Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm ...

Tài liệu Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non trên địa bàn huyện vĩnh lộc tỉnh thanh hóa.

.PDF
23
20
134

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thấm mỹ, giúp trẻ mạnh dạn tự tin, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ấn của trẻ [1]. Trẻ không thể tiếp thu các kiến thức một cách bài bản, có hệ thống như trẻ ở Phổ thông. Vì thế cần tạo cho trẻ môi trường để trẻ được hoạt động, trải nghiệm, vui chơi, từ đó trẻ có thể tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên hơn. Trẻ lứa tuổi mầm non việc học của trẻ được thông qua hình thức “học mà chơi, chơi mà học” trẻ có mong muốn tự nhiên là được cảm nhận và khám phá một cách tích cực về thế giới. Quá trình học hỏi, khám phá của trẻ diễn ra thông qua nhiều hoạt động trong đó hoạt động vui chơi có ý nghĩa rất quan trọng. Vui chơi không chỉ là hoạt động giúp trẻ giải trí, thư giãn mà còn giúp trẻ cảm nhận và khám phá thế giới xung quanh một cách tự nhiên, thuận lợi, nhanh chóng. Tất cả trò chơi đều có tiềm năng hỗ trợ cho việc học của trẻ [2]. Ớ mỗi giai đoạn phát triển của trẻ đều có những đặc điểm tâm lý khác nhau cha mẹ và cô giáo cần hiểu rõ được đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ để có những phương pháp giáo dục phù hợp để định hướng và giúp trẻ phát triển đúng theo từng giai đoạn.Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo thích khám phá những điều mới lạ và hay tò mò. Trong giai đoạn này trẻ rất muốn khám phá thế giới xung quanh, tò mò và liên tục thắc mắc đặt nhiều câu hỏi với cha mẹ, với cô giáo. Trẻ giao tiếp và thích bắt trước tập làm người lớn, trẻ thích được tự lập. Vì vậy việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là vô cùng quan trọng đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ. Trong những năm qua, việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đã được các cấp quản lý từ trung ương, địa phương từng bước quan tâm đặc biệt Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Hướng dẫn thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” trong năm học 2016 - 2017. Đặc biệt trong năm học 2017-2018 Sở GD&ĐT đã có kế hoạch chỉ đạo tổ chức cuộc thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non”; thực hiện kế hoạch chỉ đạo của Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT Vĩnh Lộc đã xây dựng kế hoạch năm học, kế hoạch chỉ đạo tổ chức cuộc thi cấp trường, cấp huyện để lựa chọn sản phẩm video của những đơn vị xuất sắc tham dự cuộc thi cấp Tỉnh. Việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động nói chung là việc làm đã được cán bộ, giáo viên các trường mầm non thực hiện từ lâu, nhưng trên thực tế tại các trường mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh lộc nhìn chung việc tạo môi trường mới chỉ mang tính hình thức để trang trí theo đúng chủ đề đang thực hiện và việc xây dựng đó chưa xuất phát từ trẻ, chưa kích thích tính tò mò, khám phá của trẻ, khi học và chơi trẻ đang còn rất thụ động; phụ huynh cũng như các lực lượng xã hội còn chưa quan tâm, chưa nhận thức được tầm quan trọng của môi trường giáo dục đối với sự phát triển của trẻ. Đứng trước nhiệm vụ, kế hoạch đã đề ra trong năm học 2017 – 2018 và thực tế tại các trường mầm non trong huyện, để thực hiện tốt nhiệm vụ và đạt được kế hoạch đã đề ra và để thực hiện có hiệu quả chuyên đề “Xây dựng trường 1 mầm non lấy trẻ làm trung tâm” và để kết quả Cuộc thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” thực sự có chất lượng và đạt kết quả cao ở các cấp là một điều hết sức khó khăn. Trước tình hình đó, bản thân là một người chỉ đạo về chuyên môn của bậc học tôi rất trăn trở và muốn tìm ra giải pháp để chỉ đạo các trường mầm non thực hiện đảm bảo đầy đủ các tiêu chí của nội dung “ Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”, tôi mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra “Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc - tỉnh Thanh hóa”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Nhằm nâng cao năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non. - Giúp cán bộ quản lý, giáo viên các trường mầm non xây dựng môi trường giáo dục mang tính “mở” để tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động, trải nghiệm, học tập qua chơi bằng nhiều cách khác nhau phù hợp với nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ giúp trẻ phát triển toàn diện; - Phát huy tính sáng tạo, sự kiên trì, tính kheó leó của giáo viên và trẻ. - Huy động được các nguồn lực từ phụ huynh và xã hội cùng tham gia vào việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non góp phần thực hiện có hiệu quả chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận để chọn đề tài và tiến hành các biện pháp; - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin để lấy số liệu thống kê về tình hình thực tế trước và sau khi áp dụng các biện pháp; - Phương pháp quan sát: + Quan sát thực tiễn xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong các trường mầm non; + Quan sát quá trình xây tham gia xây dựng môi trường giáo dục và hoạt động của giáo viên và học sinh. - Phương pháp đàm thoại: + Đàm thoại trực tiếp với cán bộ quản lý và giáo viên các trường mầm non; + Giảng giải qua các buổi tập huấn, chuyên đề. - Phương pháp thực hành: + Thực hành thí điểm tại một số nhóm lớp ở một số trường trọng điểm; + Thực hành qua triển khai chuyên đề và qua việc tổ chức cuộc thi “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non”. - Phương pháp kiểm tra, đánh giá: Để thu thập kết quả thực hiện. 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 2.1. Cơ sở lý luận: Xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non là vô cùng quan trọng và cần thiết. Để đảm bảo nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng chủ đề thì yêu cầu người chỉ đạo chuyên môn chung của bậc học, cán bộ quản lý các nhà trường, đội ngũ giáo viên phảỉ xác định rõ mục đích, vai trò, nắm vững nguyên tắc, quy trình, nội dung xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non. Môi trường là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ. Trong lớp học không thể thiếu những mảng trang trí, những góc chơi của trẻ, do đó để lớp học thêm lôi cuốn trẻ giáo viên cần tạo nên một môi trường lớp học với những màu sắc sinh động, đồ dùng đa dạng bắt mắt... Môi trường có không gian, cách sắp xếp phù hợp, thuận tiện, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ; phản ánh kinh nghiệm, văn hóa của địa phương; luôn thay đổi để tạo ra sự hấp dẫn mới lạ đối với trẻ [3]. Căn cứ vào tài liệu hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non từ 3-36 tháng tuổi, 3-4 tuổi, 4-5 tuổi, 5- 6 tuổi của nhà xuất bản giáo dục Việt Nam: Tổ chức môi trường giáo dục hoạt động của trẻ trong trường, nhóm, lớp có vai trò quan trọng đối với sự phát triển về thể chất, ngôn ngữ, trí tuệ, tình cảm – xã hội, khả năng thẩm mỹ, sáng tạo của trẻ. Vì vậy xây dựng, bố trí và tổ chức môi trường cho trẻ chơi và hoạt động cần đảm bảo trên nguyên tắc cho trẻ “ Chơi mà học ” “ Học bằng chơi”[4]. Thực hiện tài liệu bồi dưỡng hè hàng năm, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cán bộ quản lý và giáo viên mầm non năm học 2015-2016, 2016-2017 của Bộ Giáo dục và đào tạo: Môi trường giáo dục trong trường, nhóm, lớp mầm non có vai trò quan trọng đối với sự phát triển năm lĩnh vực giáo dục của trẻ, khi xây dựng môi trường phải chú ý một số điểm sau [5]: - Khi xây dựng và tổ chức cho trẻ hoạt động trong môi trường giáo dục giáo viên phải xác định mục đích của từng loại hoạt động, của mối loại tranh ảnh, đồ dùng, đồ chơi…để giúp trẻ tích cực khai thác, tìm tòi nghĩ ra nhiều cách chơi, đáp ứng việc cung cấp và củng cố kiến thức, kỹ năng cho trẻ. - Giáo viên phải lên kế hoạch sử dụng từng loại đồ dùng, đồ chơi vào các bước mở chủ đề, khám phá chủ đề và kết thúc chủ đề. Xác định rõ từng loại đồ chơi để đưa vào các hoạt động: Hoạt động học, hoạt động chơi ở các góc, ở ngoài trời. - Giáo viên phải biết lồng ghép các hoạt động một cách linh hoạt để kích thích trẻ tích cực tìm ra các chức năng sử dụng các đồ dùng, đồ chơi trong các hoạt động… Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TƯ của Ban chấp hành trung ương khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ và của Bộ; thực hiện công văn số 2012/SGD&ĐT-GDMN về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2017-2018, bậc học mầm non, ngày 30 tháng 8 năm 2017,. - Thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua như Chỉ thị số 05-CT/TƯ ngày 15/05/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm 3 theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với phong trào thi đua “ Dạy tốt, học tốt” đưa nội dung của cuộc vận động “ Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học, tự sáng tạo” và phong tào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực ”. Chính vì thế mà việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non là rất cần thiết. Góp phần nâng cao chất lượng toàn diện trong công tác chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.2.1. Đặc điểm tình hình chung: Huyện Vĩnh Lộc thuộc vùng trung du nằm ở phía bắc tỉnh Thanh Hóa, có tổng diện tích tự nhiên 157,4 cây số vuông. Những năm gần đây, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện không ngừng cố gắng, nỗ lực nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục cá bậc học nói chung, đặc biệt là Bậc học mầm non nói riêng. Cụ thể: - Số trẻ và nhóm, lớp các trường mầm non: Năm học 2017-2018. Số trường Nhà trẻ Mẫu giáo Số nhóm trẻ Số cháu Số lớp Số cháu 89 1328/3815= 34,8% 154 4602/4597= 100.1% 16 - Cơ sơ vật chất – Trang thiết bị trường học: Với mục tiêu, phương châm và ý chí quyết tâm của các cấp lãnh đạo lấy khẩu hiệu “ Tất cả đầu tư cho giáo dục ” xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp khang trang sạch, đẹp để tạo điều kiện cho con em học tập tốt. Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã đóng góp nhiều công sức, tiền của để xây dựng, tu sửa trường lớp. Hiện nay một số trường đã có hệ thống phòng học đủ diện tích theo yêu cầu chuẩn ấm về mùa đông, mát về mùa hè, nhiều trường học đã được quy hoạch xây dựng và chuẩn bị xây dựng mới đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu tối thiểu cho việc dạy và học, tổ chức các hoạt động khác cho trẻ. Phong trào kiên cố hoá trường học đang được phát triển mạnh mẽ và đã mang lại hiệu quả thiết thực số trường chuẩn bị đề nghị thẩm định đạt chuẩn quốc gia và trường cận chuẩn ngày càng được tăng lên. Trường đạt chuẩn quốc gia Trườn g cận chuẩn Trường có đồ chơi ngoài trời Trường có bếp một chiều Tổng số phòng học Phòng kiên cố 5 6 16 16 185 138 Phòng cấp 4 Phòng làm mới Bàn ghế quy cách Trường được đánh giá ngoài 36 8 2580 bộ 7 -Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý – giáo viên- nhân viên: Danh Tổng Trình độ Năng lực nghiệp vụ, kỹ năng sư GV GV Đảng 4 CM phạm mục số ĐH CĐ TC Xuất sắc Khá TB Yếu giỏi huyện giỏi tỉnh viên Quản lý 46 46 0 25 17 4 0 0 0 46 GV+NV Tổng số Tỷ lệ % 327 373 267 313 84% 60 60 16% 105 130 35% 158 175 47% 64 68 18% 0 0 0% 84 84 22,5% 4 4 1,2% 203 249 67% Năm học 2017 - 2018 bản thân tôi được điều động từ giáo viên lên làm chuyên viên phụ trách chuyên môn Bậc học mầm non của huyện Vĩnh Lộc, kinh nghiệm quản lý còn ít nên có nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài này. Tuy nhiên với sức trẻ và lòng nhiệt huyết, trách nhiệm cao của bản thân đối với công việc và mong mỏi sẽ góp phần vào sự nghiệp phát triển giáo dục chung của ngành giáo dục huyện nhà nói chung, Bậc học mầm non nói riêng, bản thôi tôi luôn nỗ lực để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình. Bước vào thực hiện đề tài này tôi đã đi khảo sát thực tế các trường mầm non trong huyện và thấy được những thuận lợi, khó khăn như sau: 2.2.2. Thuận lợi, khó khăn: * Thuận lợi: Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, giúp đỡ nhiệt tình của các cấp lãnh đạo từ Sở Giáo dục và Đào Tạo Thanh Hoá đến Huyện Uỷ, UBND – HĐND huyện Vĩnh Lộc, Đảng uỷ, UBND – HĐND các xã, thị trấn, lãnh đạo phòng GD & ĐT. Thực hiện tốt các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, văn bản, Đề án về phát triển GDMN từ Trung ương đến địa phương, trong năm qua phong trào giáo dục mầm non huyện Vĩnh Lộc đã đạt được những thành tích đáng kích lệ và đang làm cho ngành học thay đổi vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Nhiều trường có phòng học rộng, có hiên trước, hiên sau, có nhà kho, nhà vệ sinh đạt tiêu chuấn ... Nhiều lớp được đầu tư, trang bị cơ sở vật chất kiên cố, trang thiết bị đầy đủ theo thông tư 01/VBHN-BGDĐT ngày 23 tháng 3 năm 2015 về việc ban hành danh mục đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học tối thiểu dùng cho giáo dục mầm non của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo đã đảm bảo việc học tập và sinh hoạt của trẻ. 84% đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ đào tạo chuyên môn trên chuẩn, đa phần là đội ngũ trẻ tuổi, nhanh nhẹn, sáng tạo, nhiệt tình, ham học hỏi, tích cực tham gia học tập qua các lớp đào tạo, tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ và hào hứng tham gia vào các phong trào, hoạt động do ngành phát động, luôn đoàn kết, nhằm xây dựng, phát huy truyền thống tốt đẹp của ngành học, nên đã thu hút được sự quan tâm, gây được lòng tin cho cấp uỷ đảng, chính quyền, nhân dân địa phương đặc biệt là các bậc phụ huynh có con, em trong độ tuổi tín nhiệm phấn khởi đưa con, em đến trường đi học. Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ trên toàn huyện đạt 34,8%, đảm bảo tỷ lệ huy 5 động chung trên toàn tỉnh. Trẻ mẫu giáo huy động đạt 100% ra lớp đúng độ tuổi và học chương trình đúng độ tuổi, đa số trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, đi học chuyên cần, có nề nếp. Bản thân tôi trẻ năng động, sáng tạo, ham học hỏi, thông thạo công nghệ thông tin, có năng khiếu về thẩm mỹ, được lãnh đạo Phòng GD&ĐT tạo điều kiện cho đi tham quan, học hỏi ở đơn vị bạn. * Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên cũng còn một số bất cập và khó khăn sau: Còn một số trường các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, môi trường hoạt động giáo dục phục vụ cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ chưa đáp ứng được yêu cầu và có nơi không đảm bảo an toàn về thân thể cho các cháu. Công tác quản lý chỉ đạo và năng lực nghiệp vụ của một số cán bộ quản lý, giáo viên còn nhiều hạn chế, trình độ chuyên môn không đồng đều; quản lý, giáo viên dạy tuổi cao còn nhiều nên khó tiếp cận và đáp ứng được yêu cầu quản lý cũng như việc thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non hiện nay. Chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học áp dụng theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các hoạt động còn nhiều hạn chế. Những kinh nghiệm cụ thể, những khuôn mẫu sáng tạo về xây dựng môi trương giáo dục của cán bộ quản lý và giáo viên còn hạn chế. Phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đưa trẻ đến trường mầm non đi học và xây dựng môi trương giáo dục cho trẻ hoạt động còn tư tưởng khoán trắng cho các nhà trường mầm non. Một số cán bộ địa phương chưa nhận thức đúng, sâu sắc về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của bậc học mầm non, nên chưa thật sự quan tâm, phát huy hết nội lực, khả năng và trách nhiệm của mình để chăm lo cho sự phát triển toàn diện của GDMN đúng mức. Các mảng trang trí đã theo chủ đề, đẹp nhưng dán chết trên tường, chủ yếu chú trọng khu vực trong lớp; khu vực hiên trước, hiên sau, phòng vệ sinh chưa quan tâm. Tất cả đều bàn tay cô thực hiện chưa có sự tham gia của trẻ. Tuy được đầu tư, trang bị tương đối về đồ dùng trang thiết bị dạy học nhưng chủ yếu là các đồ dùng, đồ chơi mua sẵn, sản xuất hàng loạt, chất liệu chủ yếu bằng nhựa chưa có nguyên liệu thiên nhiên, chưa đáp ứng được nhu cầu khám phá, sáng tạo ... của trẻ, mà trẻ luôn thích mới, lạ, đẹp, hấp dẫn... 2.2.3. Kết quả của thực trạng: Đầu năm học tôi xây dựng kế hoạch tham mưu với lãnh đạo phòng ra Quyết định, thành lập đoàn đi kiểm tra, đánh giá, khảo sát chất lượng việc thực hiện chuyên đề. Kết quả số trường, giáo viên và số trẻ được đánh giá, xếp loại theo các nội dung và tiêu chí đạt được như sau ( kết quả đầu năm học học 20172018) * Đối với nhà trường: 16 trường theo thang điểm 100 điểm Chất Chất Đầu tư XD khuôn XD các Xếp loại chung 6 Tổng số trường mầm non 16 lượng XDKH chỉ đạo 20đ lượng Bồi dưỡng CBGV 20 đ CSVCTTbị, đồ dùng, đc. 20 đ Số trường đạt Tỷ lệ % viên trong, ngoài nhà trường xanh, sạch, đẹp 20 đ MQH, môi trường xã hội tốt trong nhà trường 20 đ T K TB Y 9 10 9 10 10 3 5 6 2 56 62,5 56 62,5 62,5 22.2 29.6 33,4 14.8 * Đối với giáo viên xây dựng môi trường trên nhóm, lớp: T.số nhóm, lớp XD môi trường GD: Vật chất và xã hội 20 đ 243 Tỷ lệ Nội dung, hình thức xây dựng môi trường GD. 30 đ 358 86.6 343 83 Phương pháp tổ chức cho trẻ hoạt động 20đ Công tác tuyên truyền, sưu tầm vật liệu phế thải… làm đồ dùng, đồ chơi 10 đ 335 81 361 87 Nắm vững Yêu cầu, kiến thức, kỹ năng, năng lực nghiệp vụ Xếp loại chung T K TB Y 72 17.4 95 23 160 86 38.8 20.8 20 đ 336 81.3 * Đối với cháu: tổng số 5930 ( trong đó nhà trẻ 1328; MG 4602 ) Tiêu chí 1 Nề nếp chào hỏi, nói năng, đi đứng thể hiện thái độ, kỹ năng giao tiếp tình cảm, ứng xử. NT 730 55% MG 2784 60,5% Tiêu chí 2 Trẻ hứng thú, tích cực, biểu hiện khả năng tự lực, sáng tạo trong khi tham gia các hoạt động , trải nghiệm NT MG 672 2669 50,6% 58% Tiêu chí 3 Trẻ hiểu nội dung, có kiến thức, hình thành và phát triển kỹ năng chơi NT 715 53,8% MG 3207 69,7% Tiêu chí 4 Trẻ thực hiện đúng quy tắc, cách chơi, luật chơi của từng loại trò chơi, biết phối hợp với bạn trong khi chơi NT 800 60,3% MG 3157 68,6% * Kết luận: Qua khảo sát thực trạng tôi thấy chất lượng của việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm mặc dù đã qua 1 năm thực hiện chuyên đề nhưng các trường mầm non trong huyện nói chung còn rất thấp. Tất cả những hạn chế từ kết quả trên đây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục cũng như việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Vì vậy cần phải được khắc phục, qua tình hình nghiên cứu cụ thể về thực trạng, bản thân tôi đã chủ động xây dựng kế hoạch và tìm ra những biện pháp quản lý, chỉ đạo thích hợp, phù hợp với thực tiễn của các nhà trường, giáo viên, trẻ trong thời gian tới, để đáp ứng kịp thời với yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục mầm non hiện nay. 2.3. Các giải pháp, biện pháp tổ chức thực hiện: 7 2.3.1. Chỉ đạo các trường mầm non xây dựng kế hoạch và thực hiện “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm ” đảm bảo các nội dung của môi trường giáo dục. Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non là thực sự cần thiết và quan trọng. Nó được ví như người giáo viên thứ hai trong công tác tổ chức, hướng dẫn cho trẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ, thông qua đó, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện. Một môi trường sạch sẽ, an toàn, phù hợp với tâm lý của trẻ có sự bố trí khu vực chơi và học trong lớp và ngoài trời phù hợp, thuận tiện có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với sự phát triển thể chất của trẻ, mà còn thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. Môi trường giao tiếp cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè, nhờ vậy mà cô hiểu trẻ hơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động phối hợp nhịp nhàng hơn nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻ yêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo và bạn bè hơn. Trong các buổi tổ chức chuyên đề “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” tôi nhấn mạnh rõ môi trường giáo dục gồm: Môi trường trong lớp, môi trường ngoài lớp và môi trường xã hội. Từ đó tôi xây dựng kế hoạch “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” và chỉ đạo các trường mầm non lập kế hoạch phải chú trọng đến các nội dung sau: * Môi trường trong lớp: Sắp xếp không gian hợp lí: Gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ để đảm bảo về mặt tâm lý cho trẻ khi tới trường lớp; có sự phân chia giữa các góc rõ rệt, phù hợp; thiết kế các góc chơi phù hợp diện tích lớp, độ tuổi. Đảm bảo cho trẻ di chuyển dễ dàng giữa các góc mà không va chạm vào nhau hoặc vấp ngã hay va chạm vào đồ vật. Trang trí: Vừa tầm mắt trẻ (không quá cao hoặc quá thấp); hình ảnh rõ ràng, cụ thể, không quá nhiều hình ảnh. Quan tâm đến môi trường chữ viết. Dùng chữ in thường và chữ viết thường Góc mở: Có sản phẩm của cô và của trẻ, phong phú về thể loại như vẽ, nặn, xé dán, cắt dán, có sản phẩm của phụ huynh… Màu sắc: Tranh ảnh, màu sắc hài hòa, sinh động, ngộ nghĩnh, không quá rực rỡ, lòe loẹt. Các góc chơi: Trong lớp học không thể thiếu các góc chơi của trẻ nên cần đảm bảo đủ số lượng góc cho trẻ chơi; tùy theo không gian, diện tích của lớp có thể bố trí góc chơi trong hoặc ngoài lớp; các góc hoạt động chính được duy trì thường xuyên; bố trí các góc  linh hoạt để có thể sắp xếp lại; bố trí sắp xếp những hoạt động tương đồng thì ở gần nhau (hoạt động tĩnh xa hoạt động động); bố trí các góc có thể di chuyển được và đảm bảo an toàn cho trẻ; có đủ đồ chơi và phương tiện đặc trưng của từng góc Đồ dùng, đồ chơi trong các góc: 8 Phong phú về thể loại: Tự làm, mua sẵn, lá cây, hột, hạt, len, vải vụn…để khuyến khích trẻ trải nghiệm. Nên có đồ dùng đã hoàn thiện và chưa hoàn thiện để trẻ chơi. Đồ dùng, đồ chơi ở các góc phải được sắp xếp gọn gàng, khoa học, dễ lấy, tiện cho trẻ khi sử dụng; mang sắc thái vùng, miền, nguyên vật liệu của địa phương (đưa sản phẩm của địa phương vào); mang tính mở và được bổ sung theo giai đoạn. Xây dựng các góc mở ở trong và ngoài nhóm, lớp: ở mỗi nhóm, lớp, nhà trường lên kế hoạch chỉ đạo xây dựng các góc như : Góc phân vai, góc xây dựng, góc khám phá khoa học/ thiên nhiên, góc nghệ thuật, góc, sách…đúng với nội dung theo độ tuổi. Ví dụ: Góc xây dựng phải được sắp xếp hợp lý và hấp dẫn đối với trẻ, có đầy đủ các vật liệu xây dựng đa dạng, phong phú và thể hiện các chủ đề học tập khác nhau, được sắp xếp ở nơi dễ lấy, dễ nhìn thấy và có đủ khoảng không gian thích hợp cho trẻ chơi, được xác định các biểu tượng và đặt ngang tầm mắt của trẻ. Có thể sử dụng tên của góc, biểu tượng của góc để đàm thoại với trẻ về những hoạt động có thể thực hiện được ở góc. Có sơ đồ mạng về công việc của trẻ, để khi trẻ chơi trẻ tự tìm, lấy đúng ký hiệu và phần việc của mình để thực hiện. Ngoài ra ở trong góc giáo viên chuẩn bị sẵn một số nguyên, vật liệu rời như các bình, lọ, que, cành cây, hoa, lá.. nguyên liệu còn nguyên vẹn như các khối hộp, tranh, ảnh… cho trẻ tự làm thành các sản phẩm theo ý tưởng của mình. Ví dụ: Góc tạo hình, âm nhạc được trưng bày những đồ dùng, đồ chơi , những hình ảnh, sản phẩm của hoạt động tạo hình, hoạt động âm nhạc đặc biệt là những sản phẩm đẹp do trẻ tự làm ra như các bức tranh, sản phẩm nặn, xé dán… có ghi tên trẻ và ký hiệu riêng của trẻ ở phía góc trên của sản phẩm. Có các tranh ảnh, họa báo, giấy màu, lá cây khô, bẹ ngô, cói, đay, len sợi, bông…để trẻ tự làm đồ chơi theo ý tưởng riêng của trẻ, cô và trẻ cùng làm chung một sản phẩm hoàn chỉnh…trong những lúc đón và trả trẻ giáo viên giới thiệu cho phụ huynh quan sát, nhìn thấy tên, sản phẩm của con mình được nêu gương trên góc, phụ huynh rất phấn khởi, động viên con tiếp tục ngoan hơn, học giỏi hơn. Góc nghệ thuật đó giúp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục trong nhà trường, ở góc âm nhạc ngoài trưng bày, sắp xếp các dụng cụ, đồ dùng âm nhạc gọn gàng, ngăn nắp, còn có các lô tô rời cho trẻ chọn hình ảnh găm lên và gọi đúng tên hình ảnh đó. Khi trẻ chơi các trò chơi âm nhạc, biểu diễn văn nghệ trẻ biết chọn đồ dùng, nhạc cụ phù hợp. (Một số hình ảnh các góc, khu vực hoạt động trong nhóm lớp – Hình ảnh 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10 thuộc phụ lục của SKKN này) * Môi trường ngoài lớp: Môi trường ngoài lớp học là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ. Quy hoạch và thiết kế cho phù hợp với không gian, diện tích của trường mình như bố trí diện tích sân tập thể dục cho trẻ toàn trường và khu chơi thể thao 9 (cột bóng rổ, thang leo, sân chơi bóng đá mini...); khu vực chơi với đồ chơi ngoài trời (cầu trượt, đu quay, đu bay, bập bênh, nhà bóng...); khu vực chơi “giao thông”; khu vực chơi với đất, cát, nước, đá, sỏi...; khu vực trẻ trồng rau, trồng cây và chăm sóc cây cối, con vật nuôi; khu chơi với các nhân vật cổ tích, hay còn gọi là “vườn cổ tích”; khu “sân khấu ngoài trời”, khu trồng cỏ, trồng hoa, trồng cây cảnh, cây ăn quả, cây bóng mát trên sân trường; khu tạo sân cỏ... hệ thống đường đi lối lại trên sân; độ cao của hệ thống tường bao, độ rộng của cổng và biển trường; khu đặt bảng tuyên truyền… đảm bảo các khu vực hài hòa và an toàn cho trẻ. Cây xanh: Ngoài cây lâu năm cần trồng bổ sung cây xanh hàng năm. Bố trí, sắp xếp môi trường bên ngoài cần đảm bảo độ an toàn cho trẻ: Không trồng loại cây có gai, độc… Bảng biểu ngoài sân, tủ đựng đồ dùng cá nhân của trẻ cần được ghim, vít chặt chẽ. (Một số hình ảnh các góc, khu vực hoạt động ngoài nhóm lớp – Hình ảnh 12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23,24 thuộc phụ lục của SKKN này) * Môi trường xã hội: Đây là môi trường trường trong nhà trường, gia đình và xã hội. Cần quan tâm đến sự giao tiếp của cô với cô, cô với trẻ, trẻ với trẻ, cô với phụ huynh, trẻ với người lớn; cần xây dựng môi trường  giao tiếp chân tình, cởi mở; giáo viên quan tâm đến mọi trẻ, yêu thương tôn trọng trẻ, đối xử công bằng với mọi trẻ; lắng nghe ý kiến của trẻ, tôn trọng trẻ; giáo viên, người lớn cần là tấm gương cho trẻ học tập và làm theo. Vì vậy tôi chỉ đạo các trường xây dựng một môi trường sư phạm thực sự đoàn kết, mỗi cán bộ, giáo viên phải gương mẫu đối với trẻ, thực sự là một tấm gương cho trẻ học tập. Đó là từ cách ăn mặc, cử chỉ, lời nói, tác phong đối với trẻ phải nhẹ nhàng, âu yếm, gần gũi , yêu thương trẻ đúng mực. Chỉ đạo để ban giám hiệu nhà trường chủ động phối, kết hợp chặn chẽ với các đoàn thể trong trường như chi bộ Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, hội cha mẹ phụ huynh …phát động theo từng đợt, từng chủ đề, chủ điểm… Ví dụ: Chọn các chủ điểm để phát động phong trào cho phù hợp với ngày hội của trẻ như “ Nói lời hay, làm việc tốt “ “ Cô bác mẫu mực” “ cô giáo như mẹ hiền “… Nhờ những đợt vận động như trên, dần dần những hành vi chưa gương mẫu của cán bộ, giáo viên, nhân viên đã chấm dứt, như không xưng hô mày tao với nhau, không nói to trong giờ nghỉ của trẻ, không đánh, chửi nhau, không nói tục, nói bậy trước mặt trẻ, không đi xe trong sân trường, không ăn mặc luộm thuộm, hở hang, khi giao tiếp, trao đổi, trò chuyện với phụ huynh, với trẻ, với mọi người xung quanh đúng phong cách nhà giáo. Đối với các cháu trong giờ học cũng như trong giờ chơi, nhà trường phải chỉ đạo giáo viên tổ chức thực hiện đảm bảo được môi trường giao tiếp thân thiện, hòa đồng, ấm cúng, cởi mở tạo cơ hội, điều kiện cho trẻ được giao tiếp vơi nhau. Môi trường tác động đến trẻ đó là (Con người với con người, con người với môi trường xung quanh), vì vậy khi giáo viên, gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh 10 phải thể hiện tình cảm thân thiện, cởi mở và mẫu mực. Quan hệ giữa cô và trẻ thể hiện tình thương yêu, tôn trọng, tin tưởng, đối xử công bằng với trẻ. Quan hệ giữa trẻ với trẻ thể hiện sự hợp tác, thân thiện, cô giáo đưa các cháu đi dần vào nề nếp, thói quen, có tinh thần tập thể, đoàn kết, biết thương yêu, nhường nhịn lẫn nhau, trong cách xưng hô giao tiếp phải luôn xưng tôi với bạn, nếu bạn ngã biết đến giúp đỡ bạn, nâng bạn đứng dạy, rủ bạn cùng chơi… * Kết quả: 16/16 trường và 243/243 nhóm, lớp có kế hoạch cụ thể cho việc xây dựng và tạo môi trường vật chất trong và ngoài nhóm lớp; Đa số các trường, nhóm, lớp đã biết lựa chọn nội dung, hình thức trang trí, xây dựng môi trường giáo dục vật chất theo hướng mở, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi phù hợp với nội dung của từng chủ đề, với khả năng nhận thức của trẻ và phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, xây dựng môi trường xã hội thân thiện, đoàn kết, vui vẻ. 2.3.2. Tham mưu Phòng GD&ĐT quan tâm đến công tác xây dựng, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; chỉ đạo điểm về Cuộc thi “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” để nâng cao chất lượng. Hoạt động quản lý giáo dục ở các trường học là một hoạt động chuyên biệt. Muốn làm được công tác quản lý, đòi hỏi phải qua tuyển chọn và đào tạo theo một chương trình, nội dung, phương pháp nhất định. Hoạt động quản lý là một hoạt động có tính sáng tạo, nên đòi hỏi người lãnh đạo phải có khả năng tư duy, có sự nhanh nhạy và quyết đoán cao, chuẩn hoá về trình độ học vấn. Ngoài ra người cán bộ quản lý phải có đức hy sinh, có tính say mê công việc, có khả năng giao tiếp, ứng xử xã hội, có uy tín với đồng nghiệp, với mọi người. Vì vậy đối với tất cả CBQL đương chức chưa được học qua lớp quản lý giáo dục phải tạo điều kiện cho họ đi học, thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ cho họ. Đảm bảo việc đề bạt CBQL theo đúng quy trình, đúng tiêu chuẩn, chức danh cụ thể, tạo điều kiện cho CBQL có cơ hội đi giao lưu, học hỏi, tham quan các cơ sở trọng điểm, các điển hình tốt về GDMN trong và ngoài tỉnh. Đội ngũ giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong công việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ “Giáo viên là nguyên tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải có đức, có tài” Luật giáo dục cũng khẳng định “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục” khai thác tốt đội ngũ chính là chúng ta phát huy được nội lực toàn ngành. Thực tế cho thấy có cô giỏi mới có cháu giỏi, trường nào có nhiều giáo viên nhiệt tình, tích cực, năng động có trách nhiệm với công việc, có năng lực chuyên môn thì kết quả trên trẻ thể hiện rõ rệt, trẻ chăm, ngoan, có nề nếp, thói quen học tập, hoạt động sôi nổi, tự tin, mạnh dạn và có chất lượng cao. Muốn xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ đủ đức, đủ tài có kiến thức văn hoá và nghiệp vụ sư phạm, đáp ứng được với yêu cầu thực tế của chương trình đổi mới hiện nay thì trước hết phải sàng lọc giáo viên. Hàng năm phải chỉ đạo các trường làm tốt công 11 tác phân loại , đánh giá, giáo viên, thường xuyên thanh - kiểm tra nghiệp vụ quản lý, giáo viên, có chế độ khen thưởng thoả đáng. Thực hiện chiến lược bồi dưỡng CBQL, giáo viên theo hướng tự học, tự bồi dưỡng và theo học các lớp đào tạo bằng nhiều hình thức tập trung chính quy, liên thông,tại chức…vv để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm. Tôi đã tham mưu Phòng GD&ĐT thường xuyên tổ chức kịp thời các lớp chuyên đề với nội dung được tiếp thu trên Tỉnh và lựa chọn những nội dung cần thiết, phù hợp với thực tế ở huyện để cho tất cả CBQLvà giáo viên tham dự, sau mỗi đợt tập huấn, tổ chức cho chị em trao đổi thảo luật, rút kinh nghiệm các hoạt động thực hành, viết bài thu hoạch, đề xuất những kiến nghị khi triển khai và tổ chức thực hiện các nội dung của lớp chuyên đề. Ví dụ: Năm học 2017-2018 tôi tham mưu với lãnh đạo phòng tổ chức tập huấn tại huyện với các nội dung như sau. - Tập huấn các môđun cho CBQL và GVMN; - Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục, quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non; - Triển khai các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục mầm non; - Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ mầm non; - Hướng dẫn thực hiện tích hợp trong tổ chức hoạt động giáo dục ở trường mầm non. Hướng dẫn tổ chức chơi ngoài trời. Giao tiếp với trẻ mầm non; - Quan sát, đánh giá trẻ và lập kế hoạch trong giáo dục mầm non. - Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục MN và hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi. - Hướng dẫn hoạt động giáo dục âm nhạc: Kỹ năng ca hát, nghe hát, sử dụng các loại nhạc cụ. - Hướng dẫn xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm…vv Ngoài lớp bồi dưỡng về lý thuyết, tôi còn tham mưu Phòng GD&ĐT quan tâm đến việc bồi dưỡng ở các trường trọng điểm, lớp điểm. Tôi tham mưu với lãnh đạo Phòng GD&ĐT triển khai chuyên đề và triển khai kế hoạch Cuộc thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” toàn diện tới các trường mầm non, đồng thời chọn trường đã đạt chuẩn quốc gia, là trường trọng điểm của huyện và những giáo viên có trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm, có tinh thần trách nhiệm yêu nghề, mến trẻ và có khả năng sáng tạo để xây dựng trường điểm, lớp điểm đó là trường mầm non Vĩnh Thành: Gồm 4 nhóm, lớp. + Nhóm trẻ: Cô Nguyễn Thị Diệu Thúy + Lớp mẫu giáo bé: Cô Lê Thị Hòa + Lớp mẫu giáo nhỡ: Cô Dương Thị Mai + Lớp mẫu giáo lớn: Cô Nguyễn Thị Huyền Thương Trước hết Phòng GD&ĐT đã cùng với Ban chất lượng của ngành chỉ đạo Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên lớp điểm xây dựng kế hoạch chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trong kế hoạch đối với từng nhóm, lớp yêu cầu phải đi sâu vào 12 từng vấn đề cụ thể về môi trường vật chất trong và ngoài nhóm, lớp cũng như môi trường xã hội. + Nhóm trẻ thì xây dựng góc hoạt động với đồ vật, + Lớp mẫu giáo bé xây dựng góc đóng vai, góc xây dựng + Lớp mẫu giáo nhỡ xây dựng góc Tạo hình, góc khám phá khoa học và thiên nhiên + Lớp mẫu giáo lớn xây dựng góc sách, góc âm nhạc, góc hoạt động với chủ đề lớn, góc tuyên truyền với phụ huynh…vv Mỗi lớp đều có sổ nhật ký ghi chép sự chuyển biến của trẻ và những hiện tượng, hành vi, những hoạt động nào trẻ hứng thú, tích cực, những hành vi nào chưa đúng, hoạt động nào trẻ không thích cần tập trung giáo dục cá nhân trẻ và gợi ý hướng dẫn trẻ hoạt động. Việc ghi nhật ký trở thành nếp, thói quen theo dõi thường xuyên của giáo viên. Chính vì vậy đã làm rõ tính vừa sức nội dung của chuyên đề, phù hợp với từng lứa tuổi, giảm sự gò bó áp đặt, giáo điều gây căng thẳng, nhàm chán đối với trẻ. Giáo viên phải nhiệt tình chịu khó, tự học, tự bồi dưỡng tìm đọc tài liệu, nghiên cứu thí điểm những vấn đề do kế hoạch đặt ra, tìm những biện pháp sáng tạo, hình thức đẹp, nội dung hay, phong phú. Tổ chức rút kinh nghiệm cho toàn trường và toàn ngành làm theo. Có ý thức trách nhiệm chung với công việc, tiếp cận nhanh, ứng dụng công nghệ thông tin, truy cập mạng hàng ngày để học tập những mô hình xây dựng môi trường giáo dục đẹp. Sử dụng giáo án điện tử đưa vào trong các hoạt động giáo dục của trẻ. Sau học kỳ I tôi tham mưu Phòng GD&ĐT tổ chức cho toàn huyện đến học tập, trao đổi nhận xét và bổ sung thêm những biện pháp, nội dung, hình thức để áp dụng ở lớp, trường mình. Sang học kỳ II tiếp tục thực hiện nội dung chuyên đề và thực hiện tốt cho cuộc thi, Phòng GD&ĐT đã tổ chức đi chấm điểm: Cuộc thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” trực tiếp thực tế tại các trường mầm non và lựa chọn ra 3 đơn vị xuất sắc nhất chỉ đạo nhân thành 3 trường điểm để tham dự Cuộc thi cấp tỉnh đó là trường mầm non Vĩnh Thành, Vĩnh Phúc, Vĩnh Hưng nằm ở 2 cụm chuyên môn. Để 3 trường rút được kinh nghiệm, đồng thời cũng cho các trường mầm non trên toàn huyện được học tập, rút kinh nghiệm Phòng GD&ĐT tổ chức cho các cụm đi kiểm tra chéo và đánh giá xếp loại cụ thể từng nội dung của từng giáo viên, của trường. Nhờ vậy mà các trường đó nhận được những bài học kinh nghiệm tốt của lớp điểm, trường điểm nhân diện ra toàn trường, toàn ngành nhanh và có chất lượng để tiếp tham dự Cuộc thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” tỉnh. Ngoài ra tôi còn tham mưu Phòng GD&ĐT tổ chức, thành lập đoàn đi học tập thực tế , trao đổi, rút kinh nghiệm ở một số trường bạn trong tỉnh và ngoài tỉnh: Như trường MN Hoa Mai, Lam Sơn, Hoàng Phượng, Bút Sơn, Đông Minh, Đông Sơn…vv qua những lần như vậy đội ngũ CBQL và chị em giáo viên được bồi dưỡng thêm về kiến thức và nâng cao về năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, đặc biệt là phát huy được tính sáng tạo, sự khéo léo và tính 13 thẩm mỹ mang chất nghệ thuật cao. Đặc biệt là môi trường xã hội trong các nhà trường phải xây dựng được các mối quan hệ lành mạnh, gần gũi, thân thiện từ trong các hành động, cử chỉ, lời nói giao tiếp, ăn, mặc đều mang phong cách sư phạm và là một tấm gương cho trẻ học tập. * Kết quả: Năm học 2017-2018 có 16/16 trường đã xây dựng được môi trường giáo dục trong và ngoài nhóm, lớp; trên 90% số CBQL, GVMN nắm vững mục đích, vai trò, ý nghĩa, nội dung, yêu cầu của việc xây dựng môi trường giáo dục và có những hình thức, phương pháp sáng tạo trong việc tổ chức cho trẻ hoạt động trải nghiệm; Các đơn vị trường mầm non Vĩnh Thành và Vĩnh Phúc đạt giải Nhì, trường mầm non Vĩnh Hưng đạt giải Ba cấp tỉnh Cuộc thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non”. 2.3.3. Chỉ đạo giáo viên tổ chức hướng dẫn thường xuyên cho trẻ hoạt động với môi trường giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi. Việc thường xuyên đưa trẻ vào hoạt động và thông qua hoạt động để giáo dục và phát triển về các mặt nhân cách cũng như năm lĩnh vực giáo dục cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi là một biệt pháp vô cùng quan trọng và cần thiết. Các hoạt động đón, trả trẻ hàng ngày, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, lao động, đi dạo, đi thăm…đều là những dịp để trẻ bọc lộ cá tính, sở thích, cách ứng xử, lời ăn, tiếng nói của mình. Các nhà trường chỉ đạo tất cả giáo viên phải linh hoạt. sáng tạo, có nhiều hình thức, thủ thuật, biện pháp hay để tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động, khơi gợi ở trẻ tính tò mò ham hiểu biết, thích khám phá những điều mới lạ, luôn gần gũi và uốn nắn những sai sót của trẻ trong mọi hoạt động, hành vi, lời nói, nhằm để kích thích trẻ chủ động, tích cực tham gia hoạt động. Điều này rất phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ mầm non là mau nhớ nhưng cũng chóng quên. Tổ chức cho trẻ hoạt động, trải nghiệm với môi trường giáo dục có nhiều ưu thế nâng cao về kiến thức, kỹ năng, tính chú ý, ghi nhớ có chủ định, tính khéo léo, kiên trì, tính sáng tạo và mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ về thế giới xung quanh. Ví dụ: Trong các hoạt động học với chủ đề: Thế giới động vật: Đề tài: Bé làm quen với các con vật đáng yêu: Ngoài thời gian cô cung cấp nội dung, yêu cầu, kiến thức, kỹ năng, cho trẻ quan sát, đàm thoại, so sánh qua tranh ảnh, vật thật, mô hình, hình ảnh động trên màn chiếu. Cô còn tổ chức cho trẻ chơi các loại trò chơi củng cố để khắc sâu kiến thức, trẻ được thực hành trải nghiệm, tích cực tham gia vào các hoạt động như trò chơi chọn tranh theo yêu cầu của cô, nặn các con vật, tích hợp vận động bật lên ghép tranh, chuyển thức ăn cho các con vật, thử tài của bé quan sát xem xung quanh lớp có những nhóm con vật nào, môi trường sống ở đâu và có số lượng là bao nhiêu...vv Ví dụ: Trong hoạt động góc: Muốn cho trẻ tích cực hoạt động và phát huy tính sáng tạo ở trẻ (góc sách, góc tạo hình) giáo viên gợi ý cho trẻ làm bưu thiếp chúc mừng ngày sinh nhật của Bác Gấu… trẻ phải biết cắt – dán, trang trí hình ảnh đẹp, hài hòa. Giờ đón, trả trẻ trong các góc mở, cô tổ chức, gợi ý cho trẻ thích chơi ở góc nào thì tự vào góc đó chơi, trẻ tự lấy đồ chơi lắp ráp, cắt, nặn, 14 xếp hình, bế em, hát, đọc thơ, xem tranh...vv, có những hình ảnh, nguyên liệu rời để trẻ tự ghép thành bức tranh, làm đồ dùng, sản phẩm hoàn chỉnh … * Kết quả: Đạt 95% số trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động, 90% số trẻ hiểu được nội dung, có kiến thức và kỹ năng chơi các trò chơi và chơi ở các góc mở. Chính vì vậy sự phát triển toàn diện của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào môi trường giáo dục. Nếu nhà trường và giáo viên biết xây dựng và tổ chức tốt môi trường này cho trẻ hoạt động là đã góp một phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển các mặt nhân cách cũng như các lĩnh vực giáo dục của trẻ. 2.3.4. Chỉ đạo xây dựng môi trường “ Xanh- sạch - đẹp – an toàn” trong và ngoài nhà trường. Để mở rộng môi trường hoạt động cho trẻ, tôi tham mưu Phòng GD&ĐT chỉ đạo các nhà trường phải chú ý tạo cảnh quan sân, vườn trường hấp dẫn trẻ như trồng hoa, cây cảnh, cây cỏ, cây ăn quả, cây bóng mát được bố trí, xắp xếp hài hoà trong sân. Vườn rau phân theo nhóm rau ăn củ, rau ăn quả, rau ăn lá, vườn hoa phân theo màu sắc hoặc trồng xen kẽ cỏ, cây, hoa, lá, vườn cổ tích, vườn thiên nhiên. Dưới mỗi gốc cây, trong mỗi vườn xây bồn hoa tạo thành các hình như hình vuông, hình tròn, hình chữ nhật, hình tam giác, hình lá, quả, củ, hoa…có tên gọi của các loại cây, loại rau, loại hoa, loại quả. qua đó để tạo môi trường giáo dục cho trẻ. Đồng thời phân công người chăm sóc, tưới cây, cắt tỉa, quét dọn vệ sinh môi trường hàng ngày sạch sẽ. Ví dụ: Trong thảm cỏ có thể cắt tỉa thành hình bông hoa, ngôi sao năm cánh, trong vườn hoa tạo dáng thành hình các vật ngộ ngĩnh, các con số… Quy định chỗ để xe của phụ huynh khi đưa - đón con đến trường để tạo ý thức thực hiện nếp sống văn minh, lịch sự, trật tự, gương mẫu đối với trẻ. Thông qua đó hướng dẫn trẻ thực hiện tốt chuyên đề GD an toàn giao thông cho trẻ trong trường mầm non. Bố trí các thùng rác phải có nắp đậy để đúng nơi quy định. Tạo thói quen cho trẻ và phụ huynh, khi cho trẻ ăn quà xong phải biết bỏ túi, hộp vào thùng rác, không vứt rác ra sân trường. Mỗi khi cô tổ chức cho trẻ ra chơi ở sân trường, ra thăm vườn hoa, vườn rau… khi thấy lá rụng, môi trường bẩn cô và trẻ cùng tham gia quét dọn vệ sinh, hót lá bỏ vào thùng rác. Sau mỗi ngày phải xử lý thùng rác và làm vệ sinh sạch sẽ, khơi thông cống, rãnh, không để bốc mùi trong khu vực trường mầm non, không vẽ bẩn lên tường. ( Một số hình ảnh về môi trường xanh sạch đẹp tại các trường điển hình – Hình ảnh 21,22,23,24,25,26 thuộc phụ lục của SKKN này) * Kết quả: 16/16 trường sân chơi có đồ chơi ngoài trời, có cảnh quan sư phạm, vệ sinh môi trường luôn xanh-sạch-đẹp-an toàn, có vườn rau, 13/16 trường có vườn cổ tích, Vườn cây ăn quả của bé…vv 15 2.3.5. Chỉ đạo các trường làm tốt công tác phối kết hợp với các bậc phụ huynh, các ban ngành, đoàn thể trong và ngoài nhà trường để triển khai và tổ chức thực hiện tốt chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non: Công tác phối kết hợp với các bậc cha mẹ, các ban, Ngành, Đoàn thể có ý nghĩa vô cùng quan trọng và là nhiệm vụ thiết thực của từng nhóm, lớp và trường mầm non góp phần thực hiện tốt mục tiêu chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Tạo nên sự liên kết giữa trường, lớp, nhóm và cha mẹ, cộng đồng xã hội, nhằm chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình CS-ND-GD trẻ, đáp ứng kịp thời những nhu cầu phát triển của trẻ về các mặt: Thể chất, tinh thần, nhận thức, tình cảm, thẩm mỹ, ngôn ngữ, giao tiếp ứng xử, giáo dục cá biệt…tạo các điều kiện tối ưu cho việc thực hiện có hiệu quả chất lượng toàn diện trên trẻ. + Có tác dụng lớn tạo được sự thống nhất giữa gia đình và trường, nhóm, lớp, các đoàn thể về việc CS-ND-GD trẻ. + Tạo được sự thống nhất về nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức CS-ND-GD trẻ ở trường cũng như ở gia đình, tránh được những mâu thuẫn về phương pháp CS-ND-GD trẻ. + Phối hợp về nội dung thực hiện chương trình chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho trẻ; thực hiện chương trình giáo dục trẻ; phối hợp kiểm tra đánh giá công tác CS-ND-GD trẻ, CSVC, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi trong nhà trường…vv Về hình thức và biệp pháp phối kết hợp: Đối với nhà trường thành lập hội cha mẹ của trường, của nhóm, lớp. Xây dựng kế hoạch hoạt động năm, tháng, và được hội cha mẹ thông qua, thống nhất về nội dung, quy chế, nội quy, quy định của nhà trường, nhóm, lớp, tổ chức họp phụ huynh theo định kỳ, trao đổi trực tiếp với phụ huynh hàng ngày trong giờ đón trẻ và trả trẻ, xây dựng góc tuyên truyền cho phụ huynh ở nhóm, lớp, lập hòm thư góp ý của cha mẹ và cộng động về công tác ND-CS-GD trẻ ở nhóm, lớp…vv Ví dụ: Xây dựng kế hoạch phối hợp với các bậc cha mẹ hàng năm theo từng tháng. Tên nhóm, lớp………….. Giáo viên:……………… I. Mục đích yêu cầu: II. Nội dung chính: III. Kế hoạch cụ thể: Thời gian Tháng 9 ............ Tháng 5 Nội dung phối hợp Hình thức và Biện pháp phối hợp - Đóng góp kinh phí xây dựng, cải tạo - Thành lập hội cha mẹ trường, lớp, mua sắm đồ dùng, đồ của nhóm, lớp chơi, trang thiết bị cho lớp học .................................................. ............................... Nhận xét kết quả Chính vì vậy tất cả mọi công việc, mọi hoạt động của ngành cũng như của trường mầm non muốn đạt kết quả tốt đều không thể không có sự ủng hộ, đóng góp và phối kết hợp thường xuyên, chặn chẽ của phụ huynh, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Vì vậy khi bắt đầu triển khai chuyên đề tôi đã tham mưu 16 Phòng GD - ĐT chỉ đạo các nhà trường ngay trong buổi họp phụ huynh đầu năm phải thông báo rõ mục đích yêu cầu của chuyên đề với phụ huynh và đề nghị với ban chấp hành phụ huynh trường và hội phụ huynh từng lớp bàn biện pháp phối hợp cùng nhà trường thực hiện tốt nội dung chuyên đề. Các nhà trường phải viết lên bảng từng tiêu chí, nội dung, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, những điều kiện cần thiết để thực hiện chuyên đề, các hình ảnh minh họa của trẻ đang hoạt động, trải nghiệm với môi trường giáo dục như trẻ đang xếp hình, ghép tranh, tô tranh, chọn chữ cái, chọn số…để phụ huynh biết và dạy bảo thêm khi trẻ ở gia đình. Nhà trường mở đợt phát động phong trào thu, lượm lặt những nguyên vật liệu phế thải, nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương như (các khối hộp, tranh ảnh họa báo, bình, lọ nhựa, bẹ ngô, rơm rạ, hột hạt…sưu tầm các làn điệu dân ca, trò chơi dân gian ở các địa phương, sáng tác bài thơ, câu chuyện, bài hát phù hợp với trẻ trong giáo viên và phụ huynh để hỗ trợ cho chuyên đề. Phát động CBQL, GVMN viết bài tuyên truyền có nội dung về chuyên đề. Các nhà trường xây dựng kế hoạch có nội dung, hình thức và biện pháp cụ thể tham mưu với lãnh đạo địa phương, phối hợp với các ban, ngành đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Đặc biệt là ban văn hóa xã hàng ngày đọc trên loa truyền thanh những nội dung yêu cầu của chuyên đề, để các lãnh đạo, các bậc phụ huynh và toàn thể cộng đồng dân cư có nhận thức đúng và phối hợp với nhà trường thực hiện tốt chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con mình tại gia đình, đặc biệt là quan tâm đến sự phát triển, hoàn thiện về nhân cách cũng như các lĩnh vực phát triển giáo dục của trẻ. Sau mỗi học kỳ, tổng kết năm học Phòng GD & ĐT tổ chức họp, trao đổi, thảo luận, rút kinh nghiệm trong các trường, cụm chuyên môn, cụm thi đua về nội dung xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non, để rút ra được ưu, nhược điểm và có kế hoạch chỉ đạo, tổ chức thực hiện cho những năm học tiếp theo. Phối kết hợp tổ chức tốt các hội thi “ đồ dùng, đồ chơi sáng tạo “ “Cuộc thi xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” ở cấp trường, cấp huyện. * Kết quả: Các nhà trường đã làm tốt công tác tuyền truyền vận động các đoàn thể, các nhà hảo tâm, phụ huynh đóng góp về tinh thần, vật chất như tham gia ngày công lao động cải tạo sân, vườn, giàn cây, ủng hộ chậu cây cảnh, cây xanh, làm vườn cổ tích, vẽ tranh tường, làm sân phát triển vận động, sân khấu ngoài trời... Các đơn vị thực hiện tốt như Vĩnh Thành, Vĩnh Phúc, Vĩnh Hưng, Vĩnh Ninh, Vĩnh Minh, Vĩnh Yên... Với những biện pháp phối hợp chặn chẽ như vậy, để thu hút được sự quan tâm, ủng hộ nhiệt tình, tích cực hơn nữa của các cấp lãnh đạo và các bậc phụ huynh. Đó là một bước tiền đề, đồng thời cũng là phương hướng để tiếp tục thực hiện tốt nội dung chuyên đề trong những năm tiếp theo đạt kết quả cao hơn. Chính vì vậy mối quan hệ, sự phối kết hợp giữa các bậc cha mẹ, các Ban, Ngành, Đoàn thể với nhóm, lớp và trường mầm non là điều kiện không thể thiếu được trong việc thực hiện các mục tiêu và góp phần nâng cao chất lượng toàn diện về CS-ND-GD trẻ. 17 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: * Đối với hoạt động giáo dục: Sau năm học 2017-2018 vào đầu tháng 4 Phòng GD & ĐT lại xây dựng kế hoạch thành lập đoàn đi kiểm tra chéo cụm để đánh giá, nhận xét, khảo sát chất lượng và xếp loại cụ thể từng trường thực hiện chuyên đề và đã thu được kết quả như sau. * Đối với nhà trường: 16 trường theo thang điểm 100 điểm Tổng số trường mầm non 16 Chất lượng XDKH chỉ đạo Số trường đạt Tỷ lệ % 20 đ XD khuôn viên trong, ngoài nhà trường xanh, sạch, đẹp 20 đ XD các MQH, môi trường xã hội tốt trong nhà trường 20 đ 14 15 15 87.5 94 94 Đầu tư CSVCTTbị, đồ dùng, đc. 20đ Chất lượng Bồi dưỡng CBGV 20 đ 14 87,5 Xếp loại chung T K TB Y 16 7 7 2 0 100 44 50 6 0 * Đối với giáo viên xây dựng môi trường trên nhóm, lớp: T.số nhóm, lớp XD môi trường GD: Vật chất và xã hội Nội dung, hình thức xây dựng môi trường GD. Phương pháp tổ chức cho trẻ hoạt động 30 đ 20đ 20 đ Công tác tuyên truyền, sưu tầm vật liệu phế thải… làm đồ dùng, đồ chơi 10 đ Nắm vững Yêu cầu, kiến thức, kỹ năng, năng lực nghiệp vụ Xếp loại chung T K TB Y 20 đ 243 227 225 216 231 221 63 70 92 18 Tỷ lệ 93 92,6 89 95 91 26 29 38 7 * Đối với cháu: tổng số 5930 ( trong đó nhà trẻ 1328; MG 4602 ) Tiêu chí 1 Nề nếp chào hỏi, nói năng, đi đứng thể hiện thái độ, kỹ năng giao tiếp tình cảm, ứng xử. Tiêu chí 2 Trẻ hứng thú, tích cực, biểu hiện khả năng tự lực, sáng tạo trong khi tham gia các hoạt động , trải nghiệm Tiêu chí 3 Trẻ hiểu nội dung, có kiến thức, hình thành và phát triển kỹ năng chơi Tiêu chí 4 Trẻ thực hiện đúng quy tắc, cách chơi, luật chơi của từng loại trò chơi, biết phối hợp với bạn trong khi chơi NT MG NT MG NT MG NT MG 1129 4372 1181 4188 1181 4280 1181 4280 85% 95% 89% 91% 89% 93% 89% 93% Phòng GD&ĐT sẽ tiếp tục phấn đấu chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa trong những năm tiếp theo, nâng cao chất lượng toàn diện trong các nhà trường giáo viên và trẻ. * Đối với bản thân: Đã nâng cao được năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng sư phạm. Tích luỹ được một số hình thức, biện pháp chỉ đạo phù hợp với thực tế của từng đối tượng trẻ, giáo viên, địa phương… 18 * Đối với đồng nghiệp: Là một trong những tài liệu để cho các đồng nghiệp có thể sử dụng để tham khảo. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận. 3.1.1. Kết luận chung: Qua 1 năm học thực hiện đề tài bậc học mầm non huyện Vĩnh Lộc đã đạt những kết quả sau: - Nhận thức của các cấp lãnh đạo và các bậc phụ huynh đã hiểu rõ, sâu sắc về mục đích ý nghĩa và tầm quan trọng của chuyên đề , từ đó mà có sự quan tâm, đầu tư và chăm lo hơn cho ngành học. - Trong các nhà trường có sự thay đổi lớn về hình thức và nội dung. Toàn bộ 27 xã đều có khu trung tâm khang trang, sân chơi được nâng cấp, các phòng học kiên cố hóa được bổ sung thêm nhiều, đồ dùng, đồ chơi đa dạng hóa về hình thức và chủng loại, các khu vệ sinh đạt chuẩn yêu cầu, nhà bếp được xây dựng và cải tạo sạch sẽ, vận hành theo hệ thống một chiều. - Trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho công tác CS-ND-GD trẻ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, phong phú về chủng loại. - Qua quan hệ, giao tiếp, lời ăn. tiếng nói, tác phong, cử chỉ, thái độ của toàn thể cán bộ, giáo viên và nhân viên trong trường đã thực sự mẫu mực , lịch sự, văn minh, là tấm gương tốt cho trẻ noi theo. Các mối quan hệ trong nhà trường giữa cán bộ quản lý với giáo viên, giữa giáo viên với phụ huynh ngày càng gần gũi, thân thiết và đoàn kết hơn. 3.1.2. Bài học kinh nghiệm: Sau một năm triển khai, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đề tài, muốn để đạt được kết quả tốt, bản thân tôi đã tự rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: - Ngay từ đầu năm học Phòng GD&ĐT, đến các nhà trường, giáo viên cần xây dựng kế hoạch cụ thể, sát thực, phù hợp với khă năng nhận thức của trẻ, với tình hình thực tiễn của từng địa phương, nội dung, hình thức chặn chẽ và có biệt pháp chỉ đạo, làm việc khoa học, trong đó lưu ý đến việc phân công, phân nhiệm, chức danh rõ ràng, từ ở phòng GD, trong ban giám hiệu, giáo viên, nhân viên trong trường. Bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực, kỹ năng sư phạm cho đội ngũ CBQL, GVMN. - Tạo quang cảnh khuôn viên sư phạm, xây dựng môi trường giáo dục ở trong và ngoài nhóm, lớp, ngoài nhà trường đảm bảo nội dung, hình thức phong phú, góp phần không nhỏ vào việc tạo môi trường học tập thuận lợi cho trẻ. Việc đầu tiên khi triển khai chuyên đề là phải quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi chung của trường cũng như của từng nhóm, lớp, phát động phong trào và tổ chức tốt “ Hội thi đồ dùng, đồ chơi sáng tạo”. Việc này cần có sự quan tâm ủng hộ và đóng góp của nhiều lực lượng trong và ngoài nhà trường. - Để nhanh chóng hình thành, cung cấp những kiến thức, kỹ năng, thói quen và kích thích hứng thú, tính tò mò, ham hiểu biết và tích cực tham gia hoạt 19 động trải nghiệm ở trẻ như yêu cầu của chuyên đề, nhà trường phải có nhiều hình thức và biện pháp chỉ đạo, giáo viên phải suy nghĩ, sáng tạo tìm ra nhiều thủ thuật hay để tiến hành tổ chức, hướng dẫn trẻ thực hiện ở các hoạt động, mọi lúc, mọi nơi. - Sự ủng hộ phối, kết hợp của các bậc phụ huynh, các ban ngành, đoàn thể trong và ngoài nhà trường là rất quan trọng. Một trong những nguyên nhân thành công của chuyên đề là có sự đóng góp, giúp đỡ của phụ huynh, các đoàn thể. Sự đóng góp đó không chỉ hỗ trợ về nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ chuyên đề, mà còn ở việc tham gia cùng với nhà trường thực hiện tốt những yêu cầu của chuyên đề , giúp trẻ duy trì và củng cố những kiến thức khoa học đơn giản, những nề nếp, thói quen, thái độ, giao tiếp ứng xử tốt đã được hình thành trong nhà trường và đó cũng là kết quả thực hiện thắng lợi trong việc hình thành và phát triền toàn diện nhân cách ban đầu, cũng như phát triển các lĩnh vực giáo dục của trẻ và góp phần nâng cao chất lượng toàn diện chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ trong trường mầm non. 3.2. Kiến nghị Trong quá trình chỉ đạo thực hiện “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” sau một năm học, tôi có một số ý kiến đề xuất như sau: Đối với nhà trường: Cần tham mưu với chính quyền địa phương đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu của bậc học và phù hợp với điều kiện thực tế của từng đơn vị; làm tốt hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục để tạo dựng môi trường vật chất cho trẻ hoạt động bổ sung cũng như làm mới hàng năm. Đối với Phòng GD&ĐT: Tổ chức cho cán bộ giáo viên cơ sở được đi tham quan học tập những đơn vị điển hình xuất sắc để năm học tới đạt kết quả cao hơn. Đối với Sở GDĐT: Có nhiều bài viết về công tác xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để giáo viên có tài liệu tham khảo thêm. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ ……………………………………… ……………………………………… ……………………………………… ……………………………………… ……………………………………… ……………………………………… ……………………………………… Vĩnh Lộc, ngày 13 tháng 4 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết sáng kiến Nguyễn Thị Thảo TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan