Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Một số giải pháp chỉ đạo thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng việt cho trẻ em vù...

Tài liệu Một số giải pháp chỉ đạo thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số tại trường mầm non điền trung, huyện bá thước, tỉnh thanh hóa

.PDF
20
156
108

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài. “Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học. Chuẩn bị cho trẻ vào lớp một ở trường tiểu học là một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của giáo dục mầm non, trong đó có việc chuẩn bị tiếng Việt. Phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới trường, lớp mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt hoặc ít có môi trường giao tiếp tiếng Việt” [4]. Với trường mầm non Điền Trung khi trẻ em người dân tộc đi học đa số chưa thạo tiếng Việt. Nếu chưa hiểu tiếng Việt sẽ gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp, khi tham gia hoạt động giáo dục cũng như tiếp thu kiến thức. Những rào cản về ngôn ngữ khiến các con ngại giao tiếp, không hòa đồng, không thích tham gia các hoạt động và không muốn đi học. Trẻ em dân tộc ở trường mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước khi đến trường thích trao đổi với nhau bằng tiếng mẹ đẻ và có thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ trong hoạt động vui chơi, học tập và các hoạt động trong ngày. Hơn nữa môi trường tiếng Việt tại gia đình, cộng đồng lại ít được sử dụng, vì nếu người lớn mà sử dụng tiếng Việt thì bị coi là làm oai, oách thì sẽ bi tẩy chay, tính tự tôn dân tộc rất cao. Mặt khác ngay từ trong bụng mẹ các con đã được tiếp súc bằng tiếng dân tộc được nghe những âm thanh quen thuộc. Khi bước ra một thế giới bên ngoài thì được nghe những lời hát xường của dân tộc mường, hát ru em của dân tộc thái. Hằng ngày trẻ giao tiếp với bố mẹ bằng tiếng mẹ đẻ vì vậy khi đến trường trẻ được tiếp cận một môi trường khác cũng rất khó, làm sao để trẻ phát triển về ngôn ngữ một cách toàn diện. Dạy Tiếng Việt cho trẻ tuổi mầm non ở vùng dân tộc thiểu số có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vốn tiếng Việt của trẻ phong phú thì sẽ giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện cả về ngôn ngữ, nhận thức, vận động, tình cảm kĩ năng xã hội và thẩm mĩ. Đối với trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số, tiếng Việt được coi là ngôn ngữ thứ hai của trẻ, trẻ vùng dân tộc thiểu số học tiếng Việt cũng giống chúng ta học một ngoại ngữ nào đó, có rất nhiều khó khăn và rào cản cần phải vượt qua để trẻ có vốn tiếng Việt tốt trước khi bước vào học ở trường phổ thông. Tuy nhiên vấn đề đặt ra, chúng ta dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ như thế nào để có hiệu quả? Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường trong việc tổ chức thực hiện chuyên đề, cơ sở vật chất trang thiết bị, buổi học, tính linh hoạt của giáo viên, khả năng cảm nhận của trẻ, đồ dùng trực quan cho tiết dạy, công tác tuyên truyền… vai trò trong sự tác động qua lại giữa giáo viên và các con với yêu cầu đặt ra phải phù hợp đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ. Do đó, phải căn cứ vào đối tượng chúng ta đang dạy, tùy vào hoàn cảnh để giáo viên lựa chọn những bài dạy phù hợp với trẻ, được như thế buổi học mới thành công, các cháu nắm bắt nhanh vấn đề mà cô giáo đưa ra. Bởi vậy trẻ em vùng dân tộc sẽ không có vốn tiếng Việt nếu không được chuẩn bị từ trước khi bước vào lớp 1. 1 Mong muốn của bản thân với cương vị là người quản lý, là người luôn đồng hành cùng các con trong các hoạt động 5 năm năm đầu đời, để giúp các con có vốn tiếng Việt nhất định để làm hành trang trước khi bước vào lớp 1, có đủ tâm thế, có đủ tự tin tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức của các bậc học tiếp theo. Nên bản thân đã trăn trở làm thế nào để kéo gần khoảng cách giữa trẻ em vùng dân tộc thiểu số và trẻ em người kinh. Chính vì lẽ đó tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp chỉ đạo thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số” tại trường mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Phân tích thực trạng thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số tại trường mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. - Bước đầu đề xuất các giải pháp chỉ đạo thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số tại trường mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Các giải pháp chỉ đạo việc thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số tại trường mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo, nghiên cứu Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025”, các tài liệu hướng dẫn về tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo thực hiện các chuyên đề: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch phù hợp với từng thời điểm, chủ đề, dự giờ góp ý các hoạt động trong ngày, đánh giá theo giai đoạn. Phương pháp thực nghiệm, áp dụng các giải pháp ở các lớp mẫu giáo trường Mầm non Điền Trung, so sánh đối chứng: Các lớp mẫu giáo đầu năm và các lớp mẫu giáo cuối năm. Phương pháp phân tích: So sánh kết quả tăng cường tiếng Việt cho trẻ khi chưa áp dụng các giải pháp với khi đã áp dụng các giải pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận. Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025 với mục tiêu: Tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, đảm bảo các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để 2 hoàn thành chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để hoc tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của đất nước [1]. Phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới trường, lớp mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt, ít có môi trường giao tiếp tiếng Việt. Khi đến trường trẻ em thích trao đổi với nhau bằng tiếng mẹ đẻ và có thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ trong hoạt động chơi, trò chuyện hàng ngày và thậm chí ngay cả trong môi trường học tập. Theo đó trẻ em dân tộc thiểu số sẽ không có vốn tiếng Việt ban đầu cần thiết để học tập bằng tiếng Việt ở trường phổ thông nếu không được chuẩn bị tiếng Việt. Những hạn chế về tiếng Việt là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng lưu ban bỏ học của học sinh phổ thông vùng dân tộc thiểu số. Về căn bản, học tiếng Việt đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số là học ngôn ngữ thứ hai. Khi đi học mẫu giáo, trẻ em nói chung đã có vốn hiểu biết về kĩ năng ban đầu về hoạt động ngôn ngữ nói, biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp hàng ngày. Kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ thứ nhất) có thể coi là nhân tố thuận lợi giúp trẻ học tiếng Việt (ngôn ngữ thứ hai) nếu có điều kiện thích hợp. Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt có một số đặc điểm như: Trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt. Môi trường giao tiếp tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường lớp mầm non). Việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ với tiếng việt. Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó, khía cạnh ngôn ngữ cũng ảnh hưởng tới việc học tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số. Sự khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất định đối với việc học tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số [5]. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ người này đến người khác với một mục đích nhất định nào đó. Khi giao tiếp người ta trao đổi tư tưởng tình cảm với nhau, tác động đến nhau, những tư tưởng, trí tuệ của người này được truyền từ người này đến người khác , từ thế hệ này đến thế hệ khác đó là nhờ ngôn ngữ, một trong những động lực đảm bảo sự tồn tại của xã hội loài người. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy: Tư duy của con người – sự phản ánh thế giới khách quan xung quanh chủ yếu được tiến hành dưới hình thức ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. 3 Về phương tiện này tư duy là cái được biểu hiện, còn ngôn ngữ là cái để biểu hiện tư duy. Các kết quả của hoạt động tư duy (thuộc lĩnh vực tinh thần) bao giờ cũng được khoác lên mình một cái vỏ vật chất làm cho người khác “thấy được”. Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ có thể hình dung như hai mặt tờ giấy đã có mặt này phải có mặt kia. Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, là phương tiện để giao tiếp, là công cụ để tư duy. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp cho tư duy của trẻ phát triển và còn là một phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện về nhân cách, đạo đức. Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người, nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những điều thầm kín…ngôn ngữ đã góp phần đào tạo các em trở thành con người hoàn thiện. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ: Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ trước hết, ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giớ xung quanh. Song sự lĩnh hội những tri thức đó lại không thể thực hiện được khi không có ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi suy nghĩ và công cụ của tư duy. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh, trong quá trình nhận thức những sự vật hiện tượng, muốn cho các cháu phân biệt các vật này với vật khác, biết được tên giọi, hình dạng, công dụng, và những thuộc tính cơ bản của vật, nếu chỉ cho các cháu xem xét mà không dùng từ ngữ để giải thích, hướng dẫn và khẳng định những kết quả đã quan sát được thì những tri thức mà các cháu thu được đó nhất định sẽ hời hợt, nông cạn, có khi còn sai lệch hẳn. Trong khi nhận thức các sự vật đó, trẻ phải dùng từ để gọi tên sự vật, tên các chi tiết, đặc điểm, tính chất, công dụng của sự vật, từ đó trẻ biết phân biệt sự vật này với sự vật khác. Khi đứa trẻ đã lớn nhận thức của trẻ phát triển. Trẻ không chỉ nhận thức những sự vật, hiện tượng trẻ không trực tiếp nhìn thấy. Trẻ muốn biết cả về quá khứ cả về tương lai: trẻ muốn biết cả công việc của người lớn, của bố mẹ, của Bác Hồ, của chú bộ đội…Để đáp ứng những nhu cầu đó trẻ không có cách nào khác là phải có đủ vốn từ. Khi đã có một vốn ngôn ngữ nhất định trẻ sử dụng ngôn ngữ như một biểu hiện nhận thức của mình. Trẻ có thể dùng lời để diễn đạt những suy nghĩ, những cảm xúc của mình. Trẻ hiểu được chỉ dẫn của người lớn, của cô giáo thì các hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy của trẻ được chính xác, kích thích trẻ tích cực hoạt động, kích thích trẻ nói và sự hiểu biết của trẻ ngày càng được nâng lên. Trẻ còn dùng ngôn ngữ để đặt ra muôn vàn câu hỏi, yêu cầu, nguyện vọng, thể hiện biết bao thái độ, tình cảm yêu, ghét…Biểu hiện bằng ngôn ngữ giúp cho nhận thức của trẻ được sâu sắc hơn, tạo điều kiện cho trẻ được sống trong môi trường có các hoạt động giao tiếp sẽ giúp trẻ nảy sinh những suy nghĩ sáng tạo mới. Vì vậy trong ttrường mầm non, khi cho trẻ tiến hành các hoạt động vui chơi, lao động, hoc tập, ..cần taọ điều kiện kích thích trẻ nói. Rõ ràng ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ. Thông qua ngôn ngữ giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh một cách sâu, rộng, rõ ràng, chính xác. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực sáng tạo trong hoạt 4 động trí tuệ, vì vậy việc phát triển trí tuệ không tách rời việc phát triển ngôn ngữ. Vai trò ngôn ngữ đối với việc giáo dục đạo đức: Ở lứa tuổi mầm non, đặc biệt là tuổi mẫu giáo, các cháu bắt đầu hiểu biết và lĩnh hội những khái niệm, những quy tắc, những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tuy mới chỉ là những khái niệm ban đầu nhưng lại vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định những nét tính cách riệng biệt của mỗi con người trong tương lai. Muốn cho các cháu hiểu, và lĩnh hội những khái niệm đạo đức này, chúng ta không thể thông qua những hoạt động cụ thể hoặc qua những sự vật hiện tượng trực quan đơn thuần, mà phải có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà các cháu có thể hiện được đầy đủ những nhu cầu và nguyện vọng đầy đủ của mình . Cũng nhờ có ngôn ngữ mà các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục có điều kiện hiểu con cháu mình hơn, để từ đó có thể uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho các cháu những tình cảm và những hình vi đạo đức trong sáng nhất. [7]. 2.2. Thực trạng của vấn đề: 2.2.1. Thuận lợi: - Nhà trường nhận được sự chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Bá Thước trong việc thực hiện các nhiệm vụ. - Cơ sở vật chất đáp ứng được với yêu cầu tối thiểu của việc thực hiện chuyên đề. - Đội ngũ cán bộ giáo viên tâm huyết, nhiệt tình, trẻ khỏe, yêu nghề, 100 cán bộ giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, trong đó có 26/32 đ/c có trình độ trên chuẩn đạt 81%. - Tổng số cán bộ giáo viên nhà trường 32 đồng chí, trong đó có 17 đồng chí là người dân tộc. Số cán bộ giáo viên là người kinh đa số nghe và hiểu được tiếng dân tộc, một số đồng chí biết giao tiếp bằng tiếng dân tộc. - Có đầy đủ tài liệu phục vụ chuyên đề. - Đơn vị được chọn là nơi xây dựng hoạt động thực hành cho đợt sơ kết 03 năm thực hiện chuyên đề “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số” - Bản thân thường xuyên được đi tiếp thu các chuyên đề tại tỉnh, đây cũng là cơ hội để được giao lưu học hỏi chuyên môn các đơn vị bạn. - Đa số trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn, thích tham gia các hoạt động. - Đa số trẻ biết giao tiếp bằng tiếng Việt, biểu đạt những mong muốn bằng tiếng Việt. - Gần đây những phụ huynh trẻ đã quan tâm đến việc dạy trẻ giao tiếp bằng tiếng Việt. 2.2.2. Khó khăn: - Giáo viên chưa hiểu đúng bản chất của chuyên đề, áp dụng vào thực tiễn một cách máy móc, chưa nghiên cứu tài liệu. - Giáo viên là người dân tộc khi giao tiếp với nhau thường xuyên sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình. Giữa hai dân tộc với nhau giao tiếp còn có khoảng cách, trong cùng nhóm đang nói chuyện nhưng nếu hai người dân tộc nói chuyện với nhau họ vẫn giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, khi nói chuyện với người kinh thì họ lại giao tiếp bằng tiếng Việt. 5 - Cách sử dụng đồ dùng đồ chơi chưa có tính hệ thống, chưa tận dụng tối đa nguồn nguyên học liệu sẵn có của địa phương để làm đồ dùng đồ chơi phục vụ chuyên đề. - Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động còn hạn chế. - Giáo viên chưa tận dụng mọi cơ hội để tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi mà chủ yếu là tăng cường tiếng Việt cho trẻ chủ yếu ở hoạt động chung và hoạt động tăng cường tiếng Việt 15 phút/ngày. - Tỷ lệ trẻ nhà trẻ ra lớp chưa cao, số trẻ dân tộc đông 332/472 chiếm 70.3%. - Do cách phát âm của tiếng mẹ đẻ nên khi phát âm tiếng Việt trẻ thường phát âm không chuẩn hoặc lẫn lộn cả tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt, những người già không biết nói tiếng Việt và không muốn nói tiếng Việt với con trẻ vì muốn gìn giữ tiếng mẹ đẻ. - Khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều. - Tính cục bộ địa phương cao, nếu cô giáo người dân tộc mà giao tiếp với cha mẹ trẻ bằng tiếng Việt thì một số cho là không giữ gìn tiếng mẹ đẻ, thích làm oai, làm oách nên hiệu quả của việc tuyên truyền chưa cao. - Một bộ phận cha mẹ trẻ đi làm ăn xa nên việc chăm sóc cũng như dạy bảo thường là phó mặc cho ông bà và cô giáo. - Môi trường giao tiếp của các con ở gia đình, thôn bản là tiếng dân tộc. - Đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị còn nghèo nàn, chưa đủ theo yêu cầu tối thiểu. - Đồ dùng tự làm phục vụ cho chuyên đề giá trị thẩm mĩ và độ bền chưa cao, chưa đồng bộ. - Xây dựng môi trường tiếng Việt cho trẻ hoạt động chưa phong phú, đa dạng, chưa hấp dẫn trẻ. - Xã có 10 thôn bản nhưng chỉ có 01 thôn là đa số người kinh sinh sống, còn 11 thôn bản có 100% người dân tộc sinh sống nên môi trường giao tiếp của trẻ chỉ là tiếng dân tộc. - Việc tuyên truyền với cha mẹ trẻ và cộng đồng về phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ chưa được làm thường xuyên. - Sự pha trộn giữa hai dân tộc về nòi giống chưa nhiều, có sự phân biệt rõ nét, họ thường gọi người kinh là chếnh, cũng giống người kinh gọi người mường là dân tộc. 2.2.3. Kết quả thực trạng: TT 1 2 Nội dung khảo sát Hiểu đúng bản chất của chuyên đề, tận dụng mọi cơ hội để tăng cường tiếng việt cho trẻ. Giáo viên, học sinh là người dân tộc thường Kết quả khảo sát số người/ lớp được Tốt Khá TB khảo sát SL % SL % SL % 28 3 10.7 10 35.7 15 53.6 344 50 14.5 143 41.6 151 43.9 6 xuyên giao tiếp bằng tiếng Việt, phát âm chuẩn âm tiếng Việt. 3 Xây dựng môi trường tiếng 17 3 17.6 6 35.3 8 47.1 Việt cho trẻ hoạt động. 4 Tận dụng nguồn nguyên học liệu sẵn có của địa 28 5 17.9 8 28.6 15 53.5 phương để làm đồ dùng đồ chơi phục vụ chuyên đề. 5 Tuyên truyền với cha mẹ trẻ và cộng đồng về tăng 28 5 17.9 7 25.0 16 57.1 cường tiếng Việt cho trẻ 6 Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động trong 28 5 17.9 6 21.4 17 60.7 ngày. 7 Cha mẹ trẻ thường xuyên giao tiếp với trẻ bằng tiếng 327 20 6.1 33 10.1 274 83.8 Việt khi ở nhà. Nhìn vào bảng khảo sát thực trạng cho thấy việc tận dụng mọi cơ hội ở tất cả các hoạt động trong ngày, mọi lúc mọi nơi để tăng cường tiếng Việt cho trẻ, hay công tác tuyên truyền với cha mẹ trẻ và cộng đồng, ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện chuyên đề còn hạn chế. 2.3. Các giải pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số tại trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước. 2.3.1. Nâng cao năng lực đội ngũ: Nhà trường chọn cử những cán bộ giáo viên có đủ trình độ, năng lực đi tiếp thu chuyên đề tại huyện về triển khai đến từng cán bộ giáo viên tại đơn vị một cách hiệu quả, trong mỗi chuyên đề nhà trường đều xây dựng tiết thực hành để minh họa cho phần lý thuyết để cán bộ giáo viên hiểu rõ được nội dung chuyên đề. Từ đó áp dụng vào thực tiễn một cách linh hoạt và sáng tạo. Đầu năm học nhà trường phân công giáo viên phụ trách lớp một cách khoa học như: Một giáo viên giỏi kèm một giáo viên trung bình hoặc khá, một giáo viên người kinh kèm một giáo viên người dân tộc để cùng phát triển về chuyên môn và cùng thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng Việt một cách hiệu quả nhất, trong quá trình giao tiếp với cha mẹ trẻ nếu cha mẹ trẻ là người dân tộc thì giáo viên người dân tộc sẽ giao tiếp tốt hơn và gần gũi hơn khi trao đổi, tuyên truyền về các lĩnh vực cần kết hợp giữa gia đình và nhà trường, hay trong quá trình giao tiếp với các con nếu các con chưa hiểu tiếng Việt hay cô giáo người kinh chưa hiểu tiếng dân tộc thì cô giáo người dân tộc là một phiên dịch cho cô và trẻ ngay tại lớp và cùng mở rộng vốn tiếng Việt cho trẻ, cũng như mở rộng vốn tiếng dân tộc cho cô giáo người kinh. Hướng dẫn xây dựng kế hoạch tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở từng nhóm lớp phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ, phê duyệt trước khi thực hiện, kế hoạch đảm bảo logic từ mục tiêu phát triển đến kế hoạch tuần và kế hoạch ngày. 7 Sau khi triển khai thực hiện chuyên đề nhà trường đã tổ chức kiểm tra việc thực hiện chuyên đề dưới nhiều hình thức như: Thăm lớp dự giờ để góp ý cho đồng nghiệp, trò chuyện trao đổi để kiểm tra mức độ áp dụng lý thuyết vào thực tiễn, kiểm tra nội bộ về việc thực hiện chuyên đề hay việc thực hiện nhiệm vụ được giao của mỗi cá nhân, mức độ tiếp thu của trẻ…. Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn nhà trường, liên trường tại đơn vị, nhà trường chủ động xây dựng các tiết thực hành về tăng cường tiếng Việt để các thành viên trong trường cũng như cụm trường góp ý hoàn thiện chuyên môn. 2.3.2. Xây dựng môi trường tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số: - Xây dựng góc sách: + Xây dựng ngân hàng từ cho trẻ: Viết các từ (có thể vẽ thêm hình ảnh mang biểu tượng của từ đó đối với trẻ nhỏ) mà trẻ thích vào miếng bìa carton cô đã chuẩn bị trước, cho trẻ cất vào hộp của mình, sau đó tập cho trẻ xâu các miếng bìa hoặc làm sách tranh mà trẻ thích. Yêu cầu trẻ đọc từ mình yêu thích bằng cách nhớ kí hiệu những chữ cái ban đầu hoặc những hình ảnh quen thuộc. + Chuẩn bị các chữ cái rời cả chữ in hoa, in thường, viết thường kèm hình ảnh để trẻ làm sách tranh và tập kể chuyện sáng tạo theo tranh. Cho trẻ mô tả cô viết theo lời kể của trẻ. Trẻ rất thích quan sát người lớn viết theo những gì mình nói. Cho trẻ hoạt động ở góc sách trong tất cả các nhóm lớp như một phương tiện học một cách hiệu quả. + Yêu cầu trẻ sưu tầm tranh ảnh có chứa các chữ cái đã học có trong từ để làm sách tranh cho phong phú, cô chuẩn bị giúp trẻ sách tranh gắn sẵn bóng kính để trẻ có thể thay đổi vị trí các bức tranh theo ý tưởng sáng tạo câu truyện của riêng mình, từ đó phát triển vốn từ và tư duy logic cho trẻ một cách sáng tạo và hiệu quả. - Góc phân vai: Chuẩn bị các đồ dùng tự làm theo chủ đề có gắn tên các loại hoa quả, đồ dùng, đồ chơi, in tiền, bảng niêm iết giá, bảng báo giá tiềnhàng …, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi phong phú, mầu sắc hài hòa, đẹp mắt, sắp xếp theo hướng mở để hấp dẫn trẻ chơi, kích thích giao tiếp để tăng vốn từ cho trẻ. 8 - Trang trí phòng nhóm, lớp theo chủ đề, tên chủ đề cũng như các góc được đặt tên một cách gần gũi, dễ hiểu, được viết bằng chữ in thường. Tủ đồ dùng cá nhân được ghi tên và kí hiệu riêng của trẻ ở tất cả các độ tuổi. Trẻ được khuyến khích tham gia trang trí, tạo môi trường chữ cùng cô như: tô chữ, đồ chữ, sao chép tên mình, tìm tên mình gắn lên bảng trẻ đến lớp, tìm tên những bạn vắng gắn vào bảng bé ở nhà….Khuyến khích giáo viên cho trẻ sử dụng môi trường chữ một cách tích cực, khuyến khích trẻ nhận biết chữ hàng ngày, khi thay đổi chữ nói cho trẻ biết, đọc cho trẻ nghe…. - Góc địa phương: Xây dựng được góc địa phương mang đậm bản sắc dân tộc Mường nơi đây, tập thể cán bộ giáo viên nhà trường phải hiểu được phong tục tập quán, văn hóa, sinh hoạt, đời sống, đồ dùng…để chuẩn bị các đồ dùng minh họa phù hợp và dễ nhớ, dễ biết, dễ sưa tầm như: thơ ca, hò, vè, truyện, đệm ngồi, nỏ, gión, váy, áo, hòn mắng, quả còn, cồng chiêng, một số sản vật quê hương…bên dưới chú thích bằng tiếng Việt (chữ in thường) bên dưới mỗi hình ảnh để trẻ làm quen với chữ tiếng Việt. Ngoài ra còn sư tầm một số hình ảnh của lễ hội Mường Khô, các hình ảnh hay sản vật được thay đổi phù hợp theo từng chủ đề. - Môi trường bên ngoài: Xây dựng khuôn viên bên ngoài phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ đẹp, sinh động, hấp dẫn, thoáng mát…ngoài việc trang trí còn mang mục đích giáo dục. Mỗi loại hoa, cây cảnh, rau đều được gắn tên gọi bằng tiếng Việt (chữ in thường), hay các hòn đá được vẽ tranh, con vật, hoa… kèm theo các chữ cái để tạo môi trường chữ cho trẻ trong khi chơi được lồng ghép một cách nhẹ nhàng nhưng hiệu quả. 9 10 11 Luôn duy trì môi trường tiếng Việt trong lớp cũng như ngoài trời để tạo được môi trường tốt nhất cho trẻ hoạt động tích cực. 2.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi: Hằng năm nhà trường đầu tư mua sắm, bổ sung thêm một số đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị theo yêu cầu tối thiểu phục vụ cho các hoạt động như thiết bị âm thanh, loa, mic đeo, ti vi, giá góc, bàn ghế… Huy động mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư cơ sở vật chất trường học như phòng y tế, văn phòng, sân bê tông, khuôn viên, môi trường bên ngoài…. Huy động cha mẹ trẻ đóng góp các nguyên học liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ như các đồ dùng đồ chơi ở các góc, sưa tầm các thơ ca, hò vè, tranh ảnh phù hợp, thân thiện với trẻ em vùng dân tộc. 12 2.3.4. Tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi trong ngày. Chỉ đạo giáo viên lồng ghép việc thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở tất cả các hoạt động, ở tất cả các thời điểm trong ngày, sử dụng cả tiếng mẹ để để phát triển vốn từ cho trẻ như: - Hoạt động đón trả trẻ: Cô chào trẻ, chào cha mẹ trẻ bằng tiếng Việt nếu trẻ còn ngại thì cô gần gũi động viên khuyến khích trẻ để trẻ tự tin giao tiếp với cha mẹ và cô giáo bằng tiếng Việt. Cho trẻ vào chơi ở các góc hay các trò chơi mình yêu thích để được giao tiếp với các bạn chơi một cách tự nhiên. - Hoạt động chung: Khi cô đưa ra các hệ thống câu hỏi nếu trẻ không hiểu thì cô biết tiếng dân tộc hỏi lại bằng tiếng dân tộc và giải thích cho trẻ hiểu tiếng mẹ đẻ nói là như vậy nhưng tiếng Việt phải nói như thế này, cô làm mẫu và tập 13 cho trẻ nói lại, giáo viên trong lớp phải thường xuyên quan tâm trao đổi với những trẻ người dân tộc bằng tiếng Việt để cung cấp thêm vốn từ cho trẻ. - Hoạt động chơi: + Hoạt động chơi ở các góc: trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi giáo viên quan tâm gần gũi, quan sát hỗ trợ trẻ kịp thời khi cần thiết, đặt ra những tình huống mới để phát triển trò chơi, phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ, gây hứng thú cho trẻ để trẻ sáng tạo.. + Chơi các trò chơi vận động, dân gian: Thường xuyên quan tâm tổ chức cho trẻ chơi để gúp trẻ mạnh dạn tự tin tham gia các hoạt động của lớp, của trường đồng thời làm giàu vốn từ cho trẻ. Bởi trong các trò chơi thường có vận động và lời đồng dao nên khi chơi trẻ vừa được vận động vừa đọc lời đồng dao, đây là một trong những cách phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ một cách hiệu quả nhất. - Trong giờ ăn: Cho trẻ đọc thơ trước khi ăn, chào mời, giới thiệu món ăn…. 2.3.5. Tuyên truyền, phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội: Phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể của xã, thôn bản để trong các Hội nghị đưa vào lồng ghép và tuyên truyền về công tác tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc. Viết bài tuyên truyền kết hợp với đài truyền thanh của xã để phát mỗi tuần một lần trong chuyên mục giáo dục xã nhà. Nhà trường xây dựng kế hoạch tuyên truyền lồng ghép trong các hội nghị, lễ hội...tận dụng mọi cơ hội để tuyên truyền. Nhà trường chủ động phối hợp với trưởng thôn, bản để nắm được lịch sinh hoạt của thôn, bản và xin được tham dự, đăng ký phát biểu để lồng ghép tuyên truyền về cách chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo khoa học, đặc biệt là việc tạo môi trường giao tiếp tiếng Việt cho trẻ tại gia đình, cồng đồng. Mỗi lớp xây dựng góc tuyên truyền về những điều cha mẹ cùng quan tâm và chăm sóc, kết hợp trao đổi với các bậc cha mẹ trẻ vào các thời điểm trong ngày như đón, trả trẻ, hội nghị phụ huynh ... Trưng bầy các sản phẩm của trẻ tạo ra theo chủ đề để thông qua sản phẩm các bậc cha mẹ trẻ hiểu được mức độ tiếp thu lĩnh hội kiến thức của các con. Tổ chức các hoạt động điển hình để mời cha mẹ trẻ tham dự và biết cách hỗ trợ giáo viên, nhà trường trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ khi trẻ ở nhà, cũng như việc hỗ trợ các nguồn nguyên học liệu làm đồ dùng đồ chơi phục vụ công tác học tập, vui chơi cho trẻ nhưng không làm mất đi bản sắc của vùng miền. Tuyên truyền về tầm quan trọng của việc giao tiếp và hiểu được ngôn ngữ tiếng Việt, Tiếng Việt là ngôn ngữ Quốc gia vì vậy trẻ em phải giao tiếp được ngôn ngữ tiếng Việt và hiểu được tiếng Việt để tạo tiền đề cho các bậc học tiếp theo. Một cha mẹ trẻ hiểu được tầm quan trọng thì sẽ tuyên truyền được cho các thành viên trong gia đình, các thành viên trong gia đình có những người thân khác và họ đã trở thành những tuyên truyền viên một cách vô thức, chính những thành viên này họ đã làm thành hiệu ứng của việc tuyên truyền tạo môi trường 14 tiếng Việt tại thôn bản và gia đình nơi họ sinh sống, từ đó họ giao tiếp song ngữ với trẻ, phát triển vốn tiếng mẹ đẻ và tăng cường tiếng Việt. 2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với Hội đồng giáo dục, với bản thân, với đồng nghiệp cũng như cộng đồng. Trong 3 năm thực hiện chuyên đề, cùng với việc áp dụng những giải pháp chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số của bản thân vào quá trình thực hiện chuyên đề tại đơn vị, thì tập thể cán bộ giáo viên đã hiểu đúng bản chất của chuyên đề và tận dụng mọi cơ hội để tăng cường tiếng Việt cho trẻ, hay trong những đám đông có cả người dân tộc và người kinh thì giáo viên đã giao tiếp bằng tiếng Việt với nhau. Đặc biệt là cha mẹ trẻ đã có những thay đổi và quan tâm đến việc tạo môi trường giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt, giúp trẻ làm giầu vốn từ một cách rõ rệt. TT Nội dung khảo sát số người/ lớp được khảo sát Kết quả khảo sát Tốt Khá TB SL % SL % SL % 1 Hiểu đúng bản chất của chuyên đề, tận dụng mọi cơ 28 17 60.7 8 28.6 3 10.7 hội để tăng cường tiếng việt cho trẻ. 2 Giáo viên, học sinh là người dân tộc thường xuyên giao tiếp bằng tiếng 344 250 72.7 43 12.5 51 14.8 Việt, phát âm chuẩn âm tiếng Việt. 3 Xây dựng môi trường tiếng 17 10 58.8 5 29.4 2 11.8 Việt cho trẻ hoạt động. 4 Tận dụng nguồn nguyên học liệu sẵn có của địa 28 17 60.7 6 21.4 5 17.9 phương để làm đồ dùng đồ chơi phục vụ chuyên đề. 5 Tuyên truyền với cha mẹ trẻ và cộng đồng về tăng 28 17 60.7 8 28.6 3 10.7 cường tiếng Việt cho trẻ 6 Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động trong 28 20 71.4 3 10.7 5 17.9 ngày. 7 Cha mẹ trẻ thường xuyên giao tiếp với trẻ bằng tiếng 327 70 21.5 197 60.2 60 18.3 Việt khi ở nhà. - Thường xuyên giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt, vốn tiếng Việt của trẻ được tăng lên rõ rệt, trẻ hứng thú, tự tin, mạnh dạn tham gia các hoạt động, phát âm chuẩn tiếng Việt. 15 - Cha mẹ trẻ và cộng đồng quan tâm trong việc giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt khi ở nhà (song ngữ). - Tranh thủ được sự quan tâm của các cấp, các ngành, cha mẹ trẻ và cộng đồng trong việc xây dựng môi trường tiếng Việt cho trẻ từ trong lớp cũng như ngoài trời, số kinh phí huy đông được từ các nguồn lực là: 3.344.000.000 đồng ( Ba tỷ ba trăm bốn tư triệu đồng). + Ngân sách huyện: 807.000.000 đồng ( Tám trăm linh bảy triệu đồng). Gồm tu sửa phòng học, xây mới nhà vệ sinh, tường rào, vườn cổ tích, khu vận động cho trẻ. + Ngân sách UBND xã: 2.015.000.000 đồng ( Hai tỷ không trăm mười lăm triệu đồng). + Nhà trường tiết kiệm chi: 150.000.000 đồng ( Một trăm năm mươi triệu đồng). Ngoài ra nhà trường còn huy động quyên góp ủng hộ từ các bậc phụ huynh; 162.000.000 đồng ( Một trăm sáu mươi hai triệu đồng). + CBGV lao động làm đồ dùng ĐC, cải tạo vườn hoa cây cảnh, xây dựng môi trường giáo dục trị giá: 130.000.000đ ( Một trăm ba mươi triệu đồng). - Đơn vị được chọn là nơi xây dựng hoạt động thực hành cho đợt sơ kết 03 năm thực hiện chuyên đề “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số” - Thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động trong ngày. - CBGV, học sinh đã dần quên đi thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ khi ở trường, mà phương tiện giao tiếp hàng ngày chủ yếu là tiếng Việt, thời lượng giao tiếp bằng tiếng Việt của trẻ được tăng lên rõ rệt cả ở trường và ở gia đình cũng như cộng đồng. - Cách tuyên truyền đến các bậc cha mẹ trẻ và cộng đồng về tăng cường tiếng Việt cũng thoải mái hơn, hiểu nhau hơn, hiệu quả hơn, từ đó nhận thức của cha mẹ trẻ đã hiểu được tầm quan trọng của việc tăng cường vốn tiếng Việt cho trẻ, để tạo tiền đề cho trẻ tiếp thu, lĩnh hội kiến thức, kĩ năng ở các bậc học tiếp theo. - Nhà trường nhận được sự quan tâm ủng hộ các nguyên học liệu của cha mẹ trẻ, sự đầu tư của các cấp, các ngành và cộng đồng về kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất trường học tạo môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện, tiết kiệm. - CBGV nhà trường đã tận dụng các nguyên học liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng đồ chơi phục vụ chuyên đề đạt hiệu quả. - Qua quan sát trẻ của nhà trường thì thấy trẻ đã giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt một cách thoải mái, biết sử dụng ngôn ngữ của cá nhân, tự kể về nội dung mà trẻ thấy hứng khởi và có kèm theo cử chỉ điệu bộ để minh họa, vốn từ đã phong phú và trẻ biết được “song ngữ”. - Trong nhà trường đã tạo được môi trường giao tiếp, môi trường chữ viết phong phú để trẻ được thỏa mãn trong việc thể hiện bản thân trước mọi người xung quanh. 16 Từ việc vào cuộc của các ban ngành đoàn thể, các tổ chức chính trị để tăng cường cơ sở vật chất, sự kết hợp hài hòa trong trang trí, sắp xếp, tạo môi trường tiếng Việt cho trẻ đa dạng, hấp dẫn và thiết thực nên cha mẹ trẻ nhận ra tầm quan trọng và cùng vào cuộc, ủng hộ vật chất lẫn tinh thần, ngày công… Đặc biệt đến nay số người kinh lấy vợ, lấy chồng người dân tộc rất nhiều, họ không còn mặc cảm người dân tộc hay người kinh nữa, và đã có sự giao thoa về văn hóa, phong tục tập quán của hai dân tộc một cách hài hòa, bây giờ người dân tộc không còn gọi người kinh là “chếnh” nữa. Nên môi trường giao tiếp tiếng Việt được mở rộng một cách tự nhiên và bền vững hơn. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 3.1. Kết luận: Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục giúp con người phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Cho nên cán bộ giáo viên cần phải đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi. Giao tiếp hiệu quả là một trong những khả năng quan trọng nhất mà con người cần có. Hình thành và phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ từ tuổi mầm non là xây dựng nền móng thiết yếu cho thành công trong những năm tháng tiếp theo ở trường phổ thông và cả cuộc sống lâu dài sau này của trẻ. Dạy ngôn ngữ thứ hai cần có cách tiếp cận khác với dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ. nội dung bài học và phương pháp cần phải thích hợp với trẻ học nói tiếng Việt. Đây là điều đặc biệt quan trọng đối với trẻ chuẩn bị đi học lớp 1. Trẻ dân tộc sẽ có cơ hội tốt hơn để nắm tiếng Việt cũng như tiếng mẹ đẻ nếu như kế hoạch thực hện trong ngày được điều chỉnh một cách linh hoạt để phù hợp với khả năng và nhận thức của trẻ. Trẻ em dân tộc học nói tiếng Việt có hiệu quả, khi giáo viên có phương pháp dạy phù hợp và có một môi trường tiếng Việt phong phú cả ở trường và ở gia đình. Việc tạo dựng môi trường tiếng Việt cho trẻ nhưng vẫn đậm đà bản sắc, gần gũi để trẻ được tắm mình trong môi trường tiếng Việt, từ đó mang lại tác dụng tích không những cho trẻ mà còn là một trong những biện pháp tuyên truyền tích cực đến các bậc cha mẹ trẻ. Để giúp trẻ giàu vốn tiếng Việt thì Ban giám hiệu nhà trường phải có những biện pháp chỉ đạo sát với tình hình thực tế của địa phương mình và phù hợp với nhận thức của trẻ. Giáo viên phải tận dụng mọi cơ hội, mọi lúc mọi nơi để tăng cường vốn tiếng Việt cho trẻ, khi đứng trước trẻ giáo viên nên giao tiếp bằng tiếng Việt, sử dụng đồ dùng đồ chơi đúng lúc một cách hiệu quả, khai thác triệt để cơ sở vật chất, trang thiết bị sẵn có. Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động để gây hứng thú giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực. Phát triển vốn tiếng mẹ đẻ cho trẻ để làm nền tảng cho việc phát triển tiếng Việt, vì tư duy tiếng Việt của trẻ được dựa trên vốn tiếng mẹ đẻ, qua quá trình 17 làm quen và sử dụng thành thạo thì trẻ mới không cần tư duy trên vốn tiếng mẹ đẻ. Ngoài ra nhà trường cần làm tốt công tác tyên truyền, phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể, cha mẹ trẻ trong việc huy động mọi nguồn lực để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho dạy và học. 3.2. Kiến nghị: - Phòng Giáo dục và Đào tạo: Chỉ đạo các trung tâm hoc tập cộng đồng tuyên truyền về việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số. - UBND huyện Bá Thước: Ban hành Chỉ thị đến các xã, Thị Trấn về việc tạo môi trường tăng cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học. - Sở Giáo dục và Đào tạo: Hỗ trợ, biên soạn thêm tài liệu về tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số. XÁC NHẬN CỦA Điền Trung, ngày 20 tháng 03 năm 2019 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. NGƯỜI VIẾT SKKN Tào Thị Nhung Nguyễn Thị Vinh Tài liệu tham khảo 1. Quyết định số: 1008/QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025” 2. Thông Tư số: 17/TT-BGD&ĐT ngày 25/07/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành chương trình giáo dục Mầm non. và được sửa đổi bổ sung một số nội dung theo Thông tư số 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016. 3. Tạp chí Giáo dục mầm non số 02/2016. 4. Hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non, mẫu giáo 3-4 tuổi. 5. Hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non, mẫu giáo 4-5 tuổi. 6. Hướng dẫn tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số 7. Chuyên đề phát triển ngôn ngữ 18 DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Vinh Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng trường mầm non Điền Trung TT 1 2 Tên đề tài SKKN Kết quả Cấp đánh giá đánh Năm học xếp loại giá xếp đánh giá (Ngành GD loại xếp loại cấp huyện/tỉnh) (A,B hoặc C) Ngành GD cấp B 2010-2011 huyện Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy vận động âm nhạc cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tại trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước. Một số biện pháp Kiểm tra Ngành GD cấp đánh giá hoạt động sư phạm tỉnh của giáo viên tại trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá C 2012 2013 19 Thước. 3 Một số kỹ năng xử lý tình huống của Hiệu trưởng trong quản lý Giáo dục tại trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước. Ngành GD cấp tỉnh C 2015 2016 4 Một số giải pháp chỉ đạo thực hiện chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số tại trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước. Ngành GD cấp huyện B 2018-2019 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan