PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGỌC LẶC
TRƯỜNG MẦM NON PHÙNG GIÁO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN VIỆC SỬ
DỤNG TIẾT KIỆM NĂNG LƯỢNG ĐIỆN, NƯỚC Ở
TRƯỜNG MẦM NON PHÙNG GIÁO
Người thực hiện: Lê Thúy Lan
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường mầm non Phùng Giáo
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý
NGỌC LẶC, NĂM 2019
MỤC LỤC
TT
I
1
2
3
4
II
1
2
3
4
III
1
2
TÊN MỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
TRANG
1
1
2
2
2
3
3
3
Một số giải pháp chỉ đạo thực hiện việc sử dụng tiết kiệm
năng lượng điện, nước.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
16
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
18
18
18
5
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Năng lượng là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu đối với cuộc sống của con
người, năng lượng góp phần duy trì sự sống và phát triển đất nước. Nếu như không
có năng lượng sẽ không có sự sống, mọi thứ sẽ không tồn tại, thế nhưng nguồn năng
lượng quý báu của chúng ta đã đang dần hao mòn và gần như cạn kiệt.
Đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhu cầu năng lượng ngày càng tăng nhanh, trong khi khả năng cung cấp năng
lượng trong nước có hạn, khả năng nhập khẩu hạn chế. Chính vì thế, nguy cơ
thiếu hụt năng lượng ngày càng đáng lo ngại và hiện hữu. Đặc biệt là năng
lượng điện và năng lượng nước là những năng lượng hàng ngày, hàng giờ mỗi
con người, mỗi gia đình chúng ta đều cần đến và trực tiếp sử dụng. Chúng ta hãy
thử tưởng tượng nếu không có điện, không có nước thì cuộc sống xung quanh sẽ
ra sao? Nếu con người chỉ biết sử dụng, mà không biết gìn giữ, bảo vệ thì nguồn
năng lượng sẽ bị cạn kiệt, dẫn đến tình trạng thiếu điện, mất điện, thiếu
nước...ảnh hưởng đến sản xuất, kinh tế, sinh hoạt và cuộc sống của con người.
Hiện nay, ở nước ta vẫn còn hiện tượng sử dụng điện khá lãng phí, nhất là ở
khu vực công cộng, trụ sở, cơ quan, đèn quảng cáo.., nhiều đường phố đèn cao áp
dày đặc chiếu sáng suốt đêm với độ sáng quá mức cần thiết; nhiều phòng làm việc
buông rèm và bật điện, không tận dụng ánh sáng tự nhiên gây lãng phí điện. Bên
cạnh việc lãng phí nguồn điện thì nguồn nước sạch cũng đang bị con người làm ô
nhiễm, sử dụng không có kế hoạch như bơm xả nước quá mức cần dùng…
Trong thực tế, năng lượng tiêu thụ phổ biến trong các nhà trường thường
là năng lượng không tái tạo như: Điện, nước, than, ga...Nguồn tài nguyên năng
lượng không tái tạo đang có nguy cơ cạn kiệt, trong khi đó nhu cầu sử dụng
năng lượng của con người gia tăng nhanh chóng cùng với sự phát triển kinh tế
xã hội. Vì vậy mà việc sử dụng năng lượng tiết kiệm có hiệu quả đang là vấn đề
cần thiết và cấp bách hiện nay, không chỉ của một cá nhân, một trường học quan
tâm mà đó là vấn đề toàn cầu, không bỗng dưng chúng ta có “Giờ trái đất” đó là
lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mỗi người cần có ý thức tiết kiệm điện trong mọi hoạt
động. Năng lượng rất quan trọng đối với đời sống con người. Vì vậy việc thực
hiện tiết kiệm năng lượng điện, nước đối với giáo viên và tiến hành giáo dục trẻ
mầm non biết tiết kiệm năng lượng, đặc biệt là năng lượng điện, nước sẽ góp
phần quan trọng trong chiến lược đào tạo con người, tạo ra một lớp người có sự
hiểu biết đầy đủ về vấn đề thực hành tiết kiệm. Thực hiện tiết kiệm năng lượng
điện, nước sẽ góp phần làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội, cải thiện tình
trạng lãng phí nguồn năng lượng như hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến ngành giáo dục, từ
những lời dạy của Bác về giáo dục tiết kiệm và hiện nay trong công cuộc đổi mới
giáo dục, chúng ta không thể không quan tâm đến vấn đề giáo dục tiết kiệm năng
lượng cho học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là lứa tuổi mầm non. Vì ở
lứa tuổi này các cháu rất dễ tiếp cận, học hỏi những điều hay lẽ phải, ý thức tiết
1
kiệm năng lượng cũng vì thế phải được chú trọng ngay từ lứa tuổi này, nhằm giúp
trẻ có những hiểu biết ban đầu về năng lượng và tiết kiệm năng lượng.
Đối với các trường mầm non nói chung và trường mầm non Phùng Giáo
nói riêng, việc đầu tư, mua sắm các trang thiết bị điện, nước hiện đại để phục vụ
cho công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ là việc rất cần thiết và việc sử
dụng điện, nước đối với các thiết bị đó trong một ngày ở trường là rất lớn, kéo
theo chi phí cho tiền điện, tiền nước hàng tháng ở trường mầm non Phùng Giáo là
rất cao vì trong quá trình sử dụng chưa có những biện pháp phù hợp để tiết kiệm
điện, nước.
Là Hiệu trưởng quản lý tất cả các mặt hoạt động trong nhà trường, tôi xét
thấy mình cần phải có trách nhiệm cao trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện
cho giáo viên và học sinh tiết kiệm điện, nước, góp phần thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí cho nhà trường. Việc thực hiện sử dụng điện, nước tiết kiệm và
hợp lý và sẽ góp phần đảm bảo nhu cầu sử dụng trước mắt và giữ gìn nguồn năng
lượng cho tương lai, đồng thời giảm được chi phí đáng kể cho nhà trường. Chính
vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp chỉ đạo thực hiện việc sử dụng tiết
kiệm năng lượng điện, nước ở trường mầm non Phùng Giáo” làm đề tài nghiên
cứu và ứng dụng vào thực hiện trong năm học tại nhà trường.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng sử dụng điện, nước phục
vụ cho công tác chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non Phùng Giáo để lựa
chọn, đề xuất, áp dụng một số biện pháp có tính khả thi cao, nhằm nâng cao việc
sử dụng điện, nước tiết kiệm và hiệu quả tại trường mầm non Phùng Giáo.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu tổng quát những vấn đề liên quan đến tiêu thụ điện, nước và
thiết bị sử dụng tiết kiệm điện, nước trong trường mầm non Phùng Giáo để tìm
ra những biện pháp chỉ đạo và thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tiết
kiệm năng lượng điện, nước tại trường mầm non Phùng Giáo.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa các
tài liệu và văn bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập số liệu thực tiễn kết hợp với lý
thuyết về nhu cầu và thiết bị tiêu thụ điện, nước ở trường; tổn thất, lãng phí điện,
nước và giải pháp giảm tổn thất điện, nước để phân tích, tổng hợp, lựa chọn, so
sánh và đề xuất biện pháp giải quyết vấn đề đặt ra
* Phương pháp toán học để xử lý số liệu nghiên cứu (Bảng biểu)
- Tổng hợp, phân tích tài liệu để nhận xét, đánh giá, đề xuất biện pháp;
tính toán xác định hiệu quả áp dụng các biện pháp đề xuất.
2
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí là những phẩm chất cơ bản
trong hệ thống quan điểm đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh - Người là tấm
gương sáng, mẫu mực trong thực hành những chuẩn mực đạo đức đó. Nhận
thức đầy đủ, sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham
ô, lãng phí. Đặc biệt làm theo tấm gương đạo đức của Bác là nội dung quan
trọng thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” [1]; Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) đã ra Chỉ thị
số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống
lãng phí [2].
Tiết kiệm năng lượng là thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Chính vì vậy
tháng 11/2009, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XII đã thảo luận “Luật Sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả” và đến 17/6/2010 Quốc Hội ban hành “Luật
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả” [3]. Khi Luật được ban hành và đi
vào cuộc sống thì ý thức và trách nhiệm về tiết kiệm năng lượng được điều
chỉnh mạnh mẽ hơn, hạn chế tối đa tình trạng lãng phí năng lượng, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời
góp phần vào sự nghiệp bảo vệ môi trường toàn nhân loại.
Làm công tác quản lý trường học, tôi nhận thức được trách nhiệm của nhà
trường trong việc giúp giáo viên và học sinh hiểu được cách tiết kiệm năng
lượng là rất cần thiết, bên cạnh sự hỗ trợ từ phía các cơ quan có thẩm quyền,
mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên cũng đã chủ động sáng tạo tìm kiếm thông tin
cũng như những phương pháp giúp con trẻ tiếp cận dễ dàng hơn với khái niệm
cũng như những biện pháp sử dụng tiết kiệm năng lượng điện, nước.
Đây là trách nhiệm cao cả mà toàn xã hội, đặc biệt là các nhà trường phải
thực hiện tốt, coi đây là một việc làm thường xuyên không chỉ hôm nay, ngày
mai mà cho cả thế hệ mai sau.
2. Thực trạng của việc sử dụng tiết kiệm năng lượng điện, nước trước
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thuận lợi.
- Trường Mầm non Phùng Giáo là một trường công lập, có diện tích rộng
rãi thoáng mát. Trường có truyền thống về phát triển giáo dục, có bề dày thành
tích trong suốt chặng đường phát triển. Chi bộ Đảng, Ban giám hiệu, công đoàn,
đoàn thanh niên đã nỗ lực phấn đấu hết mình trong mọi hoạt động của nhà
trường. Với bề dày kinh nghiệm trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ, nhà
trường đã nhiều năm đạt trường tiên tiến cấp huyện và đạt nhiều giải cao trong
3
các hoạt động của cô và trò, trường liên tục nằm trong tốp 10/24 trường mầm
non của huyện.
- Trường luôn được sự chỉ đạo sâu sát của phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện Ngọc Lặc và sự quan tâm của Đảng ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban
nhân dân xã, các ban ngành đoàn thể, các thôn.
- Nhân dân địa phương và trực tiếp là các bậc phụ huynh học sinh trên địa
bàn đã có sự quan tâm đến ngành học. Thể hiện rõ ở công tác huy động trẻ ra
lớp đạt tỷ lệ cao từ đầu năm học.
- Đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên được đào tạo chuẩn và trên chuẩn,
nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, yêu mến trẻ. Có khả năng tiếp cận kiến
thức nội dung mới vào hoạt động nuôi, dạy hàng ngày.
2.2. Khó khăn.
- Cơ sở vật chất của nhà trường xây dựng từ năm 2004 - 2005 nên một
số phòng học đã xuống cấp, hệ thống cửa kính đã hoen ố, nếu thời tiết mưa,
gió, rét phải đóng cửa thì trong phòng rất tối, phải sử dụng tất cả các bóng
điện. Hệ thống ống khói của bếp khó thoát khói, hãm đen toàn bộ khu bếp nên
cũng rất tối. Vì vậy bếp luôn phải bật điện trong quá trình nấu ăn cho các
cháu.
- Hệ thống đường điện, quạt khi xây dựng lắp không khoa học nên bị hư
hỏng nhiều, quạt trần thì có 1 số duy nhất khi bật là chạy số mạnh nhất, hoặc có
1 công tắc duy nhất cho cả phòng (2 quạt trần) nên khi sử dụng rất lãng phí điện,
hệ thống đường dẫn nước tới các nhóm lớp và nhà vệ sinh có một số vị trí bị rò
rỉ. Bể nước cũ có hiện tượng bị thấm ở đáy bể nên không đủ nước dùng trong
mùa khô.
- Nhà trường chưa xây dựng được kế hoạch cụ thể trong công tác tham
mưu, phối hợp với các ban ngành đoàn thể và chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt vấn
đề tiết kiệm điện, nước.Việc xây dựng các quy chế, quy định đối với giáo viên
trong việc tiết kiệm năng lượng điện, nước còn hạn chế, chưa giải quyết triệt để
trong việc lãng phí điện, nước. Công tác hướng dẫn, chỉ đạo giáo viên đã có
nhưng còn chung chung, chưa quyết liệt và chưa cụ thể.
- Nhiều cán bộ giáo viên chưa có ý thức bảo vệ tài sản chung của nhà
trường nói chung cũng như ý thức tiết kiệm điện, nước, chưa chú trọng đến rèn
kỹ năng và thói quen sử dụng tiết kiệm năng lượng cho trẻ.
- Đối tượng học sinh chủ yếu là con em người dân tộc thiểu số, trình độ
dân trí hạn chế và không đồng đều, nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến việc
chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và giáo dục cho trẻ ý thức tiết kiệm năng
lượng nói riêng. Vì vậy, trẻ chưa ý thức được hành động đúng, sai khi sử dụng
một số thiết bị điện và cách sử dụng điện, nước an toàn, chưa quan tâm, chưa
có ý thức tiết kiệm năng lượng, chưa hiểu được hành vi tiết kiệm năng lượng là
gì và làm những gì để tiết kiệm năng lượng nói chung và tiết kiệm điện, nước
nói riêng.
2.3. Kết quả của thực trạng.
4
Từ những thực trạng trên, đầu năm học tôi xây dựng kế hoạch và tiến
hành khảo sát: Kiến thức về tiết kiệm điện, nước của cán bộ, giáo viên, nhân
viên và học sinh trong trường. Kết quả cụ thể đầu năm học như sau:
T
T
1
2
3
4
Khảo sát đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên đầu năm học
Số
Kết quả khảo sát đầu năm học
CBGV
Nội dung
Tốt
Khá
TB
Yếu
được
khảo sát
khảo SL Tỷ SL Tỷ SL Tỷ SL Tỷ
lệ
lệ
lệ
lệ
sát
Nắm vững kiến thức về
năng lượng và tiết
kiệm năng lượng
Có ý thức tiết kiệm
điện, nước ở mọi lúc,
mọi nơi
Biết lựa chọn nội dung,
hình thức, thời điểm để
GD trẻ tiết kiệm năng
lượng
Biết tham mưu, phối
hợp, tuyên truyền với
phụ huynh GD trẻ tiết
kiệm điện, nước.
22
4
18
5
23
10
45
3
14
22
5
23
6
27
8
36
3
14
22
4
18
4
18
11
50
3
14
22
3
14
6
27
11
50
2
9
Bảng khảo sát trên trẻ đầu năm học:
T
T
Nội dung khảo sát
Trẻ có thói quen tiết kiệm điện,
nước trong sinh hoạt
Trẻ tích cực tham gia vào các hoạt
2 động mang ND về tiết kiệm năng
lượng điện, nước.
Biết chia sẻ và hợp tác với bạn bè và
3 những người xung quanh để tiết kiệm
năng lượng điện, nước.
4 Có phản ứng với các hành vi không
1
Kết quả khảo sát
Tổng
số
trẻ
khảo
sát
Số trẻ
Tỉ lệ
%
Số trẻ
Tỉ lệ %
235
148
63
87
37
235
150
64
85
36
235
146
62
89
38
235
150
64
85
36
Đạt
Chưa đạt
5
tiết kiệm năng lượng điện, nước.
3. Một số giải pháp chỉ đạo thực hiện việc sử dụng tiết kiệm năng
lượng điện, nước.
Từ thực trạng trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ, phải tìm ra các giải pháp để
toàn thể giáo viên, nhân viên và trẻ trong trường có ý thức thực hiện tiết kiệm
điện, nước hiệu quả và an toàn, góp phần tiết kiệm chi phí trong trường, đồng
thời tiết kiệm được nguồn năng lượng quý giá cho quốc gia.
Để thực hiện các hoạt động đó một cách khoa học và có hiệu quả thì ngay từ
đầu năm học tôi đưa ra các giải pháp thực hiện trong năm học 2018 - 2019 đó là:
3.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện.
Tôi đã chủ động xây dựng kế hoạch xuyên suốt cả năm học, định hướng
rõ ràng nhiệm vụ của các bộ phận trong và ngoài nhà trường. Cụ thể như sau:
* Đối với Ban Giám hiệu:
- Tháng 7/2018: Xây dựng kế hoạch tiếp tục thực hiện chuyên đề tiết kiệm
năng lượng nói chung và năng lượng điện, nước nói riêng. Làm tốt công tác
tham mưu cho UBND xã để đầu tư xây dựng, tu sửa CSVC, trang thiết bị. Thực
hiện kế hoạch chuyên đề, tổ chức cho CBGV thảo luận, chia sẻ, trao đổi, rút
kinh nghiệm lẫn nhau.
- Tháng 8/2018: Triển khai đến đội ngũ CBGV trong trường kế hoạch thực
hiện chuyên đề trong buổi họp Hội đồng sư phạm, đưa ra nội dung cụ thể cho từng
bộ phận.
Tổ chức hội nghị Ban đại diện Hội phụ huynh toàn trường và các nhóm
lớp để bàn bạc, thống nhất hỗ trợ kinh phí mua sắm, sửa chữa trang thiết bị điện,
nước đã xuống cấp và hư hỏng, thay mới các cánh cửa chính và cửa phụ không
đảm bảo và ánh sáng.
- Tháng 9/2018: Chỉ đạo các nhóm, lớp tổ chức thảo luận “Ngày hội tiết
kiệm điện, nước” với thành phần tham gia là Ban giám hiệu, Giáo viên, nhân
viên, Phụ huynh trong toàn trường.
- Kiểm tra việc thực hành tiết kiệm năng lượng điện, nước của đội ngũ
CBGV, NV xuyên suốt các tháng trong năm, kết hợp các buổi dự giờ, thăm nhóm
lớp và thực tế hoạt động của từng bộ phận.
* Đối với Giáo viên:
- Tháng 9/2018: Tổ chức thảo luận qua đĩa hình “Hoạt động với nước” ,
“Tiết kiệm điện, nước”.
- Thực hiện lồng ghép vào các hoạt động trong ngày cũng như phối kết
hợp với phụ huynh giáo dục trẻ ý thức tiết kiệm điện, nước trong năm học.
* Đối với Phụ huynh:
Tháng 9/2018, Tháng 12/2018, tháng 4/2019 Tổ chức hội nghị cha mẹ
học sinh để triển khai, sơ kết, tổng kết cùng phụ huynh năm học 2018 - 2019,
6
thảo luận và thống nhất những nội dung kết hợp cùng nhà trường thực hiện
chuyên đề xuyên suốt cả năm học như sau:
+ Phụ huynh thường xuyên nhắc nhở trẻ sử dụng nước tiết kiệm trong
sinh hoạt hàng ngày tại nhà như: Không tắm quá lâu, không nghịch nước, không
mở vòi nước quá to khi rửa tay, chỉ rót nước vừa đủ uống, không để thừa lãng
phí nước…
+ Phụ huynh làm gương cho trẻ qua các hoạt động như: Sử dụng lại nước
rửa rau, rửa chén, giặt quần áo…để cọ rửa nhà tắm, bồn cầu, tưới cây… Kịp thời
sửa chữa những vòi nước hỏng.
+ Vận động phụ huynh sưu tầm và sáng tác các câu chuyện, bài thơ, hình
ảnh, bài vè, bài hát có nội dung “Tiết kiệm điện, nước”.
+ Phụ huynh chụp ảnh hành vi đúng của trẻ mang vào lớp để giáo viên
khen ngợi và nêu gương cho các bạn.
Tóm lại, việc xây dựng kế hoạch thực hiện là yếu tố quan trọng và chiến
lược trong việc chỉ đạo và thực hiện việc tiết kiệm năng lượng điện, nước trong
nhà trường, giúp cho người cán bộ quản lý định hướng được quá trình chỉ đạo và
thực hiện, kế hoạch đã chỉ ra cụ thể những biện pháp để giáo viên thực hiện. Sau
khi áp dụng biện pháp này tôi nhận thấy đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc
tiết kiệm năng lượng điện, nước trong trường mầm non Phùng Giáo
3.2. Công tác tham mưu với địa phương và phối kết hợp với phụ huynh
để xây dựng tu sửa cơ sở vật chất, thiết bị điện, nước cho nhà trường.
a. Tham mưu với chính quyền địa phương:
- Để thực hiện được biện pháp trên, bản thân đã trực tiếp tham mưu cho
lãnh đạo địa phương tiến hành khảo sát nắm tình hình cơ sở vật chất, trang thiết
bị của nhà trường nói chung và cơ sở vật chất - thiết bị điện, nước nói riêng.
Trong quá trình khảo sát, kiểm tra tình hình thực tế tôi đã có ý kiến đề xuất các
hạng mục, các vị trí, các thiết bị đã hư hỏng, không hợp lý, một cách có hệ
thống để chính quyền địa phương, phụ huynh hiểu và chia sẻ cùng với nhà
trường.
Ví dụ: Khi khảo sát tại bếp ăn, tôi giải trình: Hệ thống ống khói bếp khó
thoát khói nên hãm đen toàn bộ khu bếp rất tối phải liên tục thắp điện chiếu
sáng. Bên cạnh đó khói bụi dễ rơi hoặc ám vào thức ăn của cháu mất vệ sinh,
đặc biệt là không đảm bảo an toàn thực phẩm.
Hoặc hệ thống đường dẫn nước tới các nhóm, lớp và nhà vệ sinh có một
số vị trí bị rò rỉ. Bể nước mưa khối lượng chỉ đựng được 15m 3 nhưng cũng có
hiện tượng bị dột đáy bể nên không đủ nước nấu trong mùa khô. Vì vậy cần phải
sửa lại bể và xây thêm bể nước mưa giúp nhà trường tiết kiệm được nước và tiền
điện bơm nước. Đường điện lâu năm kém chất lượng, ở các thời gian cao điểm
trong ngày thường bị cháy chì, mất điện gây cản trở tất cả các hoạt động của nhà
trường. Một số cửa kính đã vỡ, hoặc hoen ố nên vừa mất an toàn vừa không tận
dụng được ánh sáng tự nhiên cho các cháu khi học tập, vui chơi…
Sau khi nắm rõ thực trạng, bản thân tôi tham mưu với hiệu trưởng nhà
trường, lập tờ trình đề nghị Ủy ban nhân dân xã xây dựng, tu sửa, thay thế các
thiết bị điện, nước, các cánh cửa đã bị hư hỏng mục nát, quét lại vôi ve các
7
phòng học. Đi kèm cùng với tờ trình là dự toán tất cả các hạng mục, các thiết bị
cần thay thế để đảm bảo cho các cháu bước vào năm học mới được an toàn. Ban
khảo sát thiết kế của xã cũng thấy được những vị trí, những thiết bị nhà trường đưa
ra, đề nghị là hoàn toàn hợp lý và đã họp báo cáo Đảng ủy - Ủy ban nhân dân xã
tiến hành xây dựng, tu sửa cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nhà trường.
* Kết quả: Ủy ban nhân dân xã đã tổ chức thực hiện xây dựng mới cho
nhà trường công trình quét lại vôi ve 1.800m2 tường, thay thế 21 bộ cửa chính và
cửa sổ với tổng là 42,75m2 , sửa lại đáy bể nước mưa cũ bằng cách đổ bê tông
dày 35cm và ốp bằng gạch ốp lát chống thấm toàn bộ hệ thống bể ở khu Làng
Chuối. Thay thế tất cả các đường ống dẫn nước bị thấm, dò rỉ dẫn nước đến tất
cả các nhóm, lớp để tránh lãng phí nước.
Thay toàn bộ 300m đường dây điện loại Cáp 2x10 li chịu lực lớn từ cột
tổng đến tất cả các bảng điện. Lắp đặt 16 quạt tường, quạt cây cá nhân để sử
dựng thay quạt trần ở các phòng học ở cả khu chính và khu lẻ, phòng làm việc
của Ban giám hiệu. Cải tạo, tu sửa bếp nấu chống khói, nạo hết lớp hồ bám bụi
đen, trát lại toàn bộ khu tường bếp sáng hơn, tạo ánh sáng cho khu bếp, thay
các ô cửa kính cũ kĩ, hoen ố để tận dụng ánh sáng tự nhiên giúp tiết kiệm điện.
Tổng kinh phí đầu tư là 79.000.000 triệu đồng.
b. Phối kết hợp với phụ huynh hỗ trợ sửa chữa, thay thế các thiết bị
điện, nước:
Tiếp tục phát huy và thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục với phương
châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.
Trước khi vào năm học, tôi lên kế hoạch và phối hợp với Ban đại diện hội cha
mẹ học sinh khảo sát các thiết bị điện, nước, báo cáo cụ thể các khoản thu - Chi
ngoài ngân sách theo đúng như công văn hướng dẫn các khoản thu - chi ngoài
ngân sách của Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, trong đó có khoản thu tu sửa các
thiết bị điện, nước.
Bản thân đã cùng bàn bạc với Ban giám hiệu đi đến thống nhất về các
khoản thu, chi ngoài ngân sách, lập tờ trình và kế hoạch đã được Ủy ban nhân
dân xã có ý kiến chỉ đạo, vận động nhân dân, phụ huynh cùng góp công, góp của
và cùng chính quyền địa phương chăm lo xây dựng cơ sở vật chất nói chung và
các thiết bị điện, nước nói riêng, để giúp nhà trường thực hiện tốt việc tiết kiệm
điện, nước và đặc biệt là đảm bảo an toàn cho trẻ khi đến trường.
Được sự thống nhất của Ủy ban nhân dân xã, nhà trường đã đưa nội dung
này trong Hội nghị phụ huynh đầu năm học và đã được 100% phụ huynh họp nhất
trí cao trong việc phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường xây dựng biện pháp kỹ
thuật tiết kiệm điện, nước cho nhà trường. Ban đại diện hội cha mẹ học sinh đã vận
động một số phụ huynh nam (trong đó có một số là rể của nhà trường) biết nghề
điện hỗ trợ các ngày công đến trực tiếp tu sửa, thay thế các thiết bị điện, nước đã bị
hư hỏng.
Ví dụ: Đối với các thiết bị điện: Các bóng điện của nhà trường lắp từ năm
2005 nên là hệ bóng Neon thế hệ 40W chấn lưu bằng sắt ở các phòng học, phụ
huynh đã thay bằng bóng điện Neon thế hệ 36W chấn lưu điện tử. Ở các phòng
cá nhân thay bằng bóng điện ống huỳnh quang để tiết kiệm điện.
8
Quạt trần ở các phòng lắp lâu năm, tụ quạt đã kém nên quạt chạy ở số to
nhưng vẫn không mát. Phụ huynh đã đầu tư thay tất cả cả tụ quạt trần, vì vậy
nên quạt chạy số nhỏ vẫn mát hơn chạy ở số to khi chưa thay tụ.
Đối với các thiết bị nước: Thay một số vòi rửa khóa nhựa loại 27 bằng
khóa nước sắt vặn, để khi sử dụng nước chảy với lượng vừa phải không quá to
giúp tiết kiệm nguồn nước.
* Kết quả: Phụ huynh đã đóng góp ngày công cũng như hỗ trợ kinh phí
mua sắm đồ dùng bán trú, đồ chơi trong đó có cả phần đầu tư tu sửa, thay thế
các thiết bị điện, nước trong năm học.
Nhìn chung công tác tham mưu với địa phương và phối kết hợp với phụ
huynh để xây dựng tu sửa cơ sở vật chất, thiết bị điện, nước cho nhà trường đã
mang lại hiệu quả cao, giúp cho nhà trường hoàn thiện hơn về cơ sở vật chất,
nhất là các thiết bị tiết kiệm điện, nước đã được sử dụng thay thế cho các thiết bị
đã cũ và hư hỏng, đáp ứng nhu cầu cơ bản cho công tác chăm sóc - giáo dục trẻ
ở trường mầm non.
3.3. Khảo sát và tham mưu xây dựng các nội qui, quy định về sử dụng
năng lượng điện, nước trong nhà trường và chỉ đạo cán bộ, giáo viên, nhân
viên thực hiện tiết kiệm điện, nước .
Căn cứ vào chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ về tiết kiệm
năng lượng, các quyết định, văn bản hướng dẫn của Bộ giáo dục và Đào tạo, Sở,
Phòng giáo dục và Đào tạo về tiết kiệm năng lượng hiệu quả, tôi đã bàn bạc
thống nhất trong Ban giám hiệu nhà trường xây dựng các nội qui, quy định về
tiết kiệm năng lượng trong nhà trường và tổ chức thực hiện, cụ thể:
a. Tổ chức khảo sát nắm tình hình sử dụng năng lượng điện, nước toàn
trường:
Để làm căn cứ xây dựng các giải pháp hành chính tiết kiệm điện, nước, trước
khi bước vào năm học mới, Ban giám hiệu đã tìm hiểu cũng như theo dõi, kiểm tra
tình hình sử dụng các thiết bị điện, nước trong toàn trường. Kết quả cho thấy tình
hình sử dụng năng lượng điện, nước của một số bộ phận chưa hợp lý như:
* Đối với các thiết bị điện:
- Giáo viên các nhóm, lớp có thói quen cứ đến lớp là bật hết quạt, bóng điện
để thông thoáng phòng mặc dù lúc đó mới 6h45 phút - thời tiết còn rất mát mẻ.
- Văn phòng nhà trường nhân viên khi làm xong việc khi đứng lên quên
không tắt quạt, tắt bóng điện, tắt máy tính.
- Một số bóng điện bị bụi bám nên ánh sang bị hạn chế.
- Bảo vệ trường nhiều khi quên không tắt điện thắp sáng ban đêm.
* Đối với các thiết bị nước:
- Chậu rửa tay trong nhà vệ sinh nhiều cháu vặn nước quá to để rửa tay
hoặc khi rửa xong không tắt vòi.
- Một số đường ống dẫn nước bị vỡ và rò rỉ ở các đầu nối dẫn đến thất
thoát nước.
- Nhân viên, giáo viên khi bể hết nước, bật máy bơm và làm việc khác bể
nước đầy không nhớ để tắt máy dẫn đến nước chảy tràn ra ngoài lãng phí.
b. Xây dựng các qui định hành chính tiết kiệm điện, nước:
9
Từ thực tế việc sử dụng năng lượng điện, nước của một số cán bộ giáo viên,
nhân viên chưa hợp lý như trên. Tôi đã cùng các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà
trường xây dựng một số qui định hành chính riêng của nhà trường nhằm tiết kiệm
tối đa nguồn năng lượng điện, nước cho nhà trường như sau:
* Qui định chế độ và thời gian sử dụng các thiết bị điện, nước trong nhà
trường đó là:
+ Đối với các nhóm lớp: Khi đến trước 30 phút để thông thoáng phòng,
nhóm phải mở hoàn toàn các cánh cửa để lấy ánh sáng và không khí tự nhiên,
trong lành của buổi sáng, tuyệt đối không bật quạt để thông thoáng phòng nhóm.
Mùa hè: Buổi sáng từ 6 giờ 45 phút đến 7 giờ 30 phút, thời tiết lúc này đang
mát nên các nhóm lớp không cần thiết phải bật quạt, để nguồn điện mạnh cho tổ nuôi
dưỡng cắm cơm, bơm nước. Với các ngày thời tiết không có mưa, phải liên tục mở
các cánh cửa tận dụng hoàn toàn bằng ánh sáng tự nhiên, không bật điện sáng.
Mùa đông: Với những ngày thời tiết xấu hoặc quá rét, chỉ được bật điện
vào thời điểm từ 7 đến 9 giờ và từ 16 - 16 giờ 30 phút. Còn lại tùy thời tiết đẹp
sáng trời thì kéo gọn rèm che các cửa sổ để tận dụng ánh sánh tự nhiên.
- Các thiết bị loa, đầu đĩa, ti vi...chỉ được bật khi đang tổ chức các hoạt
động cho trẻ, trong giờ đón hoặc trả trẻ, tuyệt đối không mở phim hoạt hình cho
trẻ xem.
- Tận dụng bếp nấu để đun nước bằng bếp lò và ủ ấm nước để rửa cho trẻ vào
mùa đông khi cần thiết, không được cắm ấm sục âm ỉ làm lãng phí điện.
Trẻ em rất thích nghịch nước, vì vậy khi cháu đi vệ sinh hoặc rửa tay, giáo viên
phải có trách nhiệm đưa cháu đi và hướng dẫn cháu vặn vòi chảy vừa phải để
rửa tay. Phải tắt vòi nước sau khi rửa xong. Trách tình trạng cháu vặn vòi quá to
hoặc rửa tay xong nhưng vẫn đứng lại để vòi chảy và nghịch nước.
- Dán những lưu ý thân thiện trong mỗi phòng học để nhắc học sinh và
giáo viên tắt đèn và các thiết bị điện khi không sử dụng.
- Đối với bảo vệ: Thực hiện nghiêm túc lịch bật tắt điện bảo vệ. Đèn hành
lang, đèn bảo vệ phải theo qui định bật tắt theo mùa: Mùa hè bật vào 19 giờ, tắt
vào 5 giờ sáng. Mùa Đông bật vào 18 giờ 30 phút, tắt vào 6 giờ sáng.
- Đối với tổ nuôi dưỡng:
Phải dùng hoàn toàn nước bơm lên bể để rửa. Tuyệt đối không rửa đồ dùng,
dụng cụ bơm xả trực tiếp nước để rửa tránh lãng phí nước. Khi bơm nước lên bể cần
lắp hệ thống báo nước đầy để rút máy bơm không để tình trạng nước đầy quá chảy
tràn ra ngoài; tủ lạnh bỏ ít đồ chỉ cần bật số nhỏ, máy xay thịt khi xay xong phải tắt
ngay tránh để máy chạy không…Trước khi bắt tay vào rửa bát nhân viên nuôi dưỡng
đã thực hiện gạn bỏ thức ăn thừa xong mở rửa. Khi rửa bát, dụng cụ chế biến…
Không để nước tràn ra ngoài nhiều hoặc cấp dưỡng khi rửa rau đã sử dụng lại nước
đó để cọ sàn. Sau khi vo gạo, rửa rau xong lấy nước đó để tưới cây, tưới rau vừa tiết
kiệm được điện, nước vừa giúp tạo mội trường Xanh – Sạch – Đẹp, tạo không khí
trong lành.
10
Cô và trẻ tận dụng nước vo gạo hàng ngày để tưới cho cây
- Đối với các bộ phận khác:
- Ban giám hiệu, nhân viên văn phòng thực hiện tiết kiệm điện, chỉ dùng
quạt treo tường khi có một mình trong phòng làm việc. Không bật bóng điện
trong phòng mà kéo gọn rèm che cửa sổ để tận dụng ánh sáng tự nhiên. Các trang
thiết bị điện trong các phòng làm việc như quạt, máy tính, đàn... đều phải tắt khi
ra khỏi phòng. Vào mùa hè nóng bức khi chỉ có một đến hai người làm việc
không được bật quạt trần mà chỉ được sử dụng quạt treo tường hoặc quạt cá nhân.
Đặt máy tính ở chế độ “hibernate” hoặc “sleep” khi không sử dụng. Không nên để
chế độ bảo vệ màn hình, vì chương trình này sẽ tiêu thụ điện nhiều hơn là tiết
kiệm điện. Rút phích cắm các thiết bị ra khỏi ổ khi không sử dụng.
- Nhà trường thực hiện bảo dưỡng đều đặn như: Thay thế, lau chùi các
bóng đèn theo lịch cố định để tránh bụi tích tụ và đảm bảo ánh sáng chiếu ra là
sáng nhất.
* Chế độ kiểm tra, theo dõi:
- Thường xuyên kiểm tra việc sử dụng các thiết bị điện, nước theo qui
định của nhà trường và có thông báo trên bảng của trường hàng tuần về những
hành vi tốt hoặc không tốt về tiết kiệm điện, nước.
- Tổ chức định kỳ kiểm tra một tháng một lần hoặc kiểm tra đột xuất toàn
trường để nhắc nhở, uốn nắn, điều chỉnh lên kế hoạch cho việc sử dụng điện,
nước hợp lý của các nhóm lớp, các bộ phận.
* Chế độ thưởng, phạt và động viên thi đua:
- Trong các buổi họp chuyên môn và hội đồng nhà trường, thường xuyên
nêu gương việc làm tốt trong việc tiết kiệm điện, nước. Bên cạnh đó, phê bình
những cá nhân, bộ phận chưa thực hiện tốt các nội qui, quy định mà nhà trường
đã triển khai, quán triệt trong việc tiết kiệm điện nước.
- Những việc làm về tiết kiệm điện, nước có hiệu quả trong trường đều đã
được nhà trường khen thưởng kịp thời và áp dụng.
11
- Việc thưởng phạt về tiết kiệm điện, nước có hiệu quả trong trường được dựa
vào việc chấp hành các chế độ sử dụng, các thiết bị quy định và mức tiêu thụ điện,
nước được giao của từng cá nhân, từng bộ phận.
- Quy định về thực hiện tiết kiệm năng lượng điện nước đã được đưa vào
trong tiêu chí đánh giá xếp loại thi đua của cá nhân, của nhóm lớp, các bộ phận
hàng tháng và cả năm học và đã đem lại hiệu quả thiết thực cho nhà trường.
Kết quả: Nhà trường làm tốt công tác xây dựng các nội qui, quy định về
sử dụng năng lượng điện, nước trong nhà trường, đã triển khai nội quy trước
cuộc họp hội đồng trường để toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên được thảo
luận. 100% cán bộ, giáo viên đã thống nhất và đưa vào thực hiện tốt trong năm
học không có bộ phận nào vi phạm nội quy.
100% cán bộ, giáo viên, nhân viên đã tự giác và nêu cao tình thần trách
nhiệm của mình làm gương về thực hiện tốt các qui định về thực hiện tiết kiệm
điện, nước cho trẻ noi theo.
Từ khi xây dựng nội quy, quy định trên giáo viên đã có ý thức hơn trọng
việc sử dụng năng lượng điện, nước tiết kiệm, bằng chứng là mức sử dụng điện,
nước ở nhà trường giảm xuống đáng kể so với trước.
3.4. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn, chỉ đạo giáo viên giáo dục trẻ tiết
kiệm điện, nước và xây dựng môi trường giáo dục tiết kiệm năng lượng điện,
nước trong và ngoài lớp.
a. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn và chỉ đạo giáo viên giáo dục trẻ tiết
kiệm điện, nước .
Để cán bộ giáo viên, nhân viên trong trường nắm vững kiến thức về năng
lượng và tiết kiệm năng lượng cũng như biết lồng ghép tích hợp vào các hoạt
động trong ngày để giáo dục trẻ biết tiết kiệm năng lượng. Trước khi bước vào
năm học, cùng với tổ chức bồi dưỡng các chuyên đề mới, tôi đã chủ động tổ
chức tập huấn nội dung tiết kiệm năng lượng hiệu quả trong trường mầm non, từ
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và cách lựa chọn nội dung, trò chơi,
thời điểm để tổ chức đạt hiệu quả cao.
12
(Tổ chức tập huấn cho giáo viên, nhân viên nội dung tiết kiệm điện, nước)
b. Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường trong lớp và ngoài lớp.
* Xây dựng môi trường trong lớp.
- Giáo viên tạo ra môi trường sử dụng năng lượng tiết kiệm năng lượng
như: Khi cô cùng trẻ ra khỏi phòng là tắt điện, tắt quạt và giải thích với trẻ tắt
điện và quạt khi ra khỏi phòng giúp tiết kiệm điện, hoặc mở hết các cánh cửa để
tận dụng ánh sáng mặt trời giúp tiết kiệm điện. Khi thấy vòi nước chảy thì phải
kịp thời khóa lại, hoặc lấy nước vừa đủ uống giúp tiết kiệm nước...
- Giáo viên tìm các hình ảnh phù hợp bên dưới có các lời nhắc “Chỉ mở
khi dùng, không dùng tắt ngay” dán vào các đồ dùng sử dụng điện trong lớp. Cô
giải thích cho trẻ hiểu về hình ảnh và lời nhắc dạy trẻ học thuộc lời nhắc đó và
khi cô thực hiện tắt mở thiết bị thì đồng thời mời trẻ cùng đọc lời nhắc với cô.
- Tại các góc chơi, giáo viên luôn chuẩn bị tranh ảnh có hình ảnh về hành
vi đúng sai của tiết kiệm năng lượng hiệu quả. Từ đó trẻ được thực hành trải
nghiệm theo sự hiểu biết của trẻ.
* Xây dựng môi trường ngoài lớp.
- Mỗi nhóm lớp xây dựng góc tuyên truyền phụ huynh để phụ huynh hiểu
và tham gia đóng góp xây dựng, mua sắm thiết bị và phối hợp với giáo viên giáo
dục trẻ ý thức sử dụng năng lượng điện, nước tiết kiệm hiệu quả.
13
- Ở bên các công tắc, hệ thống điện nước dọc hành lang, nhà vệ sinh …có
ghi các khẩu hiệu hay lời nhắc nhở trẻ “hãy tắt điện - nước khi sử dụng xong, xả
nước vừa phải khi đi vệ sinh và rửa tay”.
- Vườn thiên nhiên của Bé, vườn rau của Bé nhà trường phân công cho
mỗi nhóm lớp một khu vực để trồng và chăm sóc, từ đó trẻ được khám phá, thực
hành trải nghiệm như dùng nước rửa mặt, rửa tay chân, rửa rau để tưới cho cây.
Thực hiện tốt biện pháp này tôi nhận thấy việc tổ chức bồi dưỡng, tập
huấn, chỉ đạo giáo viên giáo dục trẻ tiết kiệm điện, nước và xây dựng môi
trường giáo dục tiết kiệm năng lượng điện, nước trong và ngoài lớp là việc làm
thiết thực, trang bị cho giáo viên có thêm nhiều kiến thức trong việc thực hiện và
giáo dục trẻ tiết kiệm năng lượng, đồng thời xây dựng được môi trường sư phạm
hợp lý nhằm giúp trẻ hình thành và phát triển những kỹ năng cơ bản trong việc
sử dụng năng lượng tiết kiệm.
3.5. Hướng dẫn giáo viên thực hiện lồng ghép giáo dục trẻ tiết kiệm
năng lượng thông qua các hoạt động trong ngày.
Đây là biện pháp vô cùng quan trọng vì giáo viên có hiểu được thông điệp
cốt lõi của việc tiết kiệm điện, nước, hiểu được mục tiêu, nội dung và biện pháp
tiết kiệm năng lượng ở trường mầm non và nhận thấy được sự cần thiết phải
giáo dục cho trẻ biết tiết kiệm năng lượng thì mới có thể giúp trẻ nhận biết được
lợi ích và tầm quan trọng của việc tiết kiệm năng lượng điện, nước.
Tôi hướng dẫn và chỉ đạo giáo viên lồng ghép nội dung giáo dục tiết kiệm
năng lượng trong các hoạt động sau:
* Trong giờ đón, trả trẻ:
- Trò chuyện và gợi ý để trẻ kể về những vật dụng ở lớp thường sử dụng
điện. Trao đổi, thảo luận với để trẻ biết được những thiết bị tiết kiệm điện nước
như bóng điện Compac, vòi nước vặn…
- Xem tranh phân biệt hành vi đúng, sai trong sử dụng năng lượng điện, nước.
- Giáo viên còn sưu tầm, sáng tác những mẩu chuyện, những bài vè,
những trò chơi có nội dung tiết kiệm điện, nước để dạy trẻ trong giờ đón, trả trẻ
cũng như ở mọi lúc mọi nơi, giúp khắc sâu thêm về nội dung tiết kiệm điện,
nước hằng ngày của trẻ.
- Khi cho trẻ ra sân tập thể dục cô trò chuyện cho trẻ biết lợi ích của ánh
nắng buổi sáng đối với cơ thể.
* Trong hoạt động học:
Chỉ đạo giáo viên giáo dục trẻ hiểu được giá trị của năng lượng điện nước
không phải là một chủ đề cụ thể, mà đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức để biết
lồng ghép, tích hợp vào các chủ đề cho phù hợp, góp phần mang lại hiệu quả cao
trong giáo dục trẻ ý thức tiết kiệm điện, nước.
14
Giáo viên dạy trẻ cách sử dụng điện, nước tiết kiệm
Bên cạnh đó cần giáo dục cho trẻ biết là trẻ còn nhỏ không nên đụng vào
hay sờ vào các thiết bị điện hoặc ổ cắm điện vì có thể gây nguy hiểm cho trẻ.
1
4
3
2
5
6
(Giáo viên hướng dẫn trẻ quan sát những việc nên làm và những việc không nên
làm trong các hình)
* Thông qua hoạt động ngoài trời:
Hoạt động ngoài trời là cần phải đảm bảo tính tích cực, chủ động của trẻ,
làm giàu và củng cố kiến thức cho trẻ về môi trường xung quanh, giáo dục cho trẻ
những thói quen hành vi nơi công cộng. Khi trẻ hoạt động ngoài trời xong, cô cho
15
trẻ đi rửa tay. Cô nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ phải dùng nước tiết kiệm, dùng vừa đủ
nhu cầu, không lãng phí, không vặn to vòi nước, không để nước tràn ra ngoài.
(Trẻ rửa tay dưới vòi nước, tiết kiệm, vừa đủ nhu cầu, không vặn to vòi nước.)
* Thông qua hoạt động góc:
Hoạt động góc giúp trẻ thể hiện, tái tạo lại những công việc của người
lớn. Từ đó trẻ nắm được kiến thức, kỹ năng của các công việc, giáo dục cho trẻ
kỹ năng sống nói chung và ý thức tiết kiệm năng lượng nói riêng.
* Thông qua chơi, hoạt động chiều:
- Cô cùng trẻ sắp xếp lại lớp gọn gàng, ngăn nắp để lớp được thoáng mát.
Cho trẻ chơi hoạt động tự do ở các góc, xem tranh truyện ở góc thư viện có liên
quan đến sử dụng tiết kiệm năng lượng hiệu quả. Từ đó khắc sâu kiến thức hơn
cho trẻ về việc tiết kiệm năng lượng hiệu quả.
(Tận dụng ánh sáng, gió tự nhiên ngoài trời để tổ chức các hoạt động cho trẻ)
Với giải pháp hướng dẫn giáo viên thực hiện lồng ghép giáo dục trẻ biết
tiết kiệm năng lượng qua việc lồng ghép, tích hợp vào các hoạt động trong ngày
đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc giáo dục trẻ biết tiết kiệm điện, nước ở
16
trường chúng tôi, hầu hết trẻ đã có ý thức tiết kiệm năng lượng khi tham gia các
hoạt động liên quan đến năng lượng điện, nước.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua một năm học chỉ đạo thực hiện đề tài. Kết quả thật đáng mừng, ý
thức về thực hành tiết kiệm điện, nước của cán bộ giáo viên trong trường chuyển
biến rõ rệt hẳn lên so với đầu năm học:
* Đối với bản thân.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho đội
ngũ giáo viên về các phương pháp, biện pháp trong việc tiết kiệm điện nước cho
gia đình và xã hội.
- Cần chú trọng tới công tác tham mưu, công tác xã hội hoá giáo dục để
đầu tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị điện, nước tiết kiệm, hiệu quả để tạo
những điều kiện tốt nhất cho các hoạt động học tập, vui chơi và sinh hoạt tại
trường của học sinh, giúp cha mẹ trẻ tin tưởng, yên tâm gửi con tại trường.
* Đối với cán bộ, giáo viên:
- 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên có ý thức về việc thực hiện tiết kiệm
năng lượng điện, nước.
- 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên có ý thức và thực hiện tốt các quy
định sử dựng điện, nước trong nhà trường. Nhờ vậy mà lượng điện sử dụng của
nhà trường đã được tiết kiệm một cách tối đa, giảm chi phí đáng kể cho việc chi
trả tiền điện, nước hàng tháng.
- 100% giáo viên biết lồng ghép các nội dung giáo dục tiết kiệm năng
lượng điện, nước để dạy trẻ trong các hoạt động hàng ngày.
Đối chiếu với kết quả khảo sát đầu năm học thì kết quả của cuối năm
đạt được như sau:
T
T
1
2
3
4
Kết quả khảo sát
Số
Nội dung khảo sát
Nắm vững kiến thức về
năng lượng và tiết kiệm
năng lượng
Có ý thức tiết kiệm điện,
nước ở mọi lúc, mọi nơi
Biết lựa chọn nội dung, hình
thức, thời điểm để GD trẻ tiết
kiệm năng lượng.
Biết tham mưu, phối hợp,
tuyên truyền với phụ huynh
GD trẻ tiết kiệm điện, nước.
* Đối với học sinh:
Tốt
CBG
V
đượ SL
c KS
Tỷ
lệ%
Khá
TB
Yếu
Tỷ
Tỷ
Tỷ
SL lệ SL lệ SL
lệ%
%
%
22
12
55
8
36
2
9
0
0
22
13
59
7
32
2
9
0
0
22
14
64
8
36
0
0
0
0
22
14
64
7
32
1
4
0
0
17
- Trẻ có thói quen tốt trong việc sử dụng tiết kiệm điện, nước, không cần
sự nhắc nhở của cô giáo khi trẻ ở trường và bố mẹ khi trẻ ở nhà. Trẻ biết nhắc
nhở người lớn, nhắc nhở bạn cùng tiết kiệm điện, nước.
- Đa số trẻ trong trường đã có phản ứng với các hành vi không tiết kiệm
điện, nước của người khác.
- Rèn cho trẻ có ý thức biết suy nghĩ vì cái chung bởi khi trẻ biết tiết kiệm
điện, nước không chỉ gia đình, nhà trường được hưởng lợi mà việc đó còn mang
lại lợi ích cho cộng đồng, góp phần tiết kiệm năng lượng cho quốc gia.
Kết quả khảo sát trên trẻ sau khi áp dụng sáng kiến:
T Nội dung khảo sát
T
1
2
3
4
Trẻ có thói quen tiết
kiệm điện, nước
trong sinh hoạt
Trẻ tích cực tham
gia vào các hoạt
động mang ND về
tiết kiệm năng
lượng điện, nước.
Biết chia sẻ và hợp
tác với bạn bè và
những người xung
quanh để tiết kiệm
năng lượng điện,
nước.
Có phản ứng với các
hành vi không tiết
kiệm năng lượng
điện, nước.
Tổng số
trẻ khảo sát
Kết quả khảo sát cuối năm học
Đạt
Chưa đạt
Số trẻ
Tỉ lệ %
Số trẻ
Tỉ lệ %
235
230
98
5
2
235
233
99
2
1
235
233
99
2
1
235
230
98
5
2
* Đối với phụ huynh:
- Nhận thức của phụ huynh về xây dựng môi trường giáo dục trong trường
mầm non được nâng lên rõ rệt, ban đại diện hội cha mẹ học sinh đã quan tâm
thiết thực đến công tác tu sửa, xây dựng cơ sở vật chất trong và ngoài trường
học. Đặc biệt đóng góp ngày công lao động để tu sửa, thay thế các thiết bị điện,
nước đã hư hỏng cho nhà trường.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
18
- Xem thêm -