Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ ...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan của quốc hội

.PDF
116
54
102

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt NguyÔn ngäc hïng §Ò tµi: N©ng cao hiÖu qu¶ ho¹t ®éng xö lý ®¬n khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n T¹i c¸c c¬ quan cña quèc héi luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2008 ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt ***** nguyÔn ngäc hïng N©ng cao hiÖu qu¶ ho¹t ®éng xö lý ®¬n khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n t¹i c¸c c¬ quan cña quèc héi Chuyªn ngµnh : Lý luËn vµ LÞch sö nhµ n-íc vµ ph¸p luËt M· sè : 60 38 01 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. Ng« §øc M¹nh Hµ néi - 2008 MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG 6 CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI 1.1. Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 6 là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân 1.2. Nhà nước đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trong đó có 8 quyền khiếu nại, tố cáo của công dân 1.3 Vị trí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong 11 việc xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân 1.4 Hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các 19 cơ quan của Quốc hội 1.4.1 Hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố 19 cáo của công dân 1.4.2 Xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân của các cơ quan 20 của Quốc hội 1.5 Khái niệm khiếu nại, tố cáo 21 1.5.1 Khái niệm khiếu nại 23 1.5.2 Khái niệm tố cáo 26 Kết luận Chương 1 29 Chƣơng 2. Thùc tr¹ng vÒ c«ng t¸c xö lý ®¬n khiÕu n¹i, 30 tè c¸o cña c«ng d©n t¹i c¸c c¬ quan cña Quèc héi 2.1. Quá trình hình thành và phát triển chế định về việc Quốc hội, 30 các cơ quan của Quốc hội xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân 2.1.1 Giai đoạn 1946 – 1960 30 2.1.2 Giai đoạn 1960 – 1980 31 2.2. 2.1.3 Giai đoạn 1980 – 1992 34 2.1.4 Giai đoạn 1992 – 2003 37 2.1.5 Giai đoạn 2003 - nay 42 Thực trạng hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công 44 dân tại các cơ quan của Quốc hội trong thời gian gần đây 2.2.1 Đối với ủy ban thường vụ Quốc hội 44 2.2.2 Đối với Hội đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội, Ban 48 của ủy ban thường vụ Quốc hội 2.2.3 Một số nguyên nhân 56 Kết luận Chương 2 58 Chƣơng 3. MỘT SỐ MÔ HÌNH VÀ KINH NGHIỆM TỔ CHỨC VÀ 60 HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở NGHỊ VIỆN Ở MỘT SỐ NƢỚC 3.1. Mô hình Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) 60 3.1.1 Khái quát chung 60 3.1.2 Vài nét về Thanh tra Quốc hội, Cơ quan trung gian hòa 65 giải một số nước 3.2. 3.1.2.1 Vương quốc Thụy Điển 65 3.1.2.2 Cộng hòa Pháp 66 3.1.2.3 Vương quốc Bỉ 68 3.1.2.4 Vương quốc Thái Lan 69 3.1.2.5 Một số nhận xét về mô hình Thanh tra Quốc hội 71 Mô hình Uỷ ban Dân nguyện 72 Kết luận Chương 3 75 Chƣơng 4. gi¶i ph¸p tiÕp tôc n©ng cao hiÖu qu¶ ho¹t 76 ®éng xö lý ®¬n khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n t¹i c¸c c¬ quan cña Quèc héi 4.1 Yêu cầu khách quan phải nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan của Quốc hội 76 4.1.1 Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 77 nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân 4.1.2 Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật 79 4.1.3 Xuất phát từ bản thân vai trò của hoạt động xử lý đơn 80 khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan của Quốc hội, góp phần ổn định chính trị xã hội 4.1.4 Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo 84 của công dân và từ thực trạng khiếu nại, tố cáo của công dân 4.2 Một số quan điểm về đổi mới, nâng cao hoạt động xử lý đơn 85 khiếu nại, tố cáo của công dân 4.3 Giải pháp nâng cao hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo 90 của công dân tại các cơ quan của Quốc hội 4.3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo cơ sở pháp lý đầy 90 đủ, thống nhất và đồng bộ cho hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan của Quốc hội 4.3.2 Thành lập cơ quan của Quốc hội chuyên trách công tác 92 xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân 4.3.3 Đổi mới bộ máy giúp việc cho Quốc hội KẾT LUẬN 98 100 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, hoạt động về công tác Dân nguyện của Quốc hội là nhằm giúp cho công dân thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân như Điều 53 và Điều 74 Hiến pháp năm 1992. Hoạt động công tác Dân nguyện của Quốc hội thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hoạt động công tác Dân nguyện nói chung và Dân nguyện của Quốc hội nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước, Quốc hội quan tâm, tạo điều kiện để công dân thực hiện ý nguyện của mình đối với Nhà nước, xã hội và trên thực tế đã đạt được một số kết quả nhất định. Dân nguyện là nguyện vọng của nhân dân, có nội dung rất rộng lớn, thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở nhiều nước, quyền khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân thường được gọi là quyền thỉnh nguyện (hay dân nguyện) do đó, khiếu nại, tố cáo của công dân là một nội dung quan trọng của dân nguyện. Với ý nghĩa đó, công tác Dân nguyện nói chung được hiểu là công tác tiếp nhận và xem xét, giải quyết các ý kiến, các đơn thư bày tỏ nguyện vọng, kiến nghị hoặc khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức theo một trình tự, thủ tục mà luật pháp quy định, nhằm quản lý Nhà nước và xã hội, khôi phục quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức và xử lý những người vi phạm pháp luật. Với khái niệm này thì công tác Dân nguyện được tiến hành ở tất cả các cơ quan Nhà nước, bao gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, nhưng trong phạm vi đề tài này chỉ đề 1 cập đến nâng cao hiệu quả công tác xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Trong Luật tổ chức Quốc hội và năm 2003 Quốc hội ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội đã quy định về trách nhiệm quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến các cơ quan này. Quốc hội cũng đã ban hành Luật khiếu nại, tố cáo quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan trong việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngoài ra, năm 2004 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết về việc tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ở Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội còn nhiều lúng túng, chưa đạt hiệu quả cao và còn nhiều vướng mắc trong quá trình thực thi vì nhiều lý do. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có một số đề tài nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và có đề tài nghiên cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội (một cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan dân cử), các đề tài này phần nào có đề cập tới hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân và công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra, đã có những cuộc Hội thảo về việc nâng cao hiệu quả hoạt động công tác dân nguyện của Quốc hội nhưng đối với nội dung xử lý đơn khiếu nai, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội thì chưa sâu và chưa cụ thể. Và đặc biệt là trong tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân có chiều hướng ngày càng bức xúc hiện nay, Đảng và 2 Nhà nước ta đã đặt ra các yêu cầu phải nâng cao nhận thức trong công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân. 3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn - Tổng kết các cơ sở lý luận hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; - Nghiên cứu thực trạng hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, từ đó rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm từng bước hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với công tác này. - Nghiên cứu một cách có hệ thống các hình thức tổ chức thực hiện hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và những vấn đề có liên quan, qua đó đề xuất các vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động này của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, đồng thời đề ra giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu lực của hoạt động này. - Ứng dụng kết quả nghiên cứu đề tài phục vụ cho việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trên cơ sở các quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát, Luật khiếu nại, tố cáo, Nghị quyết 370/2003/NQ-UBTVQH11 thành lập Ban Dân nguyện và Nghị quyết 715/2004/NQ-UBTVQH11 về việc xử lý đơn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. 3 4. Phạm vi nghiên cứu - Các tài liệu, tư liệu, văn bản pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. - Các văn bản tài liệu hướng dẫn, giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; - Các báo cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các loại văn bản khác có liên quan. 5. Đối tƣợng nghiên cứu - Hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Vụ phục vụ công tác chuyên môn của các cơ quan của Quốc hội. - Các quy định của Hiến pháp 1946-1959-1980-1992- Hiến pháp sửa đổi 2002, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát, Luật khiếu nại tố cáo và các văn bản có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. - Kinh nghiệm trong hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, hay Nghị viện của một số nước trên thế giới. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp biện chứng, lịch sử. - Phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp luận về các vấn đề có liên quan đến hoạt động Dân nguyện. - Phương pháp so sánh, thống kê. - Phương pháp xã hội học, hội thảo và chuyên gia (điều tra, thăm dò ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội...) - Phương pháp mô hình hoá, hệ thống hoá và lựa chọn, đề xuất các kiến nghị. 4 7. Điểm mới của đề tài Đề tài sẽ tập trung đưa ra các giải pháp và mô hình tổ chức nhằm hoàn thiện hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cho phù hợp với tình hình hiện nay. 5 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm bốn chương và phần kết luận. Chƣơng 1: Cơ sở lý luận cho sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ở quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Chƣơng 2: Thực trạng về công tác xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ở Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Chƣơng 3: Một số mô hình, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ở Nghị viện ở một số nước. Chƣơng 4: Giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ở Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở QUỐC HỘI, CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI 1.1. Bản chất của nhà nƣớc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tuyên bố Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta tập hợp xung quanh Mặt trận Việt Minh tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền từ tay PhápNhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiến pháp năm 1946, 1959 và 1980 của Nhà nước ta chưa dùng thuật ngữ "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" nhưng về thực chất tất cả những điều trong các hiến pháp đó đều ghi nhận quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước do nhân dân lập ra và mọi hoạt động của Nhà nước đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, tăng cường quyền lực của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân bầu ra cơ quan đại diện của mình, thay mặt mình thực hiện quyền lực của mình, hay nói cách khác là nhân dân trao quyền cho các đại diện của mình - đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Nhà nước ta do nhân dân lập ra, thực chất quyền lực Nhà nước là quyền lực của mọi công dân liên hiệp lại tạo nên, sự tồn tại của Nhà nước này là để phục vụ nhân dân. Cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ thừa hành quyền lực do công dân uỷ nhiệm. Vì vậy, công dân mới thật sự là chủ thể của 7 quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước xuất phát từ dân nên nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Do đó xây dựng quyền lực Nhà nước là phải tạo ra một hệ thống chính trị để làm cho hai mặt trên trở thành điều kiện và nguyên nhân của nhau. Trong hai mặt đó, mặt công dân là nền tảng, là ngọn nguồn, là mục đích của mọi quyền lực Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Khi bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh có lẽ trong chúng ta không ai không nhớ đến tư tưởng vì dân của Bác. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm mà Người để lại cho muôn đời con cháu mai sau, là tư tưởng nhân dân, những người lao động sáng tạo ra lịch sử, thể hiện rõ nét trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các thuật ngữ "nhân dân", "dân", "giới cần lao", "anh em lao động", "đồng bào ta", "dân nghèo" được Bác dùng thể hiện triết lý Hồ Chí Minh, mang tính nhân văn cao cả, vừa giản dị, vừa thân mật của vị lãnh tụ dân tộc. Khi độc lập và tự do của dân tộc đã dành được, nhiệm vụ rất to lớn là làm thế nào để mỗi người dân đều được tự do, sung sướng. Người cho rằng nhiệm vụ này thuộc về Chính phủ. Chính phủ phải phấn đấu sao cho dân được sung sướng, bởi vì, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Cuối năm 1946 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà được ban hành. Chính phủ hợp hiến được thành lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Người kêu gọi các thành viên Chính phủ và viên chức trong các cơ quan Nhà nước cần phải xem mình là công bộc của nhân dân. Người nhắc lại tư tưởng này trong một số bài viết. Trong bài "Chính phủ là công bộc của dân" (Báo 8 Cứu quốc, số 46, ngày 19-9-1945) Người viết: "Người xưa nói quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì phải làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh. Uỷ ban nhân dân là Uỷ ban có nhiệm vụ thực hiện tự do dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do dân chủ đó. Trong bài "Nói chuyện với các đại biểu báo chí về nội trị, ngoại giao nước nhà trong những ngày vừa qua" (Nói ngày 6-10-1945, báo Cứu quốc, số 61, ngày 8-10-1945) Người nhắc nhở: "Chính phủ Dân chủ Cộng hoà lâm thời là công bộc của nhân dân. Anh em trong Chính phủ, ai là người có tài năng, có đức hạnh giúp đỡ cho dân, cho nước, tất nhiên là được quốc dân hoan nghênh. Là người này hay người khác cũng thế, ai là dân đều có quyền giúp đỡ. Nước ta đã là một nước Dân chủ Cộng hoà, chính quyền đã ở trong tay dân, nhân dân hoan nghênh người có tài, có đức gánh vác cho dân được thì người đó đảm nhận trách nhiệm”. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên cần phải có cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhân dân một cách hiệu quả nhất, chính vì vậy, Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cần phải nâng cao vai trò của mình trong hoạt động nói chung và trong hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng. 1.2. Nhà nƣớc đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo của công dân Khiếu nại, tố cáo không những là quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp quy định, mà còn là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là phương thức nhân dân tham gia quản lý nhà nước, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Công dân có 9 quyền khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quyết định hoặc việc làm trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước hoặc nhân viên Nhà nước, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thực tiễn cho thấy, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân còn bị xâm phạm ở những mức độ khác nhau trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, việc tăng cường giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những bảo đảm quyền và tự do của công dân. Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, không phải lúc nào người đi kiện cũng là không có căn cứ pháp lý. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp chính quyền cơ sở cũng còn không ít hạn chế, bất cập. Không ít cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu kiện của dân nhưng năng lực, trình độ còn hạn chế, thiếu hiểu biết về các quy định của pháp luật, thậm chí có người còn không nắm vững quy trình, thủ tục của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. đó là chưa kể đến những trường hợp cố tình vi phạm, cố tình hướng dẫn người dân đi khiếu kiện vòng vo, gây lãng phí, tốn kém và làm cho dân thiếu tin tưởng vào việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước. Trước hết, pháp luật khiếu nại, tố cáo phản ánh bản chất chính trị của Nhà nước dân chủ. Nhà nước của dân, do dân, vì dân là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách bộ máy nhà nước. Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cũng chính là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đó chính là quyền giám sát, quyền kiểm soát quyền lực Nhà nước mà chính nhân dân đã ủy quyền, đã trao cho các cơ quan Nhà nước. Đó cũng chính là hình thức thể hiện quyền tự do, dân chủ của công dân. Chính Nhà nước đã tạo lập công cụ pháp lý để người dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Một khi cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân, lợi ích của Nhà nước và lợi 10 ích của xã hội thì việc công dân khiếu nại và tố cáo chính là sự kiểm soát quyền lực Nhà nước từ phía chủ thể quyền lực Nhà nước. Việc công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, xử lý tố cáo theo đúng quy định của pháp luật được coi là sự phản chiếu giá trị công bằng của pháp luật. Giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo đem lại niềm tin cho người dân, người dân cảm nhận được sự công bằng xã hội, sự nghiêm minh của pháp luật và giá trị của quyền con người, quyền công dân được tôn trọng. Giá trị này được thể hiện trong chính pháp luật về khiếu nại, tố cáo, trong các quy định về tiếp nhận và phản hồi thông tin trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; về bảo đảm tính công khai, đối thoại trong suốt quá trình xem xét giải quyết vụ việc... "Quốc hội phục vụ dân đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát, thúc đẩy của dân. Một Quốc hội thực sự dân chủ thì sẽ có tác dụng rất to lớn trong việc thu hút và lôi cuốn sự quan tâm của dân chúng, tạo hậu thuẫn xã hội để làm tăng thực lực, thực quyền của Quốc hội, nhờ đó Quốc hội đem lại những lợi ích và hiệu quả thiết thực cho dân chúng, cho quyền làm chủ trên thực tế của dân". [15] Hiện nay, các cơ quan hành chính nhà nước còn lúng túng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chỉ đạo, điều hành và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Không ít trường hợp việc giải quyết khiếu nại kéo dài nhiều năm không được giải quyết. Cũng không ít trường hợp các cơ quan Nhà nước dùng quyền của mình để biện hộ cho việc làm sai trái của mình dẫn tới chỗ người dân bị oan, không biết kêu ai. Ngay việc thành lập tòa án hành chính là bước tiến quan trọng trong giải quyết khiếu nại nhưng các vụ kiện hành chính còn rất ít, trong đó số vụ mà cơ quan hành chính Nhà nước "thắng kiện" nhiều hơn là "thua kiện". Điều 74 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 quy định: “1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành 11 chính trong phạm vi cả nước. 2- Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc phải chấp hành quyết định của Toà án về vụ án hành chính. Người nào thiếu trách nhiệm trong việc thi hành án hành chính hoặc cố tình không chấp hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự”. Với quy định như trên, có một thực tế là Nhà nước ta chưa có cơ chế thi hành án hành chính như thi hành án dân sự. Khi dân "thua kiện" thì cơ quan hành chính Nhà nước thi hành ngay bản án, còn khi dân "thắng kiện" thì dân không biết thi hành án như thế nào nếu cơ quan Nhà nước không chịu thi hành những nghĩa vụ theo bản án đã tuyên. Như vậy, việc thi hành Điều 74 này cũng không hề đơn giản và bản án hành chính không được cơ quan Nhà nước thi hành cũng không thể bị cưỡng chế thi hành. Đã có lúc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo theo kiểu đột phá, chiến dịch. Đó là việc Chính phủ tập trung cử các đoàn về các địa phương, giải quyết tại chỗ những khiếu nại, tố cáo của dân. Mặc dù có thu được một số kết quả nhất định nhưng theo chúng tôi, đó không phải là cách làm thường xuyên trong quản lý Nhà nước, chỉ mang tính nhất thời, không mang lại hiệu quả lâu dài. Không ít kết luận của các đoàn công tác của Chính phủ sau nhiều năm vẫn không được thực hiện. Từ thực tiễn đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, với tư cách là cơ quan đại diện của nhân dân cần phải nâng cao vai trò của mình trong hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, kịp thời 12 có biện pháp lấp các “lỗ hổng” trong chính sách pháp luật cũng như trong hoạt động của cơ quan hành nhà nước. 1.3. Vị trí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, Quốc hội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Điều này đã được minh chứng qua lịch sử hơn 60 năm hình thành và phát triển của Quốc hội nước ta. Vị trí, vai trò của Quốc hội được khẳng định qua hai đặc điểm, đó là: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (hay còn gọi là cơ quan đại diện dân cử cao nhất của nhân dân) và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vị trí của Quốc hội đã được xác định trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Kế thừa các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959 và năm 1980; Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) dành vị trí trang trọng nhất để quy định về Quốc hội; Điều 83 đã quy định rõ: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.” [10, tr.44]. Tính đại diện của Quốc hội thể hiện ở chỗ: Quốc hội là cơ quan Nhà nước duy nhất bao gồm các đại biểu Quốc hội do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra. Cơ cấu thành phần của Quốc hội bao gồm những đại biểu đại diện cho các 13 dân tộc, tôn giáo và các tầng lớp nhân dân; đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc và trí tuệ của nhân dân cả nước. Quốc hội có chức năng, nhiệm vụ là phục vụ cho lợi ích của toàn thể nhân dân, của dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; đồng thời, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Vai trò của Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất được thể hiện qua chính chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; có nghĩa là Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành ý chí của Nhà nước, thành các quy định của Hiến pháp và pháp luật; đó là những quy định có tính bắt buộc chung, được áp dụng trên toàn lãnh thổ. Các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác khi ban hành đều không được trái với nội dung của Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác, ở nước ta, Quốc hội là cơ quan Nhà nước cao nhất có đủ thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, những vấn đề trọng đại của đất nước; đồng thời, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước. Quốc hội còn là nơi để xem xét và quyết định các vấn đề về nhân sự cấp cao trong các cơ quan Nhà nước ở Trung ương như: bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, do tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta được thực hiện theo nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua cơ quan đại diện của mình, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, Hội đồng nhân dân chỉ là cơ quan quyền lực Nhà nước địa phương, do cử tri từng địa phương bầu ra; nó không giống như Quốc hội là do cử tri toàn quốc bầu ra. Đây chính là cơ sở cho Quốc hội trở thành cơ quan quyền lực nhà nước 14 cao nhất ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điểm này khẳng định rõ: Quốc hội Việt Nam có vị trí, vai trò cao hơn so với Quốc hội của nhiều nước. Ví dụ như ở Vương quốc Anh, thì: "Nguyên thủ quốc gia - Nữ hoàng đứng trên Quốc hội Anh, thì ở Nhà nước Việt Nam mặc dù là Nguyên thủ quốc gia nhưng Chủ tịch nước vẫn phải đứng dưới Quốc hội, do Quốc hội bầu ra và phải chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội" [20, tr. 166 - 167]. Như vậy, Quốc hội nước ta chiếm vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có thể khẳng định rằng, không một cơ quan Nhà nước nào trong hệ thống các cơ quan Nhà nước ở nước ta lại có được vị trí, vai trò quan trọng như Quốc hội. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội nước ta bao gồm các đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Do đó, đại biểu Quốc hội có một địa vị pháp lý rất đặc biệt; được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật. Điều 43 Luật Tổ chức Quốc hội nêu rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước; là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội" [11, tr. 37]. Hiến pháp 1992 đã quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...”(Điều 83) và “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều 6). Do đó, có thể nói trong cơ chế bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân nói chung và quyền khiếu nại, tố cáo nói riêng, Quốc hội là cơ quan có vị trí cao nhất. Một mặt, mỗi cá nhân bằng việc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín bầu ra các đại biểu Quốc hội để thông qua đó thực hiện quyền lực nhà nước 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan