Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm...

Tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự việt nam

.PDF
67
36
127

Mô tả:

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam Phí Thành Chung Khoa Luật Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40 Người hướng dẫn: GS.TS. Võ Khánh Vinh Năm bảo vệ: 2010 Abstract. Trình bày một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Phân tích thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Keywords. Luật hình sự; Hình phạt; Tội phạm; Pháp luật Việt Nam Content MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm. Vì vậy, các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm cũng chính là các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Ở nước ta, ngay từ khi chưa có Bộ luật hình sự (BLHS), trong một số văn bản pháp luật cũng đã đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức. Cho đến nay, trong cả hai BLHS, quyết định hình phạt trong phạm tội có tổ chức được chính thức quy định tại Khoản 4 Điều 17 BLHS 1985 và được kế thừa tại Điều 53 BLHS 1999. Tuy nhiên, các quy định này của BLHS chỉ quy định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm mà chưa chỉ ra các căn cứ đặc thù được áp dụng để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Mặt khác, về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định này còn tồn tại những quan điểm khác nhau về các căn cứ quyết định hình phạt riêng áp dụng trong trường hợp đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng. Trong thực tiễn xét xử, một số cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có sự nhầm lẫn phạm tội có tổ chức với các hình thức đồng phạm khác, không có sự thống nhất trong các tiêu chí nhận dạng hình thức đồng phạm đặc biệt này. Điều này cũng đã dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác đối với người phạm tội. Hơn nữa, khi các cơ quan tố tụng đã xác định đúng về trường hợp phạm tội có tổ chức thì lại có sự tranh chấp trong việc đánh giá tính chất của đồng phạm có tổ chức, tính chất, mức độ tham gia của từng người vào việc phạm tội. Về mặt lý luận, các quy định của bộ luật hình sự hiện hành về phạm tội có tổ chức còn quá chung chung, các dấu hiệu chủ yếu mang tính định tính. Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật còn ít, tính cập nhật không cao. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất những phương án hoàn thiện pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý hình sự, một số nhà hình sự học đã nghiên cứu về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và ở một chừng mực nhất định có nghiên cứu về vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức như là một trường hợp đặc biệt. Hiện nay, chưa có một công trình độc lập nghiên cứu về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư cách là một chế định độc lập với những đặc điểm về quyết định hình phạt riêng. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có hệ thống và toàn diện về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức để từ đó đóng góp về mặt khoa học giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chế định này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề pháp lý có liên quan tới quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam trong Bộ luật hình sự năm 1999 dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và phương pháp xã hội học để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Chương 2:Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 1.1. Phạm tội có tổ chức 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức Sau nhiều lần pháp điển hóa, tại Khoản 3 Điều 17 BLHS 1985 và Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 đều quy định: "phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm". Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn còn chung chung, trừu tượng. Cụm từ "câu kết chặt chẽ" được nhận định không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiện nay, xung quanh khái niệm phạm tội có tổ chức còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất pháp lý của khái niệm này. Theo chúng tôi, việc xác định những trường hợp phạm tội có tổ chức cần tránh hai xu hướng là xác định quá rộng hoặc xác định quá hẹp về khái niệm này. Vì vậy, căn cứ vào tinh thần của Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 giải thích về "sự câu kết" trong phạm tội có tổ chức và sự phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng: phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt. Trong hình thức đồng phạm này có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Dấu hiệu phạm một tội nhiều lần, phạm nhiều tội và sự câu kết lâu dài không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm này. 1.1.2. Phân biệt khái niệm "phạm tội có tổ chức" với một số khái niệm khác có liên quan "Phạm tội có tổ chức", "tổ chức tội phạm", "tội phạm có tổ chức", tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" là những khái niệm khác nhau, có nội hàm giáp ranh với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Tổ chức tội phạm (tổ chức phạm tội) Tổ chức tội phạm có những đặc trưng sau để phân biệt với hình thức đồng phạm có tổ chức: Thứ nhất, tổ chức tội phạm phải là một tổ chức được kết cấu chặt chẽ hoặc rất chặt chẽ, có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các thành viên. So sánh với phạm tội có tổ chức, thì phạm tội có tổ chức bao gồm cả trường hợp phân công vai trò, nhiệm vụ rõ ràng và cả trường hợp không dứt khoát rõ ràng. Thứ hai, tổ chức tội phạm có một cơ cấu ổn định về mặt tổ chức, luôn chịu sự điều hành của một nhóm thủ lĩnh. Còn phạm tội có tổ chức thì đặc trưng này thể hiện ở mức độ thấp hơn. Thứ ba, tổ chức tội phạm thường có hạ tầng cơ sở đảm bảo cho tổ chức tội phạm hoạt động mang tính ổn định thường xuyên trên một địa bàn xác định. Đối với phạm tội có tổ chức, nội dung này biểu hiện ở mức độ thấp. Vì vậy, tổ chức tội phạm thực chất cũng là một hình thức đồng phạm có tổ chức nhưng có cơ cấu tổ chức cao hơn, chặt chẽ, bền vững hơn so với phạm tội có tổ chức thông thường. Tội phạm có tổ chức Hiện nay có ba cách tiếp cận cơ bản về khái niệm phạm tội có tổ chức. Đó là từ góc độ luật hình sự, từ góc độ tội phạm học, từ góc độ tội phạm học và luật hình sự. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh với tội phạm có tổ chức, chúng tôi cho rằng tội phạm có tổ chức là khái niệm được sử dụng trong cả hai lĩnh vực tội phạm học và luật hình sự. Từ góc độ của luật hình sự, để xây dựng khái niệm tội phạm có tổ chức phải xuất phát từ những cơ sở sau: - Tội phạm có tổ chức là tội phạm theo quy định của BLHS. - Khái niệm tội phạm có tổ chức muốn được thừa nhận phải phản ánh đầy đủ những dấu hiệu bản chất của tội phạm có tổ chức. - Khái niệm tội phạm có tổ chức không được trái, không được mâu thuẫn với khái niệm tội phạm được quy định tại điều 8 BLHS 1999. - Cụm từ "có tổ chức" dùng để chỉ tính chất của tội phạm đó. Điều đó có nghĩa là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do một tổ chức tội phạm, nhóm phạm tội có tổ chức thực hiện. Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra định nghĩa tội phạm có tổ chức như sau: Tội phạm có tổ chức là hệ thống những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, phải chịu hình phạt do một nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức rõ ràng, chặt chẽ, cố ý xâm hại những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Như vậy, tội phạm có tổ chức có thể do tổ chức tội phạm hoặc nhóm phạm tội có tổ chức chuyên nghiệp thực hiện. Tội phạm có sử dụng cụm từ tổ chức trong BLHS Khái niệm phạm tội có tổ chức được phân biệt với các tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" ở những điểm sau: Thứ nhất, Đối với các tội phạm sử dụng cụm từ "tổ chức" chỉ cần một người có hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm (CTTP) của tội này là có thể phạm tội này. Nếu có nhiều người cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" thì cũng không cần có sự cấu kết chặt chẽ giữa họ thì mới cấu thành tội này. Nhưng khi những người đồng phạm này có sự cấu kết chặt chẽ với nhau thì những người này là đồng phạm của tội đó dưới hình thức phạm tội có tổ chức. Thứ hai, cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS) của phạm tội có tổ chức là điều luật cụ thể quy định tội phạm mà những người đồng phạm tham gia thực hiện và điều luật quy định về chế định đồng phạm. Trong khi đó, việc xác định TNHS đối với trường hợp phạm tội cụ thể có sử dụng cụm từ "tổ chức" chỉ cần căn cứ vào điều luật quy định tội phạm đó. Thứ ba, trong trường hợp phạm tội có tổ chức, những người tham gia thực hiện tội phạm cùng phạm một tội. Nhưng trong tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức", thì người có hành vi tổ chức là người phạm tội này, còn người được tổ chức thực hiện tội phạm khi có hành vi phạm pháp thì chỉ là vi phạm hành chính hoặc tội phạm nhưng là những tội khác. 1.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức 1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt Chúng tôi cho rằng định nghĩa khái niệm quyết định hình phạt cần được hiểu toàn diện như sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện căn cứ vào các quy định pháp luật hình sự, trên cơ sở kết quả của hoạt động định tội danh để xác định biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của người phạm tội. Trong quyết định hình phạt, Tòa án quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án kết tội đối với họ. 1.2.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Pháp luật hình sự Việt Nam không có quy định riêng về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức ngoài các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội có tổ chức thì về nguyên tắc phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đồng phạm nói chung, phạm tội có tổ chức nói riêng là một quy định bổ sung cho chế định tội phạm. Nó có những đặc thù riêng nên khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án còn cần phải căn cứ vào những quy định có tính chất bổ sung. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa quyết định hình phạt trong phạm tội có tổ chức như sau: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là trường hợp đặc biệt, được thực hiện bởi Tòa án (Hội đồng xét xử) sau khi xác định tội danh chung mà những người phạm tội có tổ chức cùng tham gia thực hiện trên cơ sở so sánh, đối chiếu, kiểm tra để xác định sự giống nhau giữa các dấu hiệu trong hành vi của từng người phạm tội có tổ chức với các dấu hiệu của CTTP cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm BLHS và cấu thành tội phạm của chế định phạm tội có tổ chức. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm đặc biệt của phạm tội có tổ chức so với các trường hợp đồng phạm khác, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người phạm tội có tổ chức, nhân thân người phạm tội có tổ chức để quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự áp dụng đối với từng người phạm tội có tổ chức thể hiện trong bản án kết tội đối với họ. 1.3. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức 1.3.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản trong quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự để Toà tưởngán căn cứ vào đó quyết định hình phạt một cách công bằng, hợp lý, đúng pháp luật, đảm bảo mục đích của hình phạt đối với những người phạm tội có tổ chức. Trên cơ sở phân tích bản chất và các đặc điểm của quyết định hình phạt và nguyên tắc quyết định hình phạt, chúng tôi cho rằng việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải dựa trên bốn nguyên tắc: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), nguyên tắc nhân đạo XHCN, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt. - Nguyên tắc pháp chế XHCN Nội dung của pháp chế XHCN là sự tuân thủ và tôn trọng triệt để pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân trong hoạt động, có nghĩa là khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của luật hình sự, các quy định liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trước hết ở việc Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt đối với người phạm tội. Ngoài ra, đối với việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, nguyên tắc pháp chế còn yêu cầu chủ thể quyết định hình phạt phải chứng minh được sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm. Trong luật hình sự, nội dung nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức được thể hiện trong các quy định không chỉ của Phần chung mà còn cả các quy định của Phần các tội phạm BLHS. Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn biểu hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án phải tuân theo trình tự tố tụng nhất định, các điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt cụ thể và đặc biệt Tòa án chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong BLHS. Mặt khác, nội dung nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức đòi hỏi các quy định về mục đích hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt phải được Tòa án triệt để tuân thủ khi quyết định phạt. - Nguyên tắc nhân đạo XHCN Nguyên tắc nhân đạo trong quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức được thể hiện trong các quy định Phần chung và Phần các tội phạm BLHS 1999. Thực hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để áp dụng và tuân thủ triệt để các quy định của luật hình sự về hình phạt cũng như quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Theo đó, Toà án phải cân nhắc, đánh giá một cách hài hoà, hợp lý trong một thể thống nhất lợi ích của xã hội của Nhà nước và của người phạm tội có tổ chức. Đồng thời, thực hiện nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi hình phạt, các biện pháp tư pháp và các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác được áp dụng đối với người phạm tội nói chung và người phạm tội có tổ chức nói riêng không nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con người. Một nội dung khác của nguyên tắc nhân đạo thể hiện ở chỗ luật hình sự quy định đường lối quyết định hình phạt nghiêm khắc đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, những người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tổ chức… nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội, Nhà nước và nhân dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. - Nguyên tắc cá thể hóa TNHS Nội dung của nguyên tắc cá thể hóa khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức được thể hiện trong luật hình sự cũng như trong thực tiễn áp dụng luật hình sự. Trong luật hình sự, nguyên tắc cá thể hóa TNHS trong quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức được thể hiện trong các quy phạm Phần chung và các quy phạm Phần các tội phạm BLHS. Trong áp dụng pháp luật, nguyên tắc cá thể hóa trong quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc đầy đủ các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức để từ đó làm cơ sở cho Tòa án quyết định hình phạt đúng đắn với người phạm tội. Như vậy, cá thể hóa khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong luật là cơ sở pháp lý để Tòa án cá thể hóa trong áp dụng và ngược lại, chính việc cá thể hóa hình phạt trong áp dụng là quá trình đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào thực tiễn giúp cho việc cá thể hóa trong luật được thực hiện trong thực tế. - Nguyên tắc công bằng Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc công bằng được thể hiện là sự tương xứng giữa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và TNHS của người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu. Như vậy, đòi hỏi thứ nhất của nguyên tắc này trong việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là hình phạt đã tuyên phải tương xứng với tội chung mà những người phạm tội có tổ chức đã cùng tham gia thực hiện. Ngoài tội phạm, nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Tòa án còn phải cân nhắc cả nhân thân người phạm tội có tổ chức và các tình tiết khác có trong vụ án. Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức còn đòi hỏi hình phạt được tuyên cần phải phản ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội, phải có sức thuyết phục mọi người, đảm bảo tính xác định, tính lập luận và bắt buộc phải có lý do. Một đòi hỏi khác của nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là tính hợp lý của việc quyết định hình phạt. Trong BLHS, nội dung của nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức được thể hiện ở cả trong Phần chung và Phần các tội phạm BLHS. 1.3.2. Căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Tòa án phải tuân theo những đòi hỏi quan trọng có tính chất nguyên tắc là: a. Các quy định của BLHS; b. Tính chất và mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội; c. Nhân thân người phạm tội; d. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; đ.Tính chất đồng phạm; e. Tính chất, mức độ tham gia của từng người phạm tội có tổ chức. 1.3.2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tất cả các quy định Phần chung BLHS, trong đó, những quy định của Phần chung liên quan trực tiếp đến việc quyết định hình phạt là những quy định mà Tòa án cần căn cứ trước hết khi quyết định hình phạt. Ngoài căn cứ và các quy định của Phần chung BLHS, Tòa án còn phải căn cứ vào các quy định Phần các tội phạm BLHS về loại và khung hình phạt của điều luật quy định tội phạm mà bị cáo đã cùng tham gia thực hiện. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án phải tuân theo các quy định BLHS để xác định loại và mức hình phạt đối với những người phạm tội có tổ chức về tội phạm chung mà họ đã cùng cố ý thực hiện. Tội phạm chung của những người đồng phạm có tổ chức được quy định tại Điều luật nào của Phần các tội phạm BLHS thì quyết định hình phạt được thực hiện trong phạm vi khung chế tài điều luật ấy quy định. Các quy định khác của BLHS đối với tội phạm chung mà họ đã cùng thực hiện cũng được áp dụng chung cho những người phạm tội có tổ chức. 1.3.2.2 Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được hiểu là sự thống nhất giữa tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm chung với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của từng người phạm tội có tổ chức. Tính chất nguy hiểm cho xã hội là đặc tính về chất của tội phạm là thuộc tính khách quan của một loại tội phạm nhất định được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm, trong đó, trước hết và quan trọng nhất là ý nghĩa, tầm quan trọng, giá trị của những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ bị hành vi phạm tội xâm hại (khách thể của tội phạm). Mức độ nguy hiểm cho xã hội là đặc tính về lượng của tội phạm, cũng là thuộc tính khách quan của một tội phạm và được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Mặc dù, khi xây dựng các khung chế tài cho các tội phạm cụ thể, nhà làm luật đã căn cứ chủ yếu vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng nhóm tội và của từng tội trong nhóm tội nhưng khi quyết định hình phạt vẫn đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc cả tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng loại tội phạm. Thực tiễn xem xét cho thấy Tòa án thấy khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm chung đã thực hiện Tòa án phải dựa vào những tình tiết dấu hiệu thuộc mặt khách quan và chủ quan sau: - Tính chất của hành vi tham gia thực hiện tội chung của những người phạm tội có tổ chức như thủ đoạn, công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện. - Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra. - Các tình tiết như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội trong những trường hợp không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội chung. - Các loại và mức độ của lỗi. 1.3.2.3. Nhân thân người phạm tội có tổ chức Nhân thân người phạm tội là một khái niệm rộng, đa dạng nhưng khi cân nhắc nhân thân người phạm tội để quyết định hình phạt thì không được trừu tượng hóa và tách rời chúng khỏi tội phạm tội đã thực hiện và cũng không chỉ xuất từ tội phạm đã thực hiện bởi hình phạt luôn là hình phạt cho hành vi phạm tội đã thực hiện chứ không phải cho nhân thân người phạm tội. Cụ thể, thực tiễn xét xử thường xem xét các đặc điểm nhân thân sau đây khi quyết định hình phạt: - Những đặc điểm nhân thân người phạm tội có tổ chức có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. - Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội có tổ chức phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội. - Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội có tổ chức phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội mà Tòa án phải xem xét khi quyết định hình phạt. Những tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội có thể được chỉ rõ trong luật (mang tính pháp lý) hoặc là những đặc điểm, đặc tính không được chỉ rõ trong luật nhưng được pháp luật cho phép Tòa án cân nhắc khi chúng có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt (không mang tính pháp lý). Mỗi đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa và mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với từng trường hợp phạm tội, trong từng vụ án cụ thể. Các đặc điểm, đặc tính nhân thân người phạm tội cụ thể bao giờ cũng có nội dung cụ thể. Nhân thân người phạm tội là một nội dung phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đồng thời là một căn cứ độc lập phải xem xét khi quyết định hình phạt. Khi cân nhắc các căn cứ, đòi hỏi trong mọi trường hợp, Tòa án phải coi trọng và lấy căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chung đã thực hiện làm căn cứ hàng đầu, quan trọng, quyết định bởi vì tội phạm đã thực hiện là thước đo khách quan duy nhất của TNHS, của việc quyết định hình phạt. 1.3.2.4. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS trong một vụ án phạm tội có tổ chức bao gồm cả các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS chung cho tất cả những người phạm tội có tổ chức và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với riêng từng người phạm tội có tổ chức. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, để vận dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS với tư cách là một căn cứ quyết định hình phạt thì đòi hỏi đầu tiên đối với Tòa án là phải có sự phân biệt những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS chung và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng riêng đối với từng người phạm tội có rổ chức. Ngoài ra, để việc vận dụng những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS chung và những tính tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS thuộc về riêng người phạm tội có tổ chức được chính xác, cần phải quán triệt đầy đủ nội dung, ý nghĩa pháp lý của từng tình tiết cụ thể được quy định tại Điều 46, Điều 48 và đồng thời phải chú ý một số các đặc điểm khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS. 1.3.2.5. Tính chất phạm tội có tổ chức Tính nguy hiểm cao hơn cho xã hội của tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm quy định tính nguy hiểm cao cho xã hội của tất cả những người tham gia vào việc thực hiện tội phạm. Do vậy, luật quy định Toà án phải cân nhắc tính chất đồng phạm khi quyết định hình phạt đối với từng người đồng phạm. Đến lượt mình, tính chất đồng phạm được quy định bởi các hình thức đồng phạm. Nếu như giữa các hình thức đồng phạm có sự phân biệt về tính chất của sự liên hiệp hành động thì giữa các trường hợp phạm tội có tổ chức lại tiếp tục được phân biệt bởi tính chất của sự câu kết chặt chẽ của những người phạm tội có tổ chức trong hoạt động phạm tội chung. Do vậy, để cá thể hóa một cách triệt để đảm bảo nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt trong trường phạm tội có tổ chức, Tòa án phải căn cứ vào tính chất của phạm tội có tổ chức - tính chất của sự câu kết chặt chẽ. Trong thực tiễn, tính chất của phạm tội có tổ chức hay tính chất của sự câu kết chặt chẽ thường được đánh giá thông qua các yếu tố sau: thời gian tồn tại của đồng phạm có tổ chức; mục đích, ý thức chủ quan của liên kết; tính chất và mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm; sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ; tính chất chuyên nghiệp; phương pháp, thủ đoạn phạm tội. 1.3.2.6. Tính chất, mức độ tham gia phạm tội của từng người phạm tội có tổ chức Tính chất tham gia phạm tội của từng người phạm tội có tổ chức được quy định bởi vai trò mà người phạm tội có tổ chức đảm nhiệm, đặc thù về chức năng, tác dụng của người đó trong hoạt động phạm tội chung. Mức độ tham gia của từng người phạm tội có tổ chức chỉ sự đóng góp thực tế của những người phạm tội có tổ chức vào việc thực hiện tội phạm chung, được xác định bởi tính chất của hành vi phạm tội và mức độ đóng góp thực tế của người đó trong việc thực hiện vai trò, chức năng của mình trong việc cùng chung thực hiện tội phạm, cũng như việc gây ra hoặc đe dọa gây ra hậu quả tội phạm chung. Việc pháp luật quy định khi quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ tham gia của từng người phạm tội là sự thể hiện của nguyên tắc công bằng và nhằm cá thể hóa TNHS của từng người phạm tội. 1.4. Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự một số nước trên thế giới 1.4.1. Luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức Luật hình sự CHLB Đức không quy định riêng căn cứ quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội có tổ chức mà quy định cụ thể và trực tiếp trong luật hình sự các nguyên tắc quyết định hình phạt làm căn cứ chung có tính chất định hướng, chỉ đạo trong việc quyết định hình phạt đối với mọi trường hợp phạm tội, quy định các căn cứ quyết định hình phạt trong mọi trường hợp phạm tội nói chung (đơn lẻ, đồng phạm) và các quy định có tính chất phân hóa TNHS đối với những người đồng phạm. Để định hướng cho Tòa án và tạo cơ sở cho việc quyết định hình phạt, BLHS Đức đã quy định các nguyên tắc quyết định hình phạt tại Điều 46. Theo điều luật này, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa trên cơ sở lỗi của người phạm tội, đồng thời phải cân nhắc đến ảnh hưởng của hình phạt sẽ tuyên đối với cuộc sống sắp tới của họ. Cụ thể hóa nguyên tắc quyết định hình phạt, Điều 46 BLHS Đức quy định căn cứ quyết định hình phạt. Với quy định này, luật mới chỉ định hướng chung cho việc quyết định hình phạt thông qua việc đưa ra các loại tình tiết cần xem xét, đánh giá. Luật chưa cụ thể hóa các tình tiết đó theo hướng tăng nặng cũng như theo hướng giảm nhẹ. Nghiên cứu quy định BLHS Đức, chúng ta còn thấy nhà làm luật còn tiến xa hơn trong việc phân hóa TNHS của những người đồng phạm. BLHS Đức coi người xúi giục phải chịu trách nhiệm như người thực hành còn người giúp sức chỉ đóng vai trò thứ yếu nên mức độ TNHS nhẹ hơn so với người thực hành. 1.4.2. Luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Cũng giống như BLHS CHLB Đức và BLHS Việt Nam, BLHS CHND Trung Hoa không có quy định riêng về căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư cách là một hình thức đồng phạm đặc biệt. BLHS CHND Trung Hoa chỉ quy định chung các căn cứ quyết định hình phạt được áp dụng trong cả trường hợp phạm tội đơn lẻ và trường hợp đồng phạm. Cụ thể, Điều 61 quy định "Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cần phải căn cứ vào thực tế, tính chất, tình tiết và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo những quy định có liên quan trong Bộ luật này". Với việc chỉ quy định hai căn cứ quyết định hình phạt này, theo chúng tôi, dường như nhà làm luật trong trường hợp này đã gián tiếp coi nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS chỉ là một trong những tình tiết giúp cho Tòa án đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như khả năng cải tạo, giáo dục và hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội (căn cứ thứ hai). Tuy nhiên, BLHS CHND Trung Hoa lại thể hiện ở mức độ cao nguyên tắc cá thể hóa TNHS đối với những người đồng phạm nói chung. 1.4.3. Luật hình sự Liên bang Nga Cũng giống như BLHS Việt Nam và một số nước, BLHS Nga chỉ quy định về các căn cứ (nguyên tắc) quyết định hình phạt chung, căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm mà không có quy định cụ thể, chi tiết về trường hợp quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức và cũng chưa quyết định cụ thể về sự phân hóa TNHS khi quyết định hình phạt đối với mỗi người đồng phạm. BLHS Liên bang Nga không coi các quy định của BLHS là căn cứ quyết định hình phạt. Thực tế trên xuất phát từ quan điểm cho rằng việc tuân thủ các quy định của BLHS khi quyết định hình phạt là điều bắt buộc, hiển nhiên. Luật hình sự Liên bang Nga chưa có quy định riêng thể hiện sự phân hóa TNHS giữa những người tham gia thực hiện tội phạm. Chương 2 THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 2.1. Thực trạng quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức 2.1.1. Thực trạng phạm tội có tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội còn khoảng 48 băng, ổ nhóm tội phạm trọng điểm, hoạt động bảo kê để cưỡng đoạt tài sản; đòi nợ thuê, đâm thuê chém mướn, tổ chức đánh bạc; cho vay nặng lãi, côn đồ hung hãn. Từ ngày 01.01.2004 đến 31.12.2008, toàn thành phố đã điều tra, khám phá 24.561 vụ, 32.254 đối tượng (đạt tỷ lệ 72%). Trong đó, đã triệt phá 5247 ổ nhóm tội phạm bắt 21.025 đối tượng. Loại ổ nhóm đã triệt phá bao gồm: 1895 ổ nhóm có từ 3 đến 5 đối tượng; 657 ổ nhóm có từ 6 đến 9 đối tượng; 232 ổ nhóm có từ 10 đối tượng trở lên. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống phạm tội có tổ chức trên địa bàn Hà Nội trong thời gian qua, chúng tôi nhận thấy rằng, các trường hợp phạm tội có tổ chức thường tồn tại hai dạng cơ bản sau: phạm tội có tổ chức có cơ cấu tổ chức đơn giản và phạm tội có tổ chức có cơ cấu tổ chức phức tạp. 2.1.2. Thực trạng quyết định hình phạm trong trường hợp phạm tội có tổ chức 2.1.2.1. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức - những kết quả quan trọng Theo số liệu thống kê của tác giả về các vụ án phạm tội có tổ chức do Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm qua các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009 thì: Năm 2005, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử 22 vụ - 83 bị cáo (3.77 bị cáo/vụ); Năm 2006, xét xử 18 vụ - 67 bị cáo (3.72 bị cáo/vụ); Năm 2007, xét xử 14 vụ - 88 bị cáo (6,2 bị cáo/vụ); Năm 2008, xét xử 08 vụ - 35 bị cáo (4,38 bị cáo/vụ); Năm 2009, xét xử 06 vụ - 30 bị cáo (5 bị cáo/vụ). Qua thực tiễn xét xử cho thấy phần lớn các Thẩm phán đều hiểu rõ nội dung, bản chất, các hình thức thường gặp của phạm tội có tổ chức. Hầu hết các Tòa án đã áp dụng đúng tình tiết phạm tội có tổ chức, có sự phân biệt rõ ràng giữa đồng phạm thông thường với phạm tội có tổ chức. Các Tòa án đã đảm bảo việc thực hiện tốt nguyên tắc xử lý. Nhìn chung, hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo đảm bảo nghiêm minh, kết hợp giữa trừng trị với giáo dục, thuyết phục. 2.1.2.1. Một số hạn chế trong việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức - Về nhận thức và áp dụng tình tiết phạm tội có tổ chức Thứ nhất, trong một số vụ án phạm tội có tổ chức, khi xét xử đã có quan điểm đồng nhất khái niệm phạm tội có tổ chức với đồng phạm có thông mưu trước. Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn Đức cùng đồng bọn phạm tội "Cướp tài sản" Thứ hai, một số Tòa án cho rằng phạm tội có tổ chức dứt khoát phải là hình thức đồng phạm phức tạp, tức là phải có sự phân công vai trò giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Hoặc trong một số trường hợp, Tòa án sai lầm trong việc đánh giá về việc phân công vai trò giữa những người tham gia thực hiện tội phạm. Đôi khi sự phân công đó là để thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước giao sau đó thì thực hiện tội phạm. Do đó, trong trường hợp này không được xác định là phạm tội có tổ chức. Ví dụ: Vụ án Trần Cao Tuấn và đồng phạm phạm tội "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" Thứ ba, trong khi xác định hình thức phạm tội có tổ chức một số Tòa án cho rằng ở hình phức phạm tội có tổ chức những người đang phải phạm nhiều tội hoặc phạm một tội nhưng nhiều lần và có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong một thời gian dài. - Hạn chế trong việc nhận thức và áp dụng các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Thứ nhất, sai sót trong việc áp dụng đường lối xử lý về hình sự. Ví dụ: Vụ án Hoa Anh Tuấn và đồng bọn phạm tội "Chống người thi hành công vụ" (đồng phạm thường) Thứ hai, một số Tòa án sai sót khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, thường phổ biến ở các dạng: bỏ sót một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, vận dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS hoặc không vận đúng khoán 2 Điều 46 BLHS và cá biệt có trường hợp Tòa án đã có sự nhầm lẫn khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với riêng người phạm tội trong phạm tội có tổ chức để áp dụng chung cho tất cả những người phạm tội dẫn đến quyết định hình phạt không chính xác. Ví dụ: Vụ án Ngô Khánh Toàn và đồng phạm phạm tội "Tham ô tài sản" Thứ ba, một số Tòa án khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức và đồng phạm cân nhắc không đúng căn cứ "tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội", tính chất, mức độ tham gia vào việc thực hiện tội phạm. Ví dụ: Vụ án Phạm Quang Minh và đồng phạm phạm tội "Gây rối trật tự công cộng". Thứ tư, một số Tòa án khi quyết định hình phạt cân nhắc chưa đúng nhân thân người phạm tội thường là do nghiên cứu chưa kỹ hồ sơ vụ án dẫn đến bỏ sót một số tình tiết thuộc về nhân thân có ý nghĩa giảm nhẹ hoặc tăng nặng hình phạt cho bị cáo. Thứ năm, một số Tòa án khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức cân nhắc không đúng căn cứ, "tính chất của đồng phạm". 2.2. Những nguyên nhân của các hạn chế của quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức 2.2.1. Hạn chế về trình độ, năng lực, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ngành Tòa án Một số không ít Thẩm phán chưa nên cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, thiếu thận trọng, chưa tích cực nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ nên chưa nắm vững các hướng dẫn áp dụng pháp luật nên áp dụng không đúng các quy định của pháp luật dẫn tới việc xét xử sai... Thực tế hiện nay, rất ít Hội thẩm nhân dân hiểu pháp luật nói chung cũng như có sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật thuộc từng lĩnh vực chuyên ngành. 2.2.2. Hạn chế trong các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức - Thiếu quy định mang tính chất phân hóa, TNHS đối với quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng. - Vướng mắc trong việc xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm của những người đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng. Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến phạm tội có tổ chức và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức 3.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến phạm tội có tổ chức Thứ nhất, cần quy định một khái niệm đầy đủ về phạm tội có tổ chức trong BLHS Việt Nam. Thứ hai, BLHS cần quy định riêng về tổ chức tội phạm. 3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức Thứ nhất, cần thiết quy định một điều luật riêng về các nguyên tắc xác định TNHS trong trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức. Thứ hai, phải phân hóa TNHS đối với những người đồng phạm và người phạm tội có tổ chức ở mức độ cao phản ánh đúng tính chất nguy hiểm cho xã hội trong hành vi của từng người. Cụ thể như sau: Người tổ chức phải chịu TNHS tăng nặng hơn so với người thực hành; người xúi giục chịu TNHS như người thực hành; người giúp sức được giảm nhẹ TNHS hơn người thực hành. Thứ ba, BLHS cần thiết phải quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm và vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm. 3.2. Nâng cao năng lực, chất lượng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ngành Tòa án nhân dân 3.2.1. Nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân Để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán nói chung đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, cần quán triệt một số quan điểm sau: - Nâng cao chất lượng Thẩm phán trên cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động xét xử, lấy hoạt động xét xử làm trung tâm - Nâng cao chất lượng Thẩm phán nhằm bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người và bảo vệ pháp chế XHCN - Nâng cao chất lượng Thẩm phán trên cơ sở nâng cao tiêu chuẩn đạo đức, phẩm chất, chính trị, trình độ chuyên môn và kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán - Nâng cao chất lượng Thẩm phán phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Việc nâng cao chất lượng Thẩm phán ở Việt Nam cần dựa trên các giải pháp cơ bản sau: - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về Thẩm phán; - Mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán; - Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán; - Hoàn thiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; - Cải cách chế độ tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác của Thẩm phán; - Hoàn thiện chế độ khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán; - Đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động của Thẩm phán; - Tăng cường các biện pháp bảo đảm cho hoạt động của Thẩm phán; - Hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động của đội ngũ Thẩm phán; - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với hoạt động của đội ngũ Thẩm phán; - Nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán. 3.2.2. Nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ Hội thẩm nhân dân Để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức nói riêng thì cần có giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Hội thẩm nhân dân như sau: Thứ nhất, đổi mới quy định tiêu chuẩn tuyển chọn Hội thẩm nhân dân. Tiêu chuẩn của Hội thẩm nhân dân phải được quy định rõ ràng về tiêu chuẩn đạo đức, trình độ pháp luật và trình độ nghiệp vụ. Thứ hai, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về Hội thẩm nhân dân. Thứ ba, việc xét xử của Hội thẩm cũng như Thẩm phán phải được coi là lao động trí óc nặng nhọc nên tiếp tục nghiên cứu sửa đổi chính sách, chế độ bồi dưỡng cho Hội thẩm nhân dân cũng như Thẩm phán phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và tình hình giá cả. Thứ ba, hoàn thiện việc tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với Hội thẩm nhân dân. Thứ tư, hoàn thiện các quy định về tổ chức, quản lý hội thẩm. Thứ năm, Chánh án Tòa án địa phương quản lý Hội thẩm, phân công Hội thẩm xét xử phải hợp lý, khoa học đảm bảo sự phù hợp với các vụ án trong xét xử và tất cả các Hội thẩm tham gia xét xử đồng đều, tránh để tình trạng Hội thẩm xét xử nhiều, Hội thẩm xét xử ít. Thứ sáu, nên quy định: thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm 2 Thẩm phán và một Hội thẩm (hoặc 03 Thẩm phán và 02 Hội thẩm). KẾT LUẬN 1. Nội dung và hình thức đồng phạm luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hình thức đồng phạm chịu sự quy định của nội dung đồng phạm nhưng hình thức đồng phạm có tính độc lập tương đối và có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm do những người đồng phạm thực hiện. Trong các hình thức đồng phạm, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt. Phạm tội có tổ chức được phân biệt với các hình thức đồng phạm khác ở dấu hiệu "có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cố ý cùng tham gia thực hiện tội phạm". Chính sự câu kết chặt chẽ này là đặc điểm quan trọng yếu nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn, đồng thời quy định sự khác nhau về chất giữa phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Đặc trưng này của phạm tội có tổ chức vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu chủ quan vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu khách quan. Phạm tội có tổ chức, tổ chức tội phạm, tội phạm có tổ chức, tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" trong BLHS là những khái niệm giáp ranh nhưng không đồng nhất. 2. Quyết định hình phạt với tư cách là một hoạt động quan trọng trong áp dụng pháp luật hình sự. Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện căn cứ vào các quy định pháp luật hình sự, trên cơ sở kết quả của hoạt động định tội danh để xác định biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của người phạm tội. Quyết định hình phạt không chỉ tuân thủ các nguyên tắc của luật hình sự nói chung mà còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù cho việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt. BLHS Việt Nam không có quy định riêng về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức mà gián tiếp quy định các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức thông qua các quy định về căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm và quy định về phạm tội có tổ chức. Với tư cách là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải tuân theo những đòi hỏi chung mang tính nguyên tắc như khi quyết định hình phạt đối với các trường hợp đồng phạm thông thường nhưng những đòi hỏi đó được cân nhắc và đánh giá có sự khác biệt so với các trường hợp đồng phạm thông thường do tính chất của trường hợp phạm tội có tổ chức quy định. 3. Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về phạm tội có tổ chức và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam, cùng với việc tham khảo quy định pháp luật nước ngoài liên quan đến các chế định này, chúng tôi nhận thấy quy định này còn có một số điểm bất cập, cần được sửa đổi bổ sung tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Thứ nhất, cần quy định một khái niệm đầy đủ về phạm tội có tổ chức trong BLHS Việt Nam. Theo chúng tôi, phạm tội có tổ chức cần được xác định là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao, có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Thứ hai, BLHS cần quy định riêng về tổ chức tội phạm. Cho đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa pháp quy của khái niệm tổ chức tội phạm. Thực tế trên đã tạo ra nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau về khái niệm này. Theo chúng tôi: Tổ chức tội phạm là tập hợp người có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các thành viên, có một cơ cấu ổn định về mặt tổ chức cùng liên kết với nhau thực hiện một hoặc nhiều tội phạm. Thứ nhất, cần thiết quy định một điều luật riêng về các nguyên tắc xác định TNHS trong trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức, gồm các nội dung như sau: - Tất cả những người phạm tội có tổ chức đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh mà họ đã cùng tham gia thực hiện, theo cùng điều luật và trong phạm vi chế tài điều luật ấy quy định. - Tất cả những người đồng phạm có tổ chức phải cùng chịu trách nhiệm về những tình tiết tăng nặng định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng TNHS chung quy định tại Điều 48 BLHS, nếu họ biết, tức là với những tình tiết này họ cùng bàn bạc với nhau hoặc mọi người đều nhận thức và biết những tình tiết đó, hoặc tuy không cùng bàn bạc nhưng họ buộc phải thấy trước và có thể thấy trước tình tiết đó. - Những quy định có tính nguyên tắc chung cho mọi trường hợp phạm tội đều được áp dụng chung cho tất cả những người phạm tội có tổ chức trong vụ phạm tội có tổ chức. - Những người phạm tội có tổ chức không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá (thái quá) của những người phạm tội có tổ chức khác. - Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS thuộc về riêng người người phạm tội có tổ chức nào thì chỉ áp dụng đối với chính người phạm tội có tổ chức đó. - Việc miễn TNHS hoặc hình phạt đối với người phạm tội có tổ chức này không loại trừ TNHS của những người phạm tội có tổ chức khác. - Hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức dù chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu TNHS. - Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một trong những người đồng phạm trong trường hợp phạm tội có tổ chức không loại trừ TNHS của những người đồng phạm khác. Thứ hai, phải phân hóa TNHS đối với những người đồng phạm và người phạm tội có tổ chức ở mức độ cao phản ánh đúng tính chất nguy hiểm cho xã hội trong hành vi của từng người. Cụ thể như sau: Người tổ chức phải chịu TNHS tăng nặng hơn so với người thực hành. Người xúi giục chịu TNHS như người thực hành. Người giúp sức được giảm nhẹ TNHS hơn người thực hành. Thứ ba, BLHS cần thiết phải quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm và vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm. 4. Để nâng cao hiệu quả hoạt động quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức thì không chỉ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về các chế định này mà còn phải tiếp tục nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ngành Tòa án nhân dân. Muốn làm được như vậy, cần quán triệt một số quan điểm và tổ chức thực hiện nhất quán, đồng bộ các giải pháp trên và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương. References 1. Ban Chỉ đạo tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự (2000), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội. 2. Phạm Thanh Bình (1995), "Về hành vi kích động người khác phạm tội", Luật học, (1). 3. Bộ hình luật (1973), Nxb Trần Chung, Sài Gòn. 4. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2007), Nxb Tư pháp, Hà Nội. 5. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội. 6. Lê Cảm (1989), "Về bản chất pháp lý của quy phạm "nguyên tắc quyết định hình phạt" tại Điều 37 Bộ luật hình sự", Tòa án nhân dân, (1) 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. 32. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Lê Cảm (Chủ biên) (2005), Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Lê Cảm, Trịnh Tiến Việt (2002), "Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản", Tòa án nhân dân, (1). Đặng Văn Doãn (1986), Vấn đề đồng phạm, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Ban Chấp hành trung ương Đảng, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. Nguyễn Trường Giang (Chủ biên) (2005), Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các nghị định thư bổ sung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Văn Hào (1962), Bộ hình luật Việt Nam, Sài Gòn. Nguyễn Văn Hiện (1999), "Một số vấn đề về quyết định hình phạt trong dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi", Tòa án nhân dân, (5). Nguyễn Ngọc Hòa (1993), "Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Tòa án nhân dân, (1). Nguyễn Ngọc Hòa (1999), "Mục đích của hình phạt", Luật học, (1). Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2000), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Phong Hòa (2005), "Bàn về khái niệm tội phạm có tổ chức và tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia", Tòa án nhân dân, (4). Hoàng Việt luật lệ (1994), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Đoàn Văn Hường (2003), "Đồng phạm và một số vấn đề về thực tiễn xét xử", Tạp chí tòa án nhân dân, (4). Trần Minh Hưởng (Chủ biên) (2002), Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (phần chung), Nxb Lao động, Hà Nội. Đỗ Thanh Huyền (2007), "Bàn về phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần", Tòa án nhân dân, (4). Phạm Thường Khanh (1997), "Về khái niệm tội phạm có tổ chức", Nhà nước và pháp luật, (4). "Luật hình sự của một số nước trên thế giới" (1998), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề). Dương Tuyết Miên (2004), Quyết định hình phạt, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. Nguyễn Vạn Nguyên (1987), "Phạm tội có tổ chức và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ chức", Tòa án nhân dân, (6, 8). 33. Nguyễn Quốc Nhật (2005), Tội phạm có tổ chức - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Cao Thị Oanh (2002), "Vấn đề mặt chủ quan của đồng phạm", Luật học, (2). 35. Đinh Văn Quế (1983), "Vấn đề thái quá của kẻ thực hành trong vụ án đồng phạm", Tòa án nhân dân, (4). 36. Đinh Văn Quế (1995), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 39. Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 40. Đỗ Ngọc Quang (1997), "Phân biệt phạm tội có tổ chức, tổ chức phạm tội và tội phạm có tổ chức", Luật học, (3). 41. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 42. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 43. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 44. Quốc triều hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Lê Thị Sơn (1995), "Khái niệm người thực hiện tội phạm và khái niệm người đồng phạm", Luật học, (1). 46. Lê Thị Sơn (1995), "Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm", Luật học, (6). 47. Lê Thị Sơn (1998), "Về các giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm", Luật học, (3). 48. Lê Thị Sơn (Chủ biên) (2004), Quốc triều hình luật lịch sử hình thành, nội dung và giá trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 49. Trần Văn Sơn (1991), "Về nội dung khoản 2 Điều 39 Bộ luật hình sự", Tòa án nhân dân, (9). 50. Trần Văn Sơn (1996), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học. 51. Nguyễn Sơn (2002), Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật. 52. Phạm Thái (1986), Bình luận Bộ luật hình sự 1985, Nxb pháp lý, Hà Nội. 53. Nguyễn Hà Thanh (2007), "Cần bổ sung tội danh "tổ chức tội phạm" trong Bộ luật hình sự", Tòa án nhân dân, (5). 54. Nguyễn Hà Thanh (2007), "Tìm hiểu chế định phạm tội có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam", Tòa án nhân dân, (19). 55. Nguyễn Trung Thành (1999), "Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nhà nước và pháp luật, (9). 56. Nguyễn Trung Thành (2002), "Cơ sở và những nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội có tổ chức", Nhà nước và pháp luật, (6). 57. Nguyễn Trung Thành (2002), Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống, Luận án tiến sĩ. 58. Kiều Đình Thụ (1996), Tìm hiểu luật luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 59. Dương Văn Tiến (1986), "Các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm", Nhà nước và pháp luật, (1). 60. Trần Quang Tiệp (1997), "Khái niệm tội phạm có tổ chức", Tòa án nhân dân, (1). 61. Trần Quang Tiệp (2000), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 62. Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 63. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I, Hà Nội. 64. Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II (1975-1978), Hà Nội. 65. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, Hà Nội. 66. Tòa án nhân dân tối cao (2000 - 2009), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án từ năm 2000 đến 2009, Hà Nội. 67. Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Luật hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 68. Từ điển triết học (1975), Nxb Tiến bộ, Matxcova. 69. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 70. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 71. Trần Hữu Ứng (1998), "Nhận dạng về tội phạm có tổ chức ở Việt Nam hiện nay", Tòa án nhân dân, (1). 72. Trần Hữu Ứng (2000), "Khái niệm về tội phạm có tổ chức", Tòa án nhân dân, (12). 73. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Hà Nội. 74. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 75. Viện Luật học (1986), Những vấn đề cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 76. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (1995), Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 77. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2002), Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, Chuyên đề nghiên cứu khoa học, Hà Nội 78. Võ Khánh Vinh (1989), "Đọc sách về đồng phạm", Nhà nước và pháp luật, (2). 79. Võ Khánh Vinh (1989), "Quyết định hình phạt: Một số vấn đề chung", Nhà nước và pháp luật, (4). 80. Võ Khánh Vinh (1990), "Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình phạt", Tòa án nhân dân, (8). 81. Võ Khánh Vinh (1990), "Nghiên cứu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi quyết định hình phạt", Tòa án nhân dân, (12). 82. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 83. Võ Khánh Vinh, Trần Thị Quang Vinh (1996), "Về khái niệm, bản chất, ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam", Tòa án nhân dân, (6). 84. Lý Quang Xán (1966), Bàn về tội đồng phạm, Nxb Khoa học, Hà Nội. 85. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm có tổ chức, mafia và toàn cầu hóa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 86. Nguyễn Xuân Yêm (2005), Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 87. Nguyễn Thị Hải Yến (1997), Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan