Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả ch...

Tài liệu Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non nga thái

.PDF
40
11
140

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT HUYỆN NGA SƠN ===========*0*========== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ ĐẠT HIỆU QUẢ CHO TRẺ MẪU GIÁO Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA THÁI Người thực hiện : Phạm Thanh Xuân Chức vụ : P. Hiệu trưởng Đơn vị công tác : Trường MN Nga Thái SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý THANH HOÁ, NĂM 2018 0 MỤC LỤC NỘI DUNG Trang 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Thuận lợi b. Khó khăn c. Kết quả khảo sát 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Biện pháp 1. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo Biện pháp 2.Nâng cao kiến thức về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho giáo viên Biện pháp 3. Chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học Biện pháp 4. Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm Biện pháp 5. Chỉ đạo giáo viên phối kết hợp với phụ huynh nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm - Đối bản thân, phụ huynh và nhà trường - Đối với giáo viên - Đối với trẻ 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ - Kết luận - Kiến nghị * Tài liệu tham khảo * Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng đánh giá xếp loại kể từ khi vào ngành đến nay 1 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ II khóa VIII đã khẳng định: “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, giáo dục là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên trong nền giáo dục quốc dân góp phần quan trọng cải tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ em. Trong đó ngôn ngữ là một phương diện quan trọng trong sự phát triển nhân cách trẻ thơ trong 6 năm đầu đời, nó là công cụ để tư duy, là chìa khoá để nhận thức, là phương tiện để giao tiếp, điều khiển, điều chỉnh các hành vi giúp trẻ lĩnh hội các giá trị đạo đức chuẩn mực. Thật vậy, Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách trẻ, góp một phần quyết định để trẻ hòa nhập với cộng đồng và là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên trong xã hội loài người. Ở lứa tuổi mầm non nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển rất nhanh là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ. Đây là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng đọc viết ban đầu của trẻ [9]. Ở giai đoạn này trẻ đạt được thành tích vĩ đại mà các giai đoạn sau không thể có được, trẻ học nghĩa và cấu trúc của từ. Cách sử dụng từ ngữ để chuyển tải suy nghĩ và cảm xúc của bản thân, hiểu mục đích và cách thức con người sử dụng chữ viết. Nếu khái niệm ngôn ngữ không được nắm bắt trong khoảng thời gian này thì trẻ sẽ không bao giờ có thể học ngôn ngữ [9]. Cùng với quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, trẻ lĩnh hội và phát triển các năng lực tư duy như xây dựng và biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông tin và tiếp nhận đáp lại ý tưởng thông tin với người khác. Ngôn ngữ giúp trẻ bày tỏ ý kiến, đặt câu hỏi, phân loại và phát triển cách tư duy và tạo nên cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Vugotsky đã nhấn mạnh rằng: “ngôn ngữ nói rất quan trọng trong việc giải quyết nhiệm vụ khó, tạo mối quan hệ xã hội và kiểm soát hành vi của những trẻ khác như hành vi của bản thân”. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp còn ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Sự lĩnh hội ngôn ngữ là rất cần thiết cho việc phát triển tình cảm xã hội và nhận thức của trẻ, ảnh hưởng đến khả năng học tập trong trường tiểu học, trung học và cả trong tương lai. 2 Vì vậy phát triển ngôn ngữ tiếng việt ở lứa tuổi mầm non là cực kỳ quan trọng và cần thiết, nó tạo tiền đề cho giáo dục phát triển ngôn ngữ ở lứa tuổi học đường, góp phần cho những thành công trong tương lai của con người. Hàng năm Trường Mầm Non Nga Thái đã luôn chú trọng đến phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tuy nhiên, trên thực tế, do đặc điểm trẻ mầm non dễ vấp phải những tật ngôn ngữ nói như: nói ngọng, nói lắp… nên rất ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý, thái độ của trẻ. Hiện nay, nhiều gia đình bố mẹ còn bận mải lo làm ăn ít quan tâm đến nhu cầu gắn bó của trẻ, nên trẻ không được gần gũi trẻ sẽ ngại giao tiếp, mà giao tiếp với người lớn là điều kiện quyết định để trẻ lớn lên và trưởng thành. Đối với trường tôi, nằm trên địa bàn xã Nga Thái, dân cư chủ yếu thuộc Thiên Chúa giáo nên cũng ảnh hưởng phần nào đến tập nói của trẻ, trẻ nói sai nhiều do tiếng địa phương, phát âm chưa chính xác, còn lẫn lộn giữa các phụ âm tiếng việt, trẻ còn phát âm lẫn lộn giữa âm “n” và “l”; giữa âm “ch” và “tr….. Mặt khác, ở lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo trên thực tế tại trường tôi còn có nhiều giáo viên còn cứng nhắc, rập khuôn máy móc, chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức cho trẻ hoạt động, hạn chế cho trẻ thực hành trải nghiệm. Vậy nên, việc nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho giáo viên là rất quan trọng, giúp trẻ được phát triển ngôn ngữ theo nguyên tắc cơ bản của giáo dục có chất lượng, trẻ được học trong môi trường học tập thân thiện, phương pháp giảng dạy tích cực, cởi mở và thân quen gần gũi, đòi hỏi giáo viên phải biết đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học theo quan điểm giáo dục hiện đại “lấy trẻ làm trung tâm”. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em phụ thuộc rất lớn vào sự giao tiếp của trẻ em và người lớn, và trẻ em với nhau. Trong công tác giáo dục mầm non, giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giáo viên cần phải rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động với nhiều biện pháp khác nhau. Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong nhà trường, bản thân tôi là một phó hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện chuyên môn, đã thôi thúc tôi tìm ra: “Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non Nga Thái” để áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên ở trường, giúp cho giáo viên hiểu biết thêm về những hình thức tổ chức thực hiện, tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng của giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo tại Trường mầm non Nga Thái. Từ đó đề xuất một số giải pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cho trẻ mẫu giáo. Đồng thời góp phần 3 nâng cao chất lượng giáo dục, giúp trẻ có một vốn từ mạch lạc để trẻ có khả năng bước vào lớp 1. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Các hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non Nga Thái. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Sưu tầm, phân tích và tổng hợp các tài liệu để tìm hiểu cơ sở lý luận cho đề tài. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Phỏng vấn, trò chuyện với giáo viên, với phụ huynh và học sinh để tìm hiểu thực trạng. - Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động của trẻ, giáo viên để tìm hiểu thực trạng. - Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Ngôn ngữ là một hệ thống các ký hiệu có cấu trúc, quy tắc và ý nghĩa. Nhờ có ngôn ngữ con người có phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình để hợp tác với nhau [2]. Thật vậy, ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, nhận thức thế giới xung quanh, là công cụ để phân loại, so sánh đánh giá, để hiểu thế giới hoạt động như thế nào, ngôn ngữ giúp bày tỏ ý kiên, chia sẻ và làm rõ ý tưởng, là công cụ diễn đạt trí tưởng tượng và sáng tạo[2]. Theo nhà giáo dục học Liên xô E. L Tikhêcva đã khẳng định: “Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là chìa khoá để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc, của nhân loại. Do ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người”. Không chỉ có vậy, ngôn ngữ tạo nên những con người có linh hồn. Ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nên tư duy, nhân cách con người, thúc đấy quá trình tự điều chỉnh hành động chính bản thân mình. Đối với trẻ mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo nói riêng trước hết ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức về thế giới xung quanh, là công cụ để trẻ học tập, vui chơi. Ngôn ngữ được tích hợp trong tất cả các hoạt động giáo dục khác. Trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh mong muốn hoà nhập với xã hội loài người. Thông qua ngôn ngữ sẽ giúp trẻ hiểu và nhận biết về chính bản thân mình, về con người và khám phá các sự vật xung quanh cũng như các biến cố đang xảy ra trong đời sống hàng ngày của trẻ: Nắng, mưa, nóng, lạnh, các mối quan hệ trong xã hội... Đối với các em thế giới xung quanh luôn chứa đựng những điều mới lạ, hấp dẫn. Thật vậy! những câu hát ru ngọt ngào, những cử chỉ âu yếm vỗ về đã đem đến cho trẻ những cảm giác 4 bình yên. Đặc biệt khi trẻ được tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ văn học qua các bài ca dao, đồng dao, các câu chuyện kể, qua giao tiếp hàng ngày ở trường mầm non... đã giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, trong cuộc sống. Từ đó giúp trẻ thêm yêu quê hương, yêu đất nước. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2017 - 2018 trường mầm non Nga Thái tiếp tục chỉ đạo thực hiện chuyên đề “Giáo dục phát triển ngông ngữ cho trẻ ” làm chuyên đề trọng tâm trong năm. Nhà trường đã tạo điều kiện về sơ sở vật chất, mua sắm các trang thiết bị, tổ chức cho giáo viên trong trường tham gia các hoạt động điểm về thực hiện. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện tôi gặp những thuận lợi khó khăn sau: a. Thuận lợi: Nhà trường được sự quan tâm của Phòng giáo dục và đào tạo Huyện Nga Sơn, các cấp uỷ Đảng chính quyền địa phương Xã Nga Thái tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ xây dựng tương đối đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học... Bên cạnh đó nhà trường còn mua sắm bổ sung thêm tranh ảnh, tài liệu phục vụ cho việc dạy và học, đặc biệt là nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ năng động có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn (14/16 đồng chí có bằng Đại học) nhiệt tình thực sự yêu nghề, mến trẻ tạo được niềm tin cho các bậc phụ huynh, chính điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ. Cho đến nay chuyên đề đã được tổng kết nhưng việc tổ chức thực hiện và chỉ đạo chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ còn nhiều hạn chế, kết quả đạt được chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đạt ra. b. Khó khăn: Năm học 2017 - 2018 trường tôi có 257 cháu mẫu giáo nhưng số cháu đã học qua lớp bé, nhỡ chỉ có 105/257 cháu. Do đó khả năng nghe, nói, làm quen với việc đọc viết cũng như cách sử dụng câu từ của trẻ còn nhiều hạn chế. Trẻ thường hay nói lắp, nói ngọng, phát âm chưa chính xác, còn lẫn lộn giữa các phụ âm tiếng việt, chưa mạnh dạn trong giao tiếp, sử dụng chưa đúng câu từ. Bên cạnh đó một số giáo viên chưa nắm chắc các phương pháp, biện pháp tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng như chưa sáng tạo trong việc lồng ghép nội dung này vào các hoạt động và thời điểm trong ngày, mọi lúc mọi nơi. Mặt khác một số phụ huynh chưa ý thức được vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo hướng chuẩn cho con em mình. c. Kết quả thực trạng: Từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm của cô và trẻ ở lĩnh vực dạy và học ngôn ngữ. Phụ lục 1 Bảng 1: Khảo sát thực trạng chất lượng giáo viên (Tháng 9 năm 2017) Bảng 2: Khảo sát thực trạng chất lượng trên trẻ ( Tháng 9 năm 2017 ) Thông qua kết quả của thực trạng đã cho thấy, với tổng số cháu nắm vững về nội dung phát triển ngôn ngữ còn hạn chế. Xuất phát từ thực trạng đó để chỉ 5 đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo tốt hơn nữa tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và tổ chức thực hiện như sau: 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Biện pháp phát triển hoạt động ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo là cách thức thực hiện các nội dung phát triển các kỹ năng ngôn ngữ nhằm giúp trẻ có khả năng diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, có văn hóa và chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Có nhiều biện pháp để phát triển hoạt động ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo nói riêng và qua quá trình tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo tại trường Mầm Non Nga Thái, tôi đã có một số giải pháp tổ chức thực hiện mang lại kết quả khá khả thi như sau: Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Phát triển ngôn ngữ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng và con người trong xã hội nói chung. Nó là công cụ của tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nhận thức, giải quyết vấn đề và chức năng tư duy ký hiệu tượng trưng của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện của giao tiếp, trẻ sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ thái độ, suy nghĩ, tình cảm của bản thân với mọi người xung quanh và để tiếp nhận, hiểu thái độ suy nghĩ tình cảm giao tiếp của người khác. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp cho trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học khác: Tạo hình, âm nhạc, toán… Vì vậy vai trò của người giáo viên hết sức quan trọng, cần phải có một kinh nghiệm, phải lập kế hoạch giáo dục và đưa ra các giải pháp cụ thể để có phương pháp tối ưu phát triền ngôn ngữ cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ phải được tiến hành một cách tích hợp và tự nhiên bắt đầu từ những ý tưởng kinh nghiệm gần gũi và có ý nghĩa đối với trẻ. Những kinh nghiệm của trẻ được biểu đạt trong một ngữ cảnh có nội dung, trẻ cần được làm quen với ngôn ngữ nói trong ngữ cảnh cụ thể thông qua các loại hình hoạt động phong phú như nghe, đọc, kể chuyện, đọc thơ, tham quan dạo chơi, quan sát các ký hiệu chữ viết, bảng biểu trong phòng nhóm, vui chơi, giao tiếp và các hoạt động học tập khác trong sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy, để nâng cao kiến thức và thực hành cho cán bộ, giáo viên trong nhà trường ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đã xây dựng kế hoạch một cách cụ thể, xác thực với điều kiện thực tế của nhà trường cũng như của địa phương. Sau khi xây dựng kế hoạch xong tôi đã đưa ra tập thể hội đồng sư phạm nhà trường bàn bạc, bổ sung thống nhất khẳng định mục tiêu, giải pháp thực hiện. Từ kế hoạch của nhà trường từng cán bộ giáo viên xây dựng kế hoạch cho cá nhân: Trong đó phải xác định rõ mục tiêu, nội dung, biện pháp, dự kiến thời gian thực hiện cụ thể cho năm học, cho từng chủ đề lớn, mạng nội dung, mạng hoạt động, kế hoạch tuần, kế hoạch ngày cũng như nội dung tích hợp lồng ghép giáo dục ngôn ngữ, làm đồ dùng, bổ sung trang thiết bị cho từng chủ đề, tuần phù hợp với từng chủ đề cụ thể, Xây dựng MTGD lấy trẻ làm trung tâm 6 trên cơ sở chỉ đạo của Sở, Phòng giáo dục đã triển khai. Từ đó nhà trường có kế hoạch kiểm tra các lớp thực hiện nội dung đã đề ra. * Kết quả: Đã có 8/8 lớp mẫu giáo xây dựng được kế hoạch giáo dục và đây cũng là tiêu chí đánh xếp loại thi đua giáo viên trong năm. Biện pháp 2: Nâng cao kiến thức về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho giáo viên. Phát triển ngôn ngữ là một trong 5 lĩnh vực phát triển toàn diện của trẻ mẫu giáo nên đã được nhà trường đặc biệt quan tâm chú trọng và đã tổ chức thực hiện trong nhiều năm, giáo viên đã nắm được kiến thức về phát triển ngôn ngữ cho trẻ và vận dụng vào hoạt động giảng dạy. Nhưng trong quá trình thực hiện giáo viên vẫn còn lúng túng trong việc tích hợp các môn học, chưa tích cực sáng tạo, vì thế trong năm học 2017-2018 Trường mầm non Nga Thái tiếp tục chỉ đạo quyết liệt, triển khai thực hiện nhằm giúp giáo viên nắm bắt và cập nhật thêm kiến thức mới phù hợp với yêu cầu của chương trình giáo dục mầm non lấy trẻ làm trung tâm. Ngoài việc tạo điều kiện cho giáo viên mẫu giáo được tham gia học tập các chuyên đề do Phòng giáo dục tổ chức, Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức sinh hoạt theo các hình thức sau: * Tổ chức hội thảo Để buổi hội thảo diễn ra sôi nổi và đạt hiệu quả cao, công tác chuẩn bị là vô cùng quan trọng. Vì vậy trước khi tổ chức, tôi phải soạn thảo và chuẩn bị nội dung câu hỏi có liên quan đến nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo để đưa ra tập thể giáo viên cùng thảo luận. Ví dụ: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là gì? Vì sao phải phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo? Mục tiêu giáo dục phát triển ngôn ngữ là gì? Nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo? Nội dung phát triển ngôn ngữ được tiến hành thông qua những hoạt động nào, thời điểm nào, hình thức nào? Để giúp trẻ hứng thú tham gia hoạt động phát triển ngôn ngữ bạn sẽ làm như thế nào?...Tích hợp nội dung phát triển ngôn ngữ vào các môn học và các hoạt động như thế nào? * Tổ chức dự giờ, thăm lớp. Đây là công tác được đánh giá thường xuyên của phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn bởi thông qua hoạt động này giúp giáo viên điều chỉnh, khắc phục kịp thời những hạn chế tồn tại mà giáo viên đang gặp phải. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch kiểm tra các hoạt động của nhà giáo, kiểm tra toàn diện, dự giờ đột xuất giáo viên để kịp thời uốn nắn, bổ sung những hạn chế tồn tại. Trước khi đi dự giờ, kiểm tra hàng năm vào đầu năm học nhà trường chỉ đạo giáo viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm dạy tiết mẫu. Ví dụ: Đối với khối mẫu giáo 4 - 5 tuổi tôi đã lựa chọn cô Trần Thị Duyên là giáo viên có chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm, là giáo viên giỏi cấp huyện dạy mẫu hoạt động cho trẻ làm quen với câu chuyện: “Niềm vui từ bát canh cải” nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 7 Đối với khối mẫu giáo 5 – 6 tuổi hoạt động dạy mẫu là cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đề tài: Dạy trẻ đọc thơ: “giữa vòng gió Thơm” do cô Nguyễn Thị Liễu đảm nhiệm và đề tài: Kể chuyện sáng tạo: Truyện: “Giấc mơ kỳ lạ” do cô Mỵ Thị Thúy thực hiện. Phụ lục 2. Sau khi giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn qua việc tổ chức các hoạt động dạy mẫu phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi mới tiến hành theo dõi, kiểm tra các hoạt động của nhà giáo theo qui định để điều chỉnh kịp thời. Ngoài ra, tôi còn chỉ đạo các tổ chuyên môn nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt chuyên môn đặc biệt là nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tham mưu với Hiệu trưởng nhà trường tổ chức cho giáo viên đi tham quan thực tế các trường trọng điểm trong huyện như: Trường mn Nga Giáp, MN Nga Yên, MN Thị Trấn. Thông qua các hình thức trên đã giúp giáo viên nắm chắc những mục tiêu, nội dung, phương pháp tổ chức thực hiện phát triển ngôn ngữ đến trẻ một cách có hiệu quả. Biện pháp 3: Chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là đưa đến cho trẻ một chân trời mới của nghệ thuật văn chương. Với trẻ mầm non văn học nói về thế giới cỏ cây hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên vũ trụ... giúp trẻ nhận biêt các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái tình huống và nhân vật. Thông qua giao tiếp hàng ngày, qua các bài thơ, câu chuyện, các bài ca dao, đồng dao, các trò chơi dân gian, làm quen với việc đọc viết... sẽ làm cho vốn từ của trẻ phát triển, mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh... Vậy làm thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất? Thực hiện vấn đề này tôi đã chỉ đạo giáo viên tổ chức thực hiện như sau: a. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe: Trẻ mẫu giáo chưa biết đọc. Trẻ thường cảm thụ bài thơ, câu chuyện thông qua giọng đọc và cảm xúc của người đọc. Chính vì vậy, trước khi kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe, tôi yêu cầu giáo viên, phải xác định rõ thể loại truyện, thơ, phải thuộc tác phẩm. Ví dụ: Đối với chuyện xác định được giọng đọc, giọng kể rõ ràng, phù hợp với giọng điệu tính cách của từng nhân vật; đối với thơ để giúp trẻ cảm thụ tốt ngôn ngữ của thơ thì phải thể hiện nhịp điệu âm điệu và sắc thái của bài thơ. Khi đọc giáo viên phải thể hiện bằng giọng đọc diễn cảm, nghệ thuật, bày tỏ được thái độ của mình đối với tác phẩm văn học từ nét mặt cử chỉ điệu bộ để tác phẩm truyền sang trẻ. Bên cạnh đó phải làm tốt công tác chuẩn bị: đồ dùng trực quan (tranh ảnh minh họa), môi trường kể chuyện, cách gây hứng thú...Và đặc biệt là hệ thống câu hỏi đàm thoại. Vì thông qua hệ thống câu hỏi đàm thoại của giáo viên sẽ giúp trẻ, tái tạo lại một cách có hệ thống các sự việc diễn ra. Tùy vào đối tượng trẻ để giáo viên có thể lựa chọn câu hỏi theo mức độ từ thấp đến cao, từ dễ đến phức tạp và nâng cao dần theo độ tuổi. 8 * Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua truyện kể Giáo viên phải xác định được giọng của từng nhân vật như: Giọng của chó Sói khi thấy Dê Trắng thì quát to thể hiện sự hống hách, kiêu ngạo; giọng của Dê Trắng thì nhút nhát, run sợ trước Sói; còn giọng của Dê Đen thì dũng cảm hiên ngang đầy thách thức. Qua đó sẽ giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ kể truyện và khắc sâu lời nói của từng nhân vật và xác định được sắc thái biểu cảm của nhân vật qua cử chỉ, ánh mắt điệu bộ thể hiện của giáo viên khi vào vai các nhân vật. Bên cạnh đó trong quá trình đọc thơ kể chuyện cho trẻ nghe tôi yêu cầu giáo viên phải kết hợp giải thích cho trẻ một số từ khó, từ mới trong vốn từ của trẻ. Hay để giúp trẻ tái tạo nội dung truyện, nhớ lại có hệ thống các sự việc diễn ra, cô giáo phải sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại. Ví Dụ: trong câu truyện “Ba cô gái” tôi đã yêu cầu giáo viên sử dụng các dạng câu hỏi phù hợp từng đối tượng trẻ. Với trẻ yếu, trung bình có thể đặt câu hỏi: + Các con vừa nghe cô kể câu truyện gì? Trong câu truyện bà mẹ sinh được bao nhiêu cô con gái? Khi bà mẹ ốm bà nhờ ai mang thư đến cho các con của bà? Vì sao Chị Hai bị Sóc biến thành nhện? Vì sao ? Khi nghe báo tin mẹ bị ốm, Chị Út làm gì? Với những trẻ khá hơn tôi đã chỉ đạo giáo viên nâng cao mức độ, sử dụng nhiều câu hỏi mở nhằm giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo. + Bà mẹ nhờ Sóc mang thư, theo con có cách nào khác báo tin cho các con của bà không? Khi bà ốm thì bà mong muốn điều gì? Các con sẽ làm gì nếu mẹ mình bị ốm? Ngoài ra tôi còn giúp giáo viên sử dụng các câu hỏi đòi hỏi trẻ phải sử dụng nhiều mẫu câu để trả lời như: Hành động nào con biết Chị Út rất thương mẹ? Trong 3 người con, con thích chị nào nhất? Vì sao? con có thể thay đoạn kết câu chuyện như thế nào? Con có thể đặt tên khác cho câu chuyện là gì?. * Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài thơ. Thơ ca là tinh hoa của ngôn ngữ, là kết tinh của tiếng mẹ đẻ. Biết bao điều của cuộc sống được diễn đạt trong thơ một cách giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh, làm nảy sinh trong lòng người đọc những tình cảm thiết tha với cuộc đời, những ước mơ trong sáng về tương lai. Đặc biệt thơ ca góp phần làm giàu nhân cách trẻ, góp phần vào giáo dục nghệ thuật, phát triển hoàn thiện ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy khi dạy thơ ca cho trẻ tôi đã chỉ đạo giáo viên cần chú ý đến những nội dung sau: Trước hết cần phải chọn bài thơ hay phù hợp với chủ đề, với cách cảm, cách nghĩ của từng độ tuổi, rồi đọc diễn cảm một cách tự nhiên, rõ vần điệu, nhịp điệu cho trẻ nghe, nhấn mạnh hình tượng trong các bài thơ nhằm giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ từng bài thơ. Ví dụ: Khi dạy trẻ bài Thơ: “Thăm nhà bà” 9 Tôi đã gợi ý cho giáo viên cần khai thác được hình ảnh đẹp trong bài thơ đó là “Đàn gà”, “Chú lật đật, chạy nhanh nhanh”, “Kêu chiếp chiếp, gà mải miết, nhặt thóc vàng” để làm toát lên trọng tâm của bài thơ. Hay với bài “Dán hoa tặng mẹ” Thì nội dung chính chứa đựng ở đây là món quà để tặng mẹ do chính mình làm ra và lòng biết ơn với cô giáo. Bên cạnh đó thì việc xác định giọng đọc cũng rất cần thiết yêu cầu giáo viên phải xác định được giọng điệu của bài thơ, ngắt nhịp rõ ràng, biết nhấn giọng vào những từ chứa đựng nội dung chính, có thể đọc to, đọc kéo dài ra một chút hay đọc lắng xuống và điều đặc biệt quan trọng là cách phát âm đúng, các thanh ( ? ) các âm đầu, các vần. Ví dụ: Bài thơ “Dán hoa tặng mẹ” Khi dạy bài thơ này giáo viên phải dạy trẻ ngắt nhịp 3/2 đối với dòng 1 và dòng 4. Nhịp 2/3 đối với dòng 2 và dòng 3. Cả bốn dòng thơ này chỉ có một câu loại ngắt dòng, nên tôi hướng dẫn giáo viên khi dạy trẻ nghỉ hơi ít ở mỗi nhịp, đến chỗ có dấu chấm câu nghỉ dài hơn. Ngoài những điều kiện trên thì khi đọc mẫu cô phải đọc diễn cảm, thể hiện điệu bộ bài thơ, tạo được sự hứng thú của bài thơ. Đồng thời giáo viên có thể thay đổi bằng hình thức ngâm thơ. Qua các bài thơ cô giáo cần giúp trẻ thấy được cái hay, cái đẹp, trong những vần điệu, nhạc điệu của bài thơ... khêu gợi được những xúc cảm của trẻ để hướng trẻ đến cái thiện, chân lý của cuộc sống, biết yêu thương chia sẻ với người khác. * Phát triển ngông ngữ qua các bài ca dao, đồng giao, các trò chơi dân gian... Mỗi hoạt động của trẻ đều có mục đích nhất định. Vì thế hoạt động nào cũng có tính chất riêng của nó. Nếu như ở hoạt động có chủ định được tổ chức nhằm cung cấp kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời giúp trẻ gần gũi với thiên nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên và phát triển thể chất...Vì vậy tôi đã yêu cầu giáo viên lựa chọn các bài ca dao, đồng giao các trò chơi vào các thời điểm trong ngày sao cho phù hợp. Đặc biệt những bài đồng giao thường gắn liền với trò chơi dân gian vì thế tổ chức thường xuyên cho trẻ được tiếp xúc thông qua các nội dung này sẽ làm cho vốn từ của trẻ được tăng nhanh, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Ví dụ: Trong giờ đón trả trẻ tôi đã chỉ đạo cho giáo viên cho trẻ nghe và đọc các bài ca dao mang tính giáo dục cao như: “Công cha như núi thái sơn”, “Bà còng”... Nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ khi đọc và giáo dục trẻ lòng biết ơn sâu sắc tới ông bà, cha mẹ. Hay trước giờ ăn giáo viên có thể cho trẻ đọc bài ca dao “Cái bống cái bang”. Với hoạt động góc chủ đề: Các hiện tượng tự nhiên cho trẻ đọc bài ca dao : “Tưới rau” “ Nu na nu nống”, “Kéo cưa lừa xẻ”, “Lộn cầu vồng”, “Rồng rắn lên mây”, “Chi chi chành chành”, “Dung dăng dung dẻ”, “Mèo đuổi chuột”... 10 Bên cạnh đó tôi còn phát động, khuyến khích chị em giáo viên tìm kiếm, sưu tầm các bài thơ, câu truyện, câu đố, ca dao đồng giao và đặt lời mới cho câu truyện, bài thơ...nhằm cung cấp thêm về thế giới xung quanh, phát triển ngôn ngữ thoả mãn nhu cầu của trẻ qua các chủ đề. Phụ lục 3 b. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động dạy trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện diễn cảm: Phát triển ngôn ngữ thể hiện rõ thông qua hoạt động dạy trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện diễn cảm. Vì vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên chủ yếu chú trọng khuyến khích trẻ đọc diễn cảm bài thơ, kể diễn cảm câu chuyện giúp trẻ không chỉ đọc đúng, đọc thuộc bài thơ mà còn đọc hay kể hay, đọc kể diễn cảm. Không những sử dụng ngữ điệu của giọng đọc mà còn kết hợp cả cử chỉ điệu bộ minh họa để làm tăng tính biểu cảm của bài thơ. Ví dụ: Khi trẻ đọc bài thơ “ông mặt trời óng ánh” trẻ vừa đọc thơ vừa bắt chước động tác mô phỏng tia nắng tỏa ra chiếu sáng hai mẹ con, trẻ nhíu mắt một cách đáng yêu để nhìn ông mặt trời; Bài “Đến thăm nhà bà” cho trẻ vừa đọc thơ vừa làm động tác gọi bập bập các chú gà con...Đồng thời giáo viên phải khéo léo lồng ghép giáo dục trẻ những bài học đạo đức rút ra qua bài thơ. Ví dụ: dạy trẻ đọc thơ “Làm Anh” cô giáo phải kết hợp nhắc nhở, giáo dục các con: làm anh chị phải độ lượng luôn nhường nhị và thương yêu em nhỏ. c. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi đóng kịch. Trò chơi đóng kịch được coi là một hoạt động vui chơi đặc biệt của trẻ mẫu giáo. Trò chơi đóng kịch không chỉ là phương tiện để phát triển năng lực sáng tạo, giáo dục thẩm mỹ giúp trẻ phát triển toàn diện, bồi dưỡng cho trẻ lòng nhân ái, những đức tính tốt đẹp mà còn phát huy ngôn ngữ mạch lạc, hình thành khả năng ghi nhớ có chủ đích, tạo cơ hội cho trẻ có khả năng hoạt động nghệ thuật ngay từ lứa tuổi mầm non. Chính vì vậy nên tôi đã chỉ đạo giáo viên hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi đóng kịch các tác phẩm văn học. Đây cũng là một hình thức giúp trẻ dễ dàng tiếp nhận từ ngôn ngữ viết sang ngôn ngữ kể. Vì ở lứa tuổi này trẻ chưa thể đọc được truyện và quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cần phải đa dạng hình thức và tổ chức thật sinh động. Vậy muốn hướng dẫn trẻ đóng kịch đạt hiệu quả tốt thì cần phải làm thế nào? Từ câu hỏi trên đã đặt ra, tôi đã tìm hiểu và đi sâu vào khai thác thể loại dạy trẻ đóng kịch và tôi đã nhận ra rằng muốn chỉ đạo giáo viên hướng dẫn trẻ đóng kich thật tốt thì các nội dung như: Lựa chọn tác phẩm văn học, chuyển dịch kịch bản, chuẩn bị trang phục, hoá trang, cảnh trí, âm thanh và đặc biệt là rèn luyện kỹ năng thể hiện ngôn ngữ và hành động của các nhân vật là điều vô cùng quan trọng và cần thiết khi dạy trẻ đóng kịch. - Lựa chọn truyện, chuyển thể kịch bản. Các tác phẩm giáo viên lựa chọn để đóng kịch cần phải, viết ngắn gọn, xúc tích và phải có tính kịch, có mâu thuẫn, xung đột giữa các nhân vật không nên có quá nhiều nhân vật. Đặc biệt các tác phẩm được lựa chọn phải đáp ứng được yêu cầu giáo dục: Giáo dục tình yêu quê hương, yêu đất nước, tình cảm gia đình, cách đối nhân xử thế, bộc lộ tính cách của từng nhân vật phải rõ ràng phù 11 hợp qua hành động và ngôn ngữ. Qua đó giúp trẻ biết thực hiện được một số quy tắc thông thường trong giao tiếp. Ví dụ: Những câu chuyện có tính kịch cao đó là Truyện kể: “Chú dê đen”; “Tích chu”; “Ba cô tiên”; “cây táo thần”; “Quả bầu tiên”... Đó là những câu chuyện có nội dung giáo dục tốt, có tính kịch cao, ngôn từ ngắn gọn dễ hiểu, mà giáo viên trường tôi đã lựa chọn khi dạy trẻ đóng kịch. Tôi thấy phù hợp và cho chuyển thể thành kịch bản: Xác định số lượng và tính cách các nhân vật, xác định tính chất ngôn ngữ của nhân vật. Phụ lục 4. - Khi chuyển thể thành kịch bản cho phép giáo viên có thể thêm hoặc bớt tình tiết và nhân vật nhưng vẫn đảm bảo nội dung trọng tâm kịch bản. Một vở kịch có thể có từ 3-4 nhân vật chính nếu quá ít nhân vật thì vở kịch trở nên tẻ nhạt nhưng nếu quá nhiều thì sẽ trở nên lộn xộn, không trọng tâm làm phân tán chú ý của trẻ khi tham gia đóng kịch. Ví dụ: Trong câu chuyện “Chú dê đen” truyện kể mở đầu có đoạn: “Có một chú dê trắng đi vào rừng kiếm lá non để ăn, nước suối mát để uống...” Nhưng khi chuyển thể sang kịch bản giáo viên có thể chuyển thành “Dê trắng vừa đi vùa hát: la la la ..trời hôm nay trong xanh/suối róc rách reo quanh/ta vào rừng cho nhanh/ Hái những lá cây xanh/ la la la..Chà, ở đây có nhiều lá non và nước suối mát quá! Mình phải ăn uống một bữa no say mới được ...” Hay đoạn kể “chú Dê Đen đang đi tới một khu rừng kiếm lá non để ăn, nước suối mát để uống...” thì chuyển thể thành kịch bản: “Dê Đen vừa đi vừa hát: Ta là chú Dê Đen/ Thích chén lá cây non/Thích tung tăng chạy nhảy/Trên vách núi chon von/ Ta là chú Dê Đen/ ăn no bụng căng tròn/ Lăn ra làm một giấc/ Trên vách núi chon von/Be...be...be...be...” Như vậy khi xem người nghe có thể nhận ra đây là lời độc thoại của nhân vật với khán giả. Cuối câu chuyện dẫn chuyện nhằm giáo dục trẻ: “các bạn ơi! Thế là chú Dê Đen thông minh dũng cảm đã đuổi được chó sói gian ác rồi. Người thông minh dũng cảm bao giờ cũng chiến thắng đúng vậy không các bạn? - Rèn luyện kỹ năng thể hiện ngôn ngữ và hành động nhân vật cho trẻ. Muốn giúp trẻ nắm được vai diễn của mình tôi đã chỉ đạo giáo viên tạo điều kiện thật tốt cho trẻ hiểu tác phẩm, hiểu về vai mình đóng, đồng thời cho trẻ luyện tập vai diễn của mình. Ngôn ngữ của nhân vật phải ngắn gọn, đủ ý, dễ hiểu, chuyển tải đủ nội dung. Câu đối thoại phải có đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ, rõ ràng mạch lạc, cần loại bỏ những từ ngữ không phù hợp nhưng vẫn không làm thay đổi ngữ điệu và tính cách nhân vật. Khi hướng dẫn trẻ đóng kịch cần chú ý sửa sai cho những trẻ nói ngọng, nói lắp, trẻ nói tiếng địa phương…Luyện cho trẻ cách thể hiện ngữ điệu, giọng điệu của các nhân vật. Cần nhấn mạnh vào các từ cần nhấn mạnh trong các câu nói của nhân vật. Ví dụ: Câu nói của lão địa chủ trong truyện “Quả bầu tiên” trong đoạn thả chim én lên trời: “...Bay đi én con, mau hãy mang hạt bầu tiên về đây cho ta...” Thể hiện sự độc ác tham lam của lão địa chủ. Đi liền với ngôn ngữ là cử chị điệu bộ, nét mặt luôn đóng vai trò quan trọng làm nổi bật tính cách nhân vật tạo nên sự sinh động hấp dẫn của vở kịch. 12 Ví dụ: Đóng vai én đoạn én con bị tên địa chủ bẻ gãy cánh : Thể hiện vẻ mặt đầy hận thù “Tên địa chủ đọc ác! Hắn đã hại mình lại còn vờ vĩnh thương hại” ( Hình ảnh: Trẻ MG 5 - 6 tuổi chơi trò chơi đóng kịch “ Mèo đi câu cá”) Trong các ngày lễ hội tôi chỉ đạo cho giáo viên tổ chức cho trẻ có thể tham gia đóng kịch, diễn rối, đọc thơ, kể chuyện diễn cảm theo kịch bản sẵn có hoặc khuyến khích trẻ sử dụng kinh nghiệm, kỹ năng ngôn ngữ sẵn có của mình phù hợp với vai diễn của nhân vật và bối cảnh của câu chuyện để trẻ luôn luôn Mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, phát triển ngôn ngữ nói. d. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua kể chuyện sáng tạo. Kể chuyện sáng tạo có thể là hiện thực qua tranh ảnh, đồ dùng đồ chơi hoặc có thể là chuyện cổ tích, tiếp nối câu chuyện của cô... Chính vì vậy tôi đã chỉ đạo cho giáo viên thường xuyên kể trong các hoạt động hàng ngày đặc biệt là qua hoạt động đón trả trẻ, hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, mục đích nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc logic chặt chẽ và phát huy khả năng sáng tạo của trẻ đồng thời phát triển khả năng chú ý. Những đề tài dạy trẻ kể chuyện sáng tạo thường là những đề tài gần gũi và quen thuộc với trẻ nhưng muốn để trẻ tự tin, mạnh dạn trong khi kể và kể theo một trình tự nhất định thì giáo viên phải là người hướng dẫn đắc lực nhất. Tôi hướng dẫn giáo viên khi tổ chức cho trẻ kể truyện sáng tạo theo tranh Ví dụ: khi cô cho trẻ kể chuyện sáng tạo về câu chuyện “chú Dê Đen” trước tiên cô phải hướng sự chú ý của trẻ bằng những tình huống hấp dẫn như: “Có một chú Dê Trắng đang đi tìm ăn những chiếc lá non và uống nước suối mát, Bất chợt…” Cô tạo tình huống chỗ thắt nút và dừng để hỏi trẻ “các con nghĩ điều gì sẽ xảy ra?” nhằm giúp trẻ suy nghĩ và xây dựng ý tưởng, nội dung tiếp theo của câu truyện; giúp trẻ xây dụng bố cục diễn biến, các hành đồng tiếp theo của câu truyện; hướng đến giúp trẻ thể hiện thái độ tình cảm của mình vào câu truyện. Cô sẽ trò truyện và đàm thoại với trẻ để đưa ra câu hỏi gợi mở như: - Con gì xuất hiện?Thái độ của nó như thế nào? Nó quát Dê Trắng như thế nào?Dê Trắng đáp lại ra sao?Thái độ của Dê Trắng như thế nào?Cuối cùng Dê Trắng bị làm sao?Nếu là con con sẽ như thế nào khi thấy Sói? 13 Cô dẫn truyện“Có một chú Dê Đen cũng đi tới khu rừng đó để tìm ăn những chiếc lá non và uống nước suối mát, Thấy Dê Đen đi qua nó quát hỏi….” - Dê Đen đã bình tĩnh trả lời như thế nào?Sói xám lại rụt rè hỏi gì?Dê Đen dõng dạc trả lời ra sao?Sói Xám run run hỏi tiếp những gì?Dê Đen quát to như thế nào?Cuối cùng Sói Xám đã phải như thế nào?..... Lúc này cô để cho trẻ tha hồ kết thúc truyện: -“Sói xám sợ quá há rộng mồm, thế là Dê Trắng từ trong bụng Sói Xám nhảy ra”; -“Sói Xám hỏang sợ chạy thẳng vào rừng sâu, không giám quay trở lại nữa. Còn Dê Đen và Dê Trắng lại tiếp tục đi tìm lá non để ăn và nước suối mát để uống”; -“Dê Đen tiến thẳng vào Chó Sói cắm đôi sừng nhọn hoắt vào bụng Chó Sói, Chó Sói sợ quá liền cút thẳng vào rừng”. Cô khái quát lại các hướng giải quyết hành động khác nhau mà trẻ định hướng cho câu truyện của trẻ. Cho trẻ tự kể truyện và cô là người nhận xét đánh giá. * Kể chuyện theo tranh: Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, qua đó giáo dục tình cảm xã hội, biết yêu thương chia sẻ với những người xung quanh. Ở biện pháp này tôi chỉ đạo giáo viên cần chuẩn bị tranh theo chủ đề mà trẻ đang học. Cô đàm thoại: Đối với trẻ mẫu giáo bé thì cô sử dụng câu hỏi có tính chất liệt kê các nhân vật, đồ vật, đặc điểm và hành động được miêu tả trong tranh như: “Ai đây?” “Cái gì đây” “Màu gì?” “Đang làm gì?” Khi đàm thoại giáo viên có thể kết hợp với trò chơi ngôn ngữ nhằm kích thích trẻ quan sát các nhân vật và chú ý lắng nghe lời nói của cô. Đối với mẫu giáo nhỡ: ngoài các câu hỏi như ở mẫu giáo bé, giáo viên đặt câu hỏi có tính tổng hợp hơn, yêu cầu mô tả và giải thích hiện tượng xảy ra. Đối với mẫu giáo lớn bổ sung các câu hỏi yêu cầu trẻ mô tả sắc thái tình cảm(vui, buồn, ngạc nhiên…) của các nhân vật. Ví dụ: Khi kể chuyện theo tranh ở chủ đề: “Gia đình” Đầu tiên cô cho trẻ xem tranh về gia đình. Trao đổi với trẻ về chủ đề, cô kể mẫu “Gia đình nhà ban Hải Yến có 4 người. Bố, mẹ, chị và Hải Yến. Trong gia đình, người mà Hải Yến yêu qúi nhất đó là mẹ. Mẹ Hải Yến dịu dàng và yêu thương Haỉ Yến rất nhiều...”Sau đó cô cho trẻ kể về gia đình của mình… Chỉ đạo giáo viên thường xuyên sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại để gợi nhớ về chủ đề trong tranh và câu chuyện cô vừa kể bằng hệ thống câu hỏi mở để trẻ khắc sâu nhân vật và nội dung của chủ đề cần kể. Việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo có hiệu quả phát triển lời nói mạch lạc nếu thực hiện thường xuyên và liên tục góp phần làm giàu vốn từ, kinh nghiệm sống và khả năng tư duy của trẻ. * Kết quả: - Cán bộ giáo viên đã nắm bắt vững vàng nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ và vận dụng linh hoạt vào chương trình giáo dục trẻ đáp ứng được mục đích yêu cầu của mầm non mới hiện nay. - 100% Các cháu hứng thú khi tham gia các hoạt động phát triển ngôn ngữ 14 + Mạnh dạn, tự tin khi tham gia đóng kịch. + Nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp hàng ngày. + 100% Trẻ thích tham gia vào trò chơi - 100% cán bộ giáo viên tham gia tìm kiếm, sưu tầm, sáng tác, đặt lời mới cho các bài hát dân ca, ca dao, đồng dao, các trò chơi dân gian. - 10/10 lớp làm đồ dùng bổ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động phù hợp với chủ đề (Rối, sa bàn, mô hình, xây dựng VideoClíp cho các hoạt động truyện kể, đọc thơ...) từ các nguyên vật liệu mở. Biện pháp 4: Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm Xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm nhằm giúp trẻ học ngôn ngữ như một họat động vui chơi. Môi trường phát triển ngôn ngữ tôt có nghĩa là phải đáp ứng được nhu cầu, sở thích của trẻ, trò chuyện tích cực tạo cơ hội để trẻ giao tiếp với nhau, với giáo viên, với những người xung quanh. a. Chỉ đạo giáo viên phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua môi trường chữ viết trong lớp học và ngoài lớp học: Đối với trẻ mẫu giáo, môi trường là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm kích thích cho trẻ hứng thú tham gia hoạt động. Trang trí sắp xếp phòng, lớp các góc chơi đảm bảo thẩm mỹ, thân thiện, an toàn, phù hợp với nội dung giáo dục, có các đồ dùng đồ chơi nguyên vật liệu đa dạng phong phú hấp dẫn trẻ sẽ tạo được môi trường ngôn ngữ để trẻ tương tác và phát triển các kỹ năng ngôn ngữ. Vì thế tôi đã chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường tại lớp mình theo phương pháp Động - Tĩnh với hình ảnh ngộ nghĩnh, màu sắc phong phú nội dung phù hợp với từng chủ đề, trong mỗi góc, dưới mỗi hình ảnh đều có chữ viết kèm theo. Việc trang trí lớp vừa làm đẹp cho phòng học vừa tạo cho trẻ có điều kiện trải nghiệm được làm quen với chữ viết ở trong tranh hình thành kỹ năng đọc sớm: đọc từ trái sang phải; kỹ năng vận động tinh: mở sách lật từng trang, chỉ theo tranh hoặc dòng chữ; Kỹ năng giao tiếp: lắng nghe cô và bạn kể chuyện, bắt chước những từ hoặc câu nói trong truyện, tự kể lại truyện; trả lời những câu hỏi trong truyện, học từ mới trong truyện; kỹ năng nhận thức: nhớ được cốt truyện và tự kể lại truyện, dự đoán diễn biến sẽ xảy ra tiếp theo của câu chuyện, liên hệ câu chuyện với các kinh nghiệm khác. Ví dụ: Chỉ đạo giáo viên bố trí Góc Sách Truyện gần nơi có nhiều ánh sáng, yên tĩnh ít người qua lại. Vì góc sách trong lớp học mầm non là điều cần thiết góp phần tinh chỉnh khả năng đọc và hơn nữa các kỹ năng ngôn ngữ của trẻ về các phát âm và ngữ pháp. Ở đó trẻ có thể thực hiện hoạt động học, viết tự do. Hình thành góc đọc hấp dẫn với những cuốn sách yêu thích của trẻ, tranh truyện chữ to, thơ chữ to, các bài ca dao, đồng giao, truyện kể sáng tạo, truyện cổ tích, truyện dân gian Việt Nam và một số tranh ảnh, tạp chí khác phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của trẻ, cô khuyến khích trẻ mang những cuốn sách hay từ nhà đến lớp để cùng chia sẻ. Có thể đặt một cái đài ở góc sách, có những chiếc băng đọc chuyện và những quyển truyện tương ứng và cô chuẩn bị thêm những chiếc bút 15 chì màu và bút màu và giấy cho trẻ tự do viết một mình. Bố trí sách ở nơi vừa với tầm của trẻ. Ngoài ra, tôi chỉ đạo giáo viên cùng với trẻ tự sáng tạo cùng làm những đồ dùng tự tạo để trang trí góc sách. Những khung rối làm từ các vỏ thùng catton, những cuốn sách làm từ bìa lịch cũ, những con rối que, rối bóng, rối ngón tay cho trẻ diễn rối, tập đóng kịch…góp phần làm cho góc sách thêm sinh động và ngộ nghĩnh. Khuyến khích trẻ cùng cô trang trí, sắp đặt các đồ dùng trong góc theo ý thích phù hợp dễ lấy dễ thấy dễ cất, dễ sử dụng. Trong lớp học tôi chỉ đạo giáo viên có thể tạo môi trường chữ viết xung quanh trẻ thông qua ghi tên các góc chơi, tên các đồ dùng đồ chơi ở các góc, ghi tên của trẻ trên các sản phẩm đồ dùng của trẻ như: Ba lô, khăn mặt, bàn chải đánh răng, ca cốc.. Phụ lục 4 (Hình ảnh: Xây dựng MT trong lớp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ) Ngoài ra tôi còn chỉ đạo giáo viên có thể sáng tạo làm thêm các đồ chơi và tổ chức chơi các trò chơi luyện kỹ năng nghe- nói cho trẻ như: Nói chuyện vòng tròn, đối tác chuyện trò, bảng nói chuyện hàng ngày (ngày/tháng/thời tiết/sinh nhật), xúc xắc kỳ diệu, trò chơi đóng vai, bàn cờ chữ cái, cánh cửa kỳ diệu, tập làm phóng viên,…Các trò chơi luyện kỹ năng đọc viết như: Ngân hàng từ, Biểu đồ vần, tạo chữ viết sáng tạo, những ô cửa bí mật, hòm thư của lớp, chiếc thảm kỳ diệu,…Các bài tập thực hành cuộc sống giúp trẻ phát triển ngôn ngũ như: xâu chữ cái thành tên, xếp hột hạt tạo thành các chữ, tìm và kẹp các chữ cái, gắp hạt xâu vòng tạo thành các nét chữ, vẽ tô màu chữ cái… (Hình ảnh: trẻ chơi trò chơi với chữ cái “xúc xắc kỳ diệu”) Môi trường ngoài lớp: Mỗi cây cối, đồ vật đều được gắn các từ riêng: Cây đa, cây vú sữa, cây phượng, thùng đựng rác… tạo môi trường chữ có kèm hình 16 ảnh không những cho trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh mà còn cung cấp được vốn từ, cho trẻ một cách nhanh nhất cụ thể nhất. Phụ lục 4 (Hình ảnh: Xây dựng môi trường ngoài lớp giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ) * Kết quả: 100% giáo viên nắm vững nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ và biết vận dụng nội dung của chuyên đề vào giảng dạy một cách linh hoạt. 8/8 lớp mẫu giáo xây dựng được môi trường chữ viết.100% cán bộ giáo viên tham gia sưu tầm các bài hát, bài thơ, ca dao, đồng dao, làm bổ sung đồ dùng đồ chơi phục vụ các chủ đề. b. Chỉ đạo giáo viên phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua môi trường xa hội: Tôi luôn chú trọng chỉ đạo giáo viên tạo môi trường xã hội thuận lợi để cho trẻ thường xuyên được giao tiếp, tương tác thể hiện mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên với trẻ, trẻ với trẻ, giữa trẻ đối với những người xung quanh. Giáo viên cần tạo môi trường giao lưu ngôn ngữ tích cực cho trẻ. Giáo viên cần thường xuyên trò chuyện với trẻ và khuyến khích trẻ nói. Khi trẻ gặp khó khăn hay tâm lý ngập ngừng nhút nhát thì cô cần khích lệ hỗ trợ động viên để trẻ tích cực trò chuyện. Khi giao tiếp với trẻ cô cần phải có giọng nói dịu dàng, thái độ bằng ánh mắt trìu mến, tình cảm nồng ấm gần gũi với trẻ khiến trẻ tự tin hơn. Đồng thời cô phải chú ý lắng nghe, nhiệt tình đáp lại những lời nói, trả lời câu hỏi của trẻ. Khi trả lời câu hỏi của trẻ nên nhắc lại những từ do chính trẻ nói ra. Cô cố gắng giúp trẻ nói câu đúng và đầy đủ. Nội dung trò chuyện là những vấn đề gần gũi, quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày. Cô luôn giao tiếp và trao đổi với trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tại mọi thời điểm trong ngày như đón trả trẻ, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc,… và ở cả những hoạt động học khác như giờ âm nhạc, chữ cái, KPKH, tạo hình…Cô luôn tạo cơ hội cho trẻ bằng cách đặt câu hỏi để kích thích sự tò mò và tập cho trẻ thích nói. Ví dụ: Hoạt động đón trả trẻ thì cô luôn giáo dục trẻ biết chào hỏi lễ phép đối với người lớn như ông, bà, bố, mẹ, cô giáo, anh chị…..ngoài ra tôi còn sưu tầm bài thơ “Khuyên bé” để cho trẻ học thuộc và nhằm giáo dục trẻ biết yêu mọi thứ khi đến trường. Ví dụ: Với hoạt động ngoài trời. Khi cho trẻ đi dạo chơi, thăm quan, thăm vườn thiên nhiên. Cô đặt câu hỏi và trao đổi với trẻ: Trong vườn có những loại hoa gì? Đặc điểm của mỗi loại 17 hoa... Ngoài ra tôi còn giáo dục cho trẻ biết yêu thiên nhiên thông qua bài thơ sưu tâm: “Đừng nhé bé ơi” “trồng cây” Khi đi tham quan vườn cổ tích, cô giáo phải tích cực đàm thoại với trẻ về nhân vật trong vườn cổ tích. Nhân vật ấy có trong truyện nào? Có tính cách ra sao? Nhân vật ấy đáng yêu hay đáng ghét, đáng khen hay đáng chê?....Qua đó để phát triển vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ một cách tích cực vì trẻ được nhớ lại truyện và nhân vật trẻ đã được học. Đối với khu vực chơi với cát nước thì trẻ được trải nghiệm, thông qua đó trẻ được đánh giá, nhận xét, kể lại những hiện tượng trẻ đã được trải nghiệm như: vật chìm vật nổi, dòng chảy của nước, cát sỏi có thể tạo thành các nét chữ hình các con vật...nhờ bàn tay khéo léo của trẻ...Để phát triển được vốn từ cho trẻ thì cô có một vai trò quan trọng là luôn luôn dùng câu hỏi mở để kích thích ngôn ngữ nói cho trẻ. Ví dụ: Với hoạt động góc. Trong quá trình tổ chức chơi ở các góc tôi đã gợi ý, trao đổi cùng giáo viên để đưa ra biện pháp phát triển ngôn ngữ cho phù hợp. Tập cho các cháu giao tiếp, trao đổi với nhau, để chọn món, chọn thực phẩm và biết trong đó giàu chất gì?... Ví dụ: Ở góc thư viện tôi cùng giáo viên hướng dẫn trẻ làm album trong đó ghi những câu ca dao tục ngữ mà trẻ đã biết. Ngoài ra chúng tôi còn viết tiếp ở trong đó những câu ca dao, tục ngữ, câu chuyện, bài thơ mới. Từng trẻ có thể mang album về nhà, những câu ca dao, tục ngữ, câu chuyện, bài thơ mới sẽ được cha mẹ viết tiếp hoặc vẽ những bức tranh theo những câu ca dao, tục ngữ... ấy. Sau đó trẻ mang đến lớp trao đổi với nhau về những câu ca dao tục ngữ mới đã biết và cô giáo đọc cho cả lớp nghe, dạy trẻ những câu ca dao, tục ngữ đó... Khuyến khích trẻ đọc theo trí nhớ, có thể cho trẻ chơi trò chơi “ Cô giáo” trẻ đóng vai cô giáo và kể truyện cho học sinh nghe (những câu truyện trẻ đã được làm quen Ví dụ: Ở góc phân vai Giáo viên cho trẻ tập vào vai các nhân vật mang các loại rau củ quả phát triển khả năng kể chuyện sáng tạo như: Tôi là “Rau thìa là” một loài rau có lá rất nhỏ, tôi mang trong mình rất nhiều Vitamin và muối khoáng đấy các bạn có thể chế biến tôi thành nhiều món ăn khác nhau như: Xào, luộc đặc biệt là nấu canh cá khoai thì ngon tuyệt đấy các bạn ạ. Còn tôi tên gọi là “Quả cà chua” mình tròn, màu đỏ nhưng tôi lại cung cấp rất nhiều Vitamin đấy nhé.... Với hoạt động tạo hình: Trong hoạt động này cô sử dụng các loại câu hỏi để giúp trẻ hiểu nghĩa của từ. Ví dụ: Con hãy vẽ cho cô 3 quả cam, một quả tô màu đỏ, một quả tô màu xanh, một quả tô màu vàng. Hay trong bài tập nhận biết cô giáo đưa cho trẻ một bài tập và yêu cầu trẻ thực hiện: Các con hãy vẽ cho cô một đàn cá đang bơi, bơi đầu đàn là cá mẹ to nhất, bơi tách rời là đàn cá con. đằng sau cá mẹ là những con cá nhỏ hơn. 18 Cùng với sự hướng dẫn của cô chúng sẽ dần hiểu nghĩa được các từ khái niệm. * Với hoạt động cho trẻ làm quen với chữ viết. Tôi yêu cầu giáo viên phải phát âm chính xác các từ, các câu, các âm tiết tiếng việt đặc biệt là các âm tiết khó: L, n, tr, ch, s, x Cần phải phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi: Để luyện phát âm cho. Muốn vậy đòi hỏi mọi giáo viên phải nắm vững khả năng phát âm, khả năng của từng trẻ và lựa chọn thời điểm thích hợp. Ngoài ra tôi còn chỉ đạo giáo viên trao đổi, tuyên truyền với phụ huynh cùng phối hợp trong công tác nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Phụ lục 5 * Kết quả: 100% giáo viên phát âm chuẩn các âm tiếng Việt. biết vận dụng, lồng ghép chuyên đề tích hợp vào các hoạt động khác, mọi lúc mọi lúc, mọi nơi. - 96 % trẻ hứng thú tham gia tích cực vào các hoạt động. 100% Trẻ 5 tuổi nắm chắc 29 chữ cái, không nói ngọng, nói lắp. Biện pháp 5: Chỉ đạo giáo viên phối kết hợp với phụ huynh nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Công tác phối hợp với phụ huynh là đặc biệt quan trọng vì thế để giáo viên có kỹ năng tuyên truyền, trình bầy chuyển tải nội dung chuyên đề đến phụ huynh một cách tự tin, lưu loát, thuyết phục làm cho phụ huynh hiểu vấn đề tôi đã hướng dẫn giáo viên soạn thảo nội dung tuyên truyền sao cho thiết thực, phù hợp với nhận thức của từng phụ huynh. Muốn làm được điều đó giáo viên phải vững vàng lập trường quan điểm, nắm vững vấn đề cần truyền đạt, để có thể giải đáp những thắc mắc của phụ huynh. Đồng thời phải luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của phụ huynh có như thế mới tạo được lòng tin đối họ để họ có thái độ hợp tác trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ. - Giáo viên có thể đề nghị cha mẹ cùng góp sách cũ. Hàng ngày, trẻ có thể mượn sách mang về nhà, khích lệ các gia đinh liên tục đọc cho trẻ nghe hoặc tạo hứng thú xem sách cùng với trẻ. Khi cho trẻ mượn sách, bố (mẹ) ghi lại tên sách, ngày mượn, ngày trả vào một quấn sổ nhỏ (hoặc vào một bảng). Nhắc bố mẹ trẻ nếu chẳng may bị sách sách thì cần dán lại (cùng làm với trẻ) rồi mới trả. - Vận động phụ huynh tìm kiếm, sưu tầm các bài hát, bài thơ, ca dao đồng dao cho trẻ mầm non. Ủng hộ về vật chất để mua sắm trang thiết bị dạy học... - Hàng ngày vào những giờ đón trả trẻ. Nhà trường thường mở đĩa VCD các bài hát, các bài thơ câu chuyện... có nội dung giáo dục phù hợp với đặc điểm của trẻ, phù hợp chủ đề. Để phụ huynh hiểu và hợp tác trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. * Kết quả: 100% giáo viên có kỹ năng tuyên truyền. 97% Phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Tìm kiếm và sưu tầm được 69 bài thơ, ca dao, đồng dao, các bài hát, trò chơi dân gian. Ủng hộ 15.000.000đ mua sắm máy 2 máy vi tính, 2 ty vi cho cô giáo và các cháu hoạt động. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan