sinh học Nông nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2009
Trần Đức Trung
i
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đã trực tiếp thực hiện các nghiên cứu trong luận văn
này. Mọi kết quả thu được nguyên bản, không chỉnh sửa hoặc sao chép từ các
nghiên cứu khác; các số liệu, sơ đồ kết quả của luận văn này chưa từng được
công bố.
Mọi dữ liệu, hình ảnh, biểu đồ và trích dẫn tham khảo trong luận văn
đều được thu thập và sử dụng từ nguồn dữ liệu mở hoặc với sự đồng ý của
tác giả. Các phần mềm phân tích TotalLab v2009, QuantityOne, NYSYS pc
2.11X, TreeCon, POPGENE32, Dendroscopes, PHYLIP v3.69 đều có bản
quyền hoặc sử dụng với sự đồng ý của (nhóm) tác giả xây dựng phần mềm.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với những lời cam đoan trên!
Trần Đức Trung
ii
Mục lục
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình ảnh minh họa
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan
1.1. Khái quát chung về cây chè Camellia sinensis (L.) O. Kuntze
1.1.1. Lược sử ngành sản xuất- chế biến chè trên thế giới
và Việt Nam
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố của cây chè
1.1.3. Phân loại thực vật và đặc điểm hình thái của cây chè
1.1.4. Đặc điểm di truyền của cây chè
Camellia sinensis (L.) O. Kuntze
1.1.5. Ngành sản xuất, chế biến chè trên thế giới và Việt Nam
1.1.6. Công tác lai tạo giống chè
1.1.6.1. Phương pháp truyền thống
1.1.6.2. Áp dụng công nghệ sinh học
trong chọn tạo giống chè
1.2. Chỉ thị trong đánh giá đa dạng di truyền
1.2.1. Chỉ thị hình thái
1.2.2. Chỉ thị hóa sinh
1.2.3. Chỉ thị DNA
1.2.3.1. Chỉ thị dựa trên cơ sở lai DNA- chỉ thị RFLP
(Restriction Fragment Length Polymorphism)
1.2.3.2. Chỉ thị DNA ngẫu nhiên
1.2.3.3. Chỉ thị DNA dựa trên đa hình các vị trí nhận biết
giới hạn
1.2.3.4. Chỉ thị DNA dựa trên các trình tự lặp
1.2.3.5. Chỉ thị DNA dựa trên trình tự DNA
1.2.3.6. Một số loại chỉ thị DNA khác
1.3. Thành tựu trong nghiên cứu đa dạng di truyền chè
(Camellia sinensis (L.) O. Kuntze)
Trang
i
ii
iv
v
vi
1
4
4
4
5
8
14
17
19
19
21
22
23
24
25
29
30
31
33
41
42
43
iii
1.3.1. Nghiên cứu đa dạng di truyền chè bằng chỉ thị hình thái
1.3.2. Nghiên cứu đa dạng di truyền chè bằng chỉ thị hóa sinh
1.3.3. Nghiên cứu đa dạng di truyền chè bằng chỉ thị DNA
Chương 2: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Đánh giá đặc điểm hình thái chè
2.1.2. Thu thập mẫu lá chè
2.1.3. Trích ly DNA tổng số từ mẫu lá chè
2.1.4. Nhận dạng di truyền các giống chè bằng chỉ thị SSR
2.1.5. Phân tích kết quả
2.1.5.1. Phân tích số liệu kiểu hình
2.1.5.2. Phân tích số liệu kiểu gen
2.1.5.3. Phân loại thứ chè theo tỷ lệ nguồn gen
Chương 3: Kết quả và bàn luận
3.1. Phân tích đa dạng di truyền chè dựa trên đặc điểm hình thái
3.1.1. Đánh giá đặc điểm hình thái
3.1.2. Phân tích đa dạng di truyền dựa trên đặc điểm hình thái
của các giống/dòng chè
3.2. Phân tích đa dạng di truyền chè bằng chỉ thị SSR
3.2.1. Trích ly DNA tổng số
3.2.2. Nhận dạng di truyền chè bằng chỉ thị SSR
3.2.3. Phân tích tính đa dạng di truyền của các locus SSR
3.2.4. Phân tích đa dạng di truyền giữa 9 quần thể chè
bằng chỉ thị SSR
3.2.5. Phân tích đa dạng di truyền 96 giống/dòng chè
bằng chỉ thị SSR
3.2.5.1. Phân nhóm di truyền dựa trên
mức độ tương đồng Jaccard
3.2.5.2. Phân nhóm di truyền dựa trên
khoảng cách di truyền Nei72
3.3. Kết hợp chỉ thị hình thái và chỉ thị SSR
trong phân tích đa dạng di truyền các giống/dòng chè
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
43
44
45
50
50
55
55
55
57
58
60
60
61
63
64
64
64
67
73
73
75
81
84
91
92
98
106
109
111
122
iv
Bảng chữ viết tắt
AFLP
APS
CAPs
cs
CTAB
DNA
dNTPs
EDTA
EST
EthBr
IPGRI
ISSR
MAS
PCA
PCR
PIC
RAPD
RFLP
SSR
STS
TAE
TEMED
Amplification Fragment Length Polymorphism
Amonium persulfate
Cleaved Amplification Polymorphism Sequence
Cộng sự
Cetyl trimethylammonium bromide
Deoxyribonucleic acid
Deoxy nucleotide triphosphates
Ethylenediaminetetraacetic acid
Expressed sequence tag
Ethidium bromide
International Plant Genetic Resource Institute
Inter-simple sequence repeat
Molecular Assisted Selection
Principles Component Analysis
Polymerase Chain Reaction
Polymorphism Information Content
Random Aplification Polymorhism DNA
Restriction Fragment length Polymorphism
Simple sequence repeat
Sequence- tagged site
Tris-Acetic acid- EDTA
N,N,N’,N’- Tetraethyl methylendiamine
v
Danh mục bảng
Trang
Bảng 1.1: So sánh đánh giá đặc điểm của một số loại chỉ thị được ứng
dụng trong nghiên cứu đa dạng di truyền thực vật
Bảng 1.2: So sánh ưu/nhược điểm của các phương pháp phân lập
và phát triển chỉ thị SSR
40
Bảng 2.1: Danh sách 96 giống/dòng chè thu thập từ NOMAFSI
50
Bảng 2.2: 9 quần thể chè nghiên cứu
52
Bảng 2.3: Danh sách các cặp mồi SSR sử dụng trong nghiên cứu
53
Bảng 2.4: 12 đặc điểm hình thái được sử dụng để đánh giá
các giống/dòng chè
56
Bảng 2.5: Thành phần phản ứng SSR-PCR
59
Bảng 2.6: Thành phần gel polyacrylamide 12%
60
Bảng 3.1: Giá trị đặc trưng của 90 thành phần trong phân tích PCA
(khoảng cách di truyền Euclidean của 90 giống/dòng chè)
71
Bảng 3.2: Tần số alen của 21 locus SSR
82
Bảng 3.3: Thống kê các chỉ số đa dạng di truyền của 21 locus SSR
83
Bảng 3.4: Kết quả đánh giá đa dạng di truyền giữa 9 quần thể chè
85
Bảng 3.5: Khoảng cách di truyền giữa 9 quần thể chè nghiên cứu
87
Bảng 3.6: Giá trị đặc trưng của 96 thành phần trong phân tích PCA
(khoảng cách di truyền Nei72 của 96 giống/dòng chè)
28
102
vi
Danh mục hình ảnh minh họa
Trang
Hình 1.1: Các nước trồng chè dựa vào sản lượng được thống kê
năm 2007
Hình 1.2: Phân bố tự nhiên các thứ chè theo Stuart (A) và Barua (B)
7
10
Hình 1.3: Cây chè Trung Quốc (C.sinensis var. sinnensis)
12
Hình 1.4: Cây chè Assam (C. sinensis var. assamica)
13
Hình 1.5: Cây chè Cambod (C. sinensis var. assamica sub sp.
lasiocalyx)
Hình 1.6: Tiêu bản nhiễm sắc thể ở kỳ giữa của cây chè
(C. sinensis var. sinensis)
Hình 1.7: Kích thước biến thiên của lá chè
Hình 1.8: Biểu đồ sản lượng chè khô của một số nước năm 2005, 2006
và 2007
Hình 1.9: Biểu đồ khối lượng sản xuất và xuất khẩu chè khô của một số
nước năm 2007
Hình 1.10: Nguyên lý phản ứng PCR
13
15
16
18
18
26
Hình 1.11: Nguyên lý kỹ thuật kỹ thuật AFLP
32
Hình 1.12: Phân loại trình tự lặp SSR
35
Hình 1.13: Đa hình DNA SSR giữa hai cá thể có motif (AT)n
37
Hình 1.14: Quy trình phát triển chỉ thị SSR từ thư viện hệ gen
39
Hình 2.1: Phân loại chè Cambod dựa trên tỷ lệ nguồn gen
63
Hình 3.1: Màu sắc lá chè non
65
Hình 3.2: Búp chè non
65
Hình 3.3: Thế lá chè
66
Hình 3.4: Cây chè dạng thân gỗ
66
Hình 3.5: Cây chè dạng thân bụi
67
Hình 3.6: Sơ đồ cây phân nhóm 90 giống/dòng chè dựa trên
đặc điểm hình thái bằng phương pháp UPGMA
Hình 3.7: Phân tích PCA 90 giống/dòng chè thuộc 9 quần thể chè dựa
trên ma trận khoảng cách di truyền Euclidean
(đặc điểm hình thái)
69
72
vii
Hình 3.8: Kết quả trích ly DNA tổng số chè (dựa trên quy trình
Porebski)
Hình 3.9: Ảnh điện di xác định nhiệt độ gắn mồi tối ưu
cho mồi CamsinM6 (SSR-6)
Hình 3.10: Ảnh điện di xác định nhiệt độ gắn mồi tối ưu
cho mồi MSCjaH46 (SSR-17) và MSCjaF37 (SSR-20)
Hình 3.11: Kết quả nhận dạng di truyền 96 giống/dòng chè
bằng chỉ thị SSR CamsinM1và CamsinM4
Hình 3.12: Kết quả nhận dạng di truyền 96 giống/dòng chè
bằng chỉ thị SSR CamsinM8 và CamsinM13
Hình 3.13: Kết quả phản ứng PCR của 96 giống/dòng chè
với 21 cặp mồi SSR
Hình 3.14: Sơ đồ phân nhóm di truyền 9 quần thể chè
dựa trên khoảng cách di truyền Nei72
Hình 3.15: Phân tích PCA biểu diễn quan hệ nhóm của 9 quần thể chè
trong không gian ba chiều
Hình 3.16: Sơ đồ cây phân loại 96 giống/dòng chè
bằng phương pháp UPGMA
Hình 3.17: Phân tích PCA 96 giống/dòng chè thuộc 9 quần thể chè
dựa trên mức độ tương đồng di truyền Jaccard
Hình 3.18: Sơ đồ cây phân nhóm 96 giống/dòng chè
bằng phương pháp Weighted- Neighbor Joining
Hình 3.19: Phân tích PCA 96 giống/dòng chè thuộc 9 quần thể chè
dựa trên khoảng cách di truyền Nei72
Hình 3.20: Cây phân nhóm 96 giống/dòng chè
dựa trên khoảng cách di truyền Nei72
(xây dựng bằng phần mềm PHYLIP 3.69 và Dendroscopes)
74
75
76
77
78
80
88
88
94
97
99
103
105
1
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
MỞ ĐẦU
Chè (trà) không chỉ là thức uống giải khát hàng ngày mà còn là một nét
văn hóa đặc trưng, một thứ nghệ thuật (Trà đạo) của người dân châu Á. Cùng
với cà phê và ca cao, chè là một trong ba loại đồ uống có nguồn gốc tự nhiên
không chứa cồn được cả thế giới ưa chuộng. Hơn hai phần ba dân số thế giới
uống chè hàng ngày không chỉ bởi hương vị đặc sắc mà còn vì những lợi ích
cho sức khỏe mà chè mang lại. Từ những kinh nghiệm dân gian cho đến các
nghiên cứu khoa học gần đây đã khẳng định giá trị của cây chè đối với sức
khỏe.
Cây chè (Camellia sinensis (L.) O. Kuntze) thuộc họ chè Theaceae là
loại cây trồng lưu niên có thời gian thu lợi kinh tế kéo dài đến hơn 60 năm.
Sản xuất và chế biến chè đã trở thành một trong những ngành kinh tế nông
nghiệp quan trọng ở nhiều quốc gia với sản phẩm tạo ra có giá trị xuất khẩu
cao. Năm 2003, diện tích trồng chè trên toàn thế giới đã lên tới 2,7 triệu ha
với tổng sản lượng chè khô khoảng 3 triệu tấn [47]. Trước nhu cầu tăng nhanh
cả về năng suất và chất lượng, công tác chọn tạo giống chè đã được đẩy
mạnh, nhiều giống chè mới đã được tạo ra, đặc biệt ở các nước Ấn Độ,
Srilanka, Trung Quốc… Tuy nhiên, do đặc điểm nông- sinh học khác biệt của
cây chè nên công tác chọn tạo bằng phương pháp lai tạo hữu tính giữa các
cặp bố mẹ được chọn lựa dựa trên kiểu hình gặp rất nhiều khó khăn. Để có
được những dòng triển vọng thì các nhà chọn giống sẽ phải tiêu tốn rất nhiều
thời gian, công sức và cần có những điều kiện cơ sở vật chất khác. Trong
khoảng 20 năm trở lại đây, với việc ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn
giống đã khắc phục được những trở ngại trong phương pháp chọn tạo truyền
thống. Chọn giống nhờ chỉ thị phân tử- MAS (Molecular-Assisted Selection)
đang được áp dụng rộng rãi không chỉ trong chọn tạo giống cây trồng mà còn
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
2
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
cả trong chăn nuôi. Nhờ các chỉ thị phân tử mà các nhà khoa học xác định
được sự khác biệt về mặt di truyền của quần thể giống khởi đầu, từ đó xác
định các cặp lai có khoảng cách di truyền phù hợp có thể cho ưu thế lai cao
nhất. Việc tiếp cận ở mức độ phân tử cho phép đánh giá các giống bố mẹ một
cách chính xác, không bị tác động bởi các điều kiện ngoại cảnh, rút ngắn thời
gian và nâng cao hiệu quả công tác lai tạo.
Ở Việt Nam, cây chè và các sản phẩm từ chè đã được người dân trồng và
chế biến từ lâu. Nước ta có nhiều vùng trồng và chế biến chè nổi tiếng như
Mộc Châu, Thái Nguyên hay B’lao- Lâm Đồng, cùng với nhiều giống chè quý
như chè Shan ở Hà Giang, Suối Giàng; chè Tân Cương ở Thái Nguyên… Bên
cạnh đó, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành sản xuất chế biến chè,
nhiều giống/dòng chè đã được nhập từ các nước trên thế giới như Ấn Độ,
Srilanka, Trung Quốc, Nhật Bản… Đây là nguồn vật liệu rất có giá trị đối với
chương trình chọn tạo giống chè.
Hiện nay cây chè được xác định là một trong những cây trồng chủ lực
trong quy hoạch phát triển kinh tế các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc
nước ta. Tuy nhiên, để thâm canh cây chè đạt hiệu quả cao, tránh lãng phí
trong đầu tư ban đầu thì việc phải có những giống chè cho năng suất cao, chất
lượng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu- thổ nhưỡng là một yêu cầu cần được
quan tâm. Trong bối cảnh đó, công tác đánh giá đa dạng di truyền cây chè ở
nước ta- có vai trò rất quan trọng trong khai thác hiệu quả nguồn gen, vẫn còn
nhiều hạn chế. Cho đến nay việc nghiên cứu đánh giá sự đa dạng nguồn gen
cây chè trên quy mô lớn để có thể cung cấp cơ sở di truyền ban đầu và hỗ trợ
cho công tác chọn tạo giống chè còn rất khiêm tốn. Vì vậy, chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu đánh giá sự đa dạng di truyền các
giống/dòng chè (Camellia sinensis (L.) O. Kuntze) ở Việt Nam bằng chỉ
thị hình thái và chỉ thị phân tử microsatellite (SSR)” với mong muốn có
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
3
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
được cái nhìn tổng quan về sự đa dạng di truyền của các giống/dòng chè ở
Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu của đề tài, chúng tôi đã tiến hành những nội dung
nghiên cứu sau:
1.
Dựa trên một số chỉ tiêu chính, đánh giá đặc điểm hình thái của
các giống/dòng chè thuộc các quần thể chè được bảo tồn ở vườn quỹ gen chèViện Khoa học Kỹ thuật Nông-Lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI).
2.
Nhận dạng di truyền các giống/dòng chè bằng chỉ thị phân tử
3.
Phân tính đánh giá sự đa dạng di truyền của các giống/dòng chè
SSR.
dựa trên kết quả đánh giá hình thái.
4.
Phân tích đánh giá sự đa dạng di truyền của các quần thể chè;
của các giống /dòng chè bằng chỉ thị phân tử SSR
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở dữ liệu hữu ích trong phân loại
các giống/dòng chè, hỗ trợ đắc lực cho công tác chọn tạo giống chè mới năng
suất cao, chất lượng tốt, góp phần thúc đẩy phát triển ngành sản xuất-chế biến
chè nước ta.
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
4
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÂY CHÈ Camellia sinensis (L.) O.
Kuntze
1.1.1. Lược sử ngành sản xuất- chế biến chè trên thế giới
và Việt Nam
Chè từ lâu đã quen thuộc với đời sống của người dân các nước châu Á.
Các tài liệu của Trung Quốc đều cho rằng cây chè được phát hiện một cách
tình cờ bởi Thần Nông (một vị vua trong truyền thuyết) vào khoảng năm 2737
trước Công nguyên. Tuy nhiên, cũng có những giả thuyết cho rằng ngay khi
người Trung Quốc biết đến các giá trị y học của cây chè thì nhu cầu về các
sản phẩm từ chè đã nảy sinh và cùng với đó là sự ra đời ngành trồng và chế
biến chè ở tỉnh Tứ Xuyên- Trung Quốc từ cách nay khoảng 3000 năm. Về
sau, kiến thức về canh tác cây chè đã được phổ biến rộng rãi cùng với những
cuộc hành hương và di cư của các tín đồ đạo Phật, từ rất lâu trước khi sự phát
tán cây chè được ghi nhận.
Tại Ấn Độ năm 1823, thiếu tá Robert Bruce tìm thấy cây chè dại đầu tiên
ở tỉnh Assam, nhưng cho đến năm 1834, các hạt giống chè vẫn được nhập từ
Trung Quốc (bởi Gordon) để phục vụ nhu cầu thành lập các vườn trồng chè
thương mại. Về sau, các cây chè bản xứ đã được đưa vào trồng nhiều hơn nhờ
C.A. Bruce, người quản lý trang trại chè thuộc chính phủ Anh tại thuộc địa
Ấn Độ. Lợi ích thương mại từ cây chè ngày càng gia tăng và cho đến 12-021839, công ty chè đầu tiên- Công ty chè Assam- đã được thành lập ở Jorhat,
Assam dưới sự điều hành của Nghị viện Anh. Đây chính là mốc đánh dấu sự
ra đời ngành công nghiệp chè ở Ấn Độ cũng như trên thế giới [47]. Hiện nay
trên toàn thế giới đã có hơn 30 quốc gia trồng và sản xuất chè, trong đó tập
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
5
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
trung chủ yếu ở các nước châu Á với năng suất chiếm hơn 85% tổng sản
lượng chè thế giới (hình 1.1).
Tại Việt Nam, cây chè và sản phẩm từ chè đã được người dân sản xuất,
chế biến và sử dụng từ rất lâu. Cho đến trước khi thực dân Pháp đô hộ nước
ta, cây chè đã được trồng chè khá phổ biến (đặc biệt ở miền Bắc) nhưng chủ
yếu là tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ của người dân. Đến thời kỳ đô
hộ của thực dân Pháp (1982-1945), chè là nguồn tài nguyên mà thực dân rất
chú ý bóc lột để chuyển về châu Âu, nơi mà chè là món hàng xa xỉ cao cấp.
Từ đầu thế kỷ 20, Pháp đã lập ra các trạm nghiên cứu và đồn điền trồng chè ở
Phú Hộ (Phú Thọ- 1918), Pleiku (1927) và Bảo Lộc (Lâm Đồng- 1931) nhằm
tăng cường mở rộng sản xuất chè để phục vụ chính quốc, nhờ đó mà cây chè
Việt Nam được khảo sát nghiên cứu khá kỹ lưỡng và ngành sản xuất chế biến
chè được mở rộng. Theo Nguyễn Ngọc Kính, lịch sử của ngành sản xuất chè
Việt Nam có thể chia ra ba giai đoạn chính:
• Giai đoạn từ 1890 đến 1945: Những đồn điền chè đầu tiên được
thiết lập, sản xuất chè bước vào quy mô tập trung. Đến năm 1938, diện tích
trồng chè lên đến hơn 13 nghìn hecta với sản lượng đạt 6100 tấn chè khô.
• Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Do ảnh hưởng của chiến tranh,
ngành sản xuất chè suy giảm mạnh, tổng sản lượng chè khô năm 1946 chỉ đạt
300 tấn.
• Giai đoạn từ 1954 đến nay: giai đoạn phát triển không ngừng của
ngành chè, không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn hướng tới xuất khẩu.
Năm 2008 cả nước có hơn 131 nghìn hecta trồng chè với sản lượng hơn đạt
hơn 160 nghìn tấn chè khô.
Hiện nay, chè được trồng ở trên 30 tỉnh thành trong cả nước, tập trung
chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc (cả về diện tích và sản lượng). Với lợi thế về
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
6
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
giống, đất đai và nguồn lao động, chè được xác định là ngành kinh tế chủ đạo
ở các tỉnh trung du và miền núi nước ta [2, 6, 78]
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố của cây chè
Cho đến nay, nguồn gốc phát sinh chính xác của cây chè vẫn còn là đề
tài tranh cãi của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, tất cả đều khẳng định rằng
Đông Nam Á là quê hương khởi nguồn của cây chè. Theo Wight (1959), xuất
phát điểm nguyên thủy của cây chè được cho là ở khoảng 29 độ vĩ Bắc và 98
độ kinh Đông, thuộc vùng thượng nguồn sông Irrawaddy- là vùng đất giao
nhau giữa Assam, bắc Myanmar, tây nam Trung Quốc và Tây Tạng. Trong
khi đó, trong một nghiên cứu công bố sớm hơn, Kingdon và Ward (1950) lại
cho rằng xuất phát điểm của cây chè là ở đông nam Trung Quốc, vùng tiếp
giáp với hai bang Mizoram và Meghalaya ở đông bắc Ấn Độ (tỉnh Vân Nam).
Bởi vậy, các khu vực địa lý trên đều được xem như là nơi khởi nguồn và phát
tán của chi Camellia nói chung (Sealy, 1958) [46, 47]. Khoảng 20 năm sau,
trong những nghiên cứu phân loại cây chè dựa trên thành phần catechin,
Djemukhatze (1961-1976) đã kết luận rằng thành phần catechin chủ yếu của
các giống chè dại Việt Nam đơn giản và gần giống nhất với các giống chè
mọc hoang dại từ cổ xưa. Từ đó ông đưa ra kết luận mới: nguồn gốc của cây
chè chính là ở Việt Nam [1, 2, 78].
Các kết luận trên có được từ những nghiên cứu khác nhau và mặc dù
chưa có một thống nhất cuối cùng về nguồn gốc thì ngày nay cây chè đã được
phổ biến rãi tới nhiều quốc gia và vùng địa lý trên thế giới, trải rộng từ 45 độ
vĩ Bắc đến 34 độ vĩ Nam, thích nghi với nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau và
khác xa với khu vực nguyên sản ban đầu (Đông Nam Á) (hình 1.1)
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
7
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
Hình 1.1: Các nước trồng chè dựa vào sản lượng được thống kê năm 2007.
Vùng khoanh đỏ là khu vực khởi nguồn và cũng là vùng phân bố tự nhiên
của cây chè.
Châu Á: Ấn Độ, Bangladesh, Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesisa, Iran,
Malaysia, Myanmar, Nepal, Nhật Bản, Sri-Lanka, Trung Quốc, Việt Nam.
Châu Phi: Burundi, Cameroon, Ethipoia, Kenya,
Mozambique, Nam Phi, Rwanda, Tanzania, Uganda, Zaire
Maritius,
Nam Mỹ: Argentina, Brazil, Ecuador, Peru
Châu Đại Dương: Australia, Papua-New Ghine
Châu Âu: Thổ Nhĩ Kỳ, USSR
Từ Trung Quốc, quốc gia biết đến chè đầu tiên, cây chè được du nhập
vào Nhật Bản trong nửa đầu thế kỷ 8. Đến thế kỷ 17, ngành trồng chè mở
rộng từ Nhật Bản sang Indonesia. Cây chè lần đầu tiên được trồng ở Srilanka
vào năm 1839 từ những hạt giống chè mang đến từ Calcutta (Ấn Độ). Ở các
nước thuộc Liên bang Xô Viết trước đây, ngành trồng chè bắt đầu khi hạt
giống được nhập từ Trung Quốc vào khoảng cuối thế kỷ 19. Về sau, từ Liên
bang Xô Viết, hạt giống chè được xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ những năm 3040 của thế kỷ 20. Chè du nhập vào châu Âu năm 1740 thông qua công ty
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
8
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
Đông Ấn của đại úy Goff, nhưng những cây được trồng lưu giữ ở Vườn bách
thảo Hoàng gia (Kew- tây nam London, Anh) đã không sống được (Sealy,
1958). Không lâu sau đó, vào năm 1768 nhà tự nhiên học John Ellis và một
lái buôn người Anh đã du nhập và trồng thành công cây chè ở châu Âu
(Aiton, 1789; Booth, 1830); từ đây, cây chè được du nhập vào các nước châu
Phi vào cuối thế kỷ 19. Ngày nay, cây chè đã được trồng ở hơn 52 quốc gia
trên toàn thế [47].
1.1.3. Phân loại thực vật và đặc điểm hình thái của cây chè
Carl Linnaeus (1707-1778)- nhà động-thực vật học người Thụy Điển- là
người đầu tiên xây dựng hệ thống phân loại thực vật trong đó có cây chè.
Trong cuốn sách “Các loài thực vật” (The Species of Plant) xuất bản năm
1753, Carl Linnaeus đã đề xuất chi Camellia thay cho Thea như trước đây để
tưởng nhớ những đóng góp của Georg Kamel (tên Latin là Camellia ) đối với
ngành thực vật học (Georg Kamel (?-1708) là một thầy tu dòng Jesuit người
Czech đã có nhiều khám phá về thực vật trong thời gian truyền giáo ở các
nước châu Á như Philippin, Trung Quốc..). Cũng trong cuốn sách này, Carl
Linnaeus đã mô tả hai loài trong chi Camellia là cây chè Camellia sinensis
(sinensis trong tiếng Latin có nghĩa là Trung Quốc- lúc đó được cho quê
hương của cây chè) và cây chè (hoa) Camellia japonica. Đến năm 1958, trong
cuốn chuyên khảo “A Revision of the Genus Camellia”, J. Robert Sealy đã hệ
thống lại và định danh cho các loại thực vật liên quan tới chi Camellia đã
được nhận dạng vào lúc đó. Ông phân chia chi Camellia ra 12 nhóm và mô tả
đặc điểm hình thái của 87 loài [56]. Ngày nay, các nhà khoa học thừa nhận
Camellia C. L. là một chi trong hệ thống phân loại thực vật và tên khoa học
chính thức của cây chè là Camellia sinensis (L.) O. Kuntze (để tưởng nhớ nhà
thực vật học người Đức Otto Carl Ernst Kuntze, 1843-1907) [16].
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
9
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
Trong chi chè Camellia có đến hơn 100 loài khác nhau [80, 81], bao gồm
những loài tự nhiên và lai tạo. Một số loài trong đó có giá trị dược liệu được
sử dụng làm thuốc hoặc mỹ phẩm (Camellia kissii), làm cây cảnh trang trí
(Camellia japonica, các loài hoa Trà, hoa hải đường Camellia amplexicaulis
ở Việt Nam) hoặc là nguồn tách chiết tinh dầu (Camellia assimilis). Chỉ có
duy nhất loài Camellia sinensis (L.) O. Kuntze (cây chè) là được sử dụng
trong sản xuất và chế biến các loại chè làm đồ uống.
Do có quá trình phân tán lâu dài giữa các vùng địa lý khác nhau cùng với
những tác động của con người (lai tạo, chọn lọc) nên cây chè có sự đa dạng cả
về hình thái và đặc điểm di truyền. Vì vậy mà hệ thống phân loại các giống
chè còn nhiều điểm chưa được thống nhất. Các giống chè ở Việt Nam được
khảo sát và phân loại từ khá sớm (những năm 30 của thế kỷ 20). Theo
Nguyễn Ngọc Kính (1979), Deuss và Du Pasquire (trước đó là Cohen Stuart,
1919) dựa trên đặc điểm hình thái đã phân chia các giống chè (chủ yếu khảo
sát ở Việt Nam, Trung Quốc) thành bốn thứ, bao gồm: [2, 6, 78]:
• Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla)
• Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. bohea)
• Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan)
• Chè Ấn Độ (Assam) (Camellia sinensis var. assamica)
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
10
Luận văn thạc sỹ công nghệ sinh học
Hình 1.2: Phân bố tự nhiên các thứ chè theo Stuart (A) và Barua (B)
Trần Đức Trung – Cao học CNSH khóa 2007-2009, ĐH Bách khoa Hà Nội
- Xem thêm -