Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Luận văn nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
91
153
136

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ ÁNH NGUY£N T¾C GI¸M §èC VIÖC XÐT Xö TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ ÁNH NGUY£N T¾C GI¸M §èC VIÖC XÐT Xö TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Đặng Quang Phương. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngƣời cam đoan Dƣơng Thị Ánh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỔ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................................................ 6 1.1. Khái niệm nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................................. 6 1.1.1. Định nghĩa giám đốc việc xét xử ............................................................ 6 1.1.2. Giám đốc việc xét xử - nguyên tắc của luật tố tụng hình sự Việt Nam ........... 7 1.2. Vai trò và ý nghĩa của nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.............................................................. 9 1.2.1. Vai trò của nguyên tắc giám đốc việc xét xử.......................................... 9 1.2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc giám đốc việc xét xử ...................................... 12 1.3. Nội dung của giám đốc việc xét xử .................................................... 14 1.3.1. Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm, sai lầm ............................................................................... 14 1.3.2. Thẩm quyền và tổ chức thực hiện giám đốc việc xét xử ...................... 15 1.3.3. Kết quả của giám đốc việc xét xử ......................................................... 20 1.4. Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 ............................................... 20 Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ......................................... 27 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc giám đốc việc xét xử .................................................................................................... 27 2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nguyên tắc giám đốc việc xét xử ............................................................................. 27 2.1.2. Quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về nguyên tắc giám đốc việc xét xử .............................. 30 2.2. Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nguyên tắc giám đốc việc xét xử .......................................... 32 2.2.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 32 2.2.2. Những thiếu sót, vi phạm trong việc thực hiện nguyên tắc giám đốc việc xét xử ...................................................................................... 44 2.2.3. Nguyên nhân của những thiếu sót, vi phạm ......................................... 46 Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỔ TỤNG HÌNH SỰ .......................................................................... 53 3.1. Các yêu cầu bảo đảm nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong tố tụng hình sự ......................................................................................... 53 3.2. Các giải pháp bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ............................ 55 3.2.1. Cơ sở đưa ra các giải pháp .................................................................... 55 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc giám đốc việc xét xử ......... 55 3.2.3. Giải pháp tổ chức bộ máy thực hiện nguyên tắc giám đốc việc xét xử ..... 60 3.2.4. Giải pháp trong việc tổ chức thực hiện nguyên tắc giám đốc việc xét xử..................................................................................................... 65 3.2.5. Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ ........................................ 71 3.2.6. Giải pháp khác ...................................................................................... 77 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Xét về tổng số đơn 42 Bảng 2.2: Xét về số đơn đã được giải quyết 42 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tòa án nhân dân, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của nhân dân. Trong hoạt động xét xử, Tòa án các cấp cũng đề ra phương châm là "xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật". Trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm sự bình đẳng trong xã hội, bảo vệ sự an toàn trong hành lang pháp lý, thì Tòa án đã thực sự trở thành công cụ có hiệu quả. Ngành Tòa án đã ra sức khắc phục khó khăn, phát huy những điểm tích cực trong công tác xét xử và uốn nắn, sửa chữa những thiếu sót. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, do những nguyên nhân khác nhau, một số bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn còn để lọt người phạm tội, làm oan người vô tội; áp dụng hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả do người phạm tội gây ra. Mặt khác, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, có trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội và những người tham gia tố tụng khác. Để khắc phục tình trạng trên, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định nguyên tắc giám đốc việc xét xử - nguyên tắc giám đốc việc xét xử ra đời nhằm kiểm tra lại những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về giám đốc việc xét xử: “Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất” [39, Điều 21]. Nguyên tắc giám đốc việc xét xử đánh dấu một bước phát triển pháp luật tố 1 tụng ở nước ta. Nguyên tắc trên được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự là nhằm hạn chế và khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong việc xử lý vụ án của các Tòa án, góp phần xử lý công minh, không để lọt tội phạm và người phạm tội, đồng thời không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, thực tiễn công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự cho thấy, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng các quy định về giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự của nước ta chưa đầy đủ, nhiều điểm còn mâu thuẫn, chồng chéo, chưa rõ ràng, khó áp dụng, gây nhiều tranh cãi. Việc giải thích, hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc giám đốc xét xử chưa được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm đúng mức, nên trong công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự chưa đem lại kết quả như mong muốn. Tình trạng oan sai chưa được sửa chữa kịp thời, nhất là đối với trường hợp Tòa án tuyên bố không phạm tội, nhưng quyết định đó của Tòa án là không đúng hoặc áp dụng hình phạt quá nhẹ, cho hưởng án treo không đúng nhưng không phát hiện kịp thời nên đã hết thời hạn kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án. Việc nghiên cứu nội dung, ý nghĩa, vai trò của giám đốc việc xét xử, nghiên cứu thực tiễn công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự, để làm rõ những vướng mắc, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự là rất cần thiết. Đó cũng là lý do học viên chọn đề tài: “Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Hoạt động giám đốc việc xét xử đã được các nhà làm luật cũng như những người làm công tác thực tiễn quan tâm và nghiên cứu. Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự” của Th.S Đinh Văn Quế làm chủ biên, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội 2005; Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: “Một số 2 giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao” do Th.S Đặng Xuân Đào làm chủ biên, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội, 2007; Bài viết: “Công tác kiểm sát các bản án, quyết định về hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án - thực trạng và kiến nghị” của Nguyễn Quốc Công, Tham luận khoa học năm 2004; Bài viết: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao” Th.S Đinh Văn Quế, Tham luận khoa học năm 2007; Bài viết: “Thực trạng công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự ở các Tòa án quân sự” - TS. Nguyễn Đức Mai, Tham luận khoa học năm 2005; Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm - Th.S Đinh Văn Quế, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004; GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên - Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Công an nhân dân, 2004 (tr.47,48). Ngoài các công trình nghiên cứu trên đây, còn có nhiều công trình và giáo trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giám đốc việc xét xử. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào ở cấp độ thạc sĩ luật học nghiên cứu giám đốc xét xử như là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam có tính hệ thống và toàn diện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là làm rõ các khái niệm, vai trò và ý nghĩa của nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong tố tụng hình sự, nghiên cứu thực tiễn giám đốc việc xét xử hiện nay, làm rõ những mặt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. Từ đó đưa ra các giải pháp đảm bảo nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là: 3 - Nghiên cứu những vấn đề chung, quy định của pháp luật có liên quan đến nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam; - Nghiên cứu, khảo sát số liệu thực tế về số đơn khiếu nại, bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Từ đó làm rõ nguyên nhân của những hạn chế đó; - Từ những hạn chế đã được làm rõ và nguyên nhân của những hạn chế, luận văn đưa ra các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng hiệu quả giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân liên quan đến nguyên tắc giám đốc việc xét xử, các báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm của Tòa án nhân dân tối cao, thực tiễn giám đốc việc xét xử trong thời gian qua, trong đó có kết quả giám đốc thẩm, tái thẩm. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu gồm các quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực tiễn giám đốc việc xét xử trong quá trình giải quyết vụ án, bao gồm cả việc giải quyết đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm. Luận văn cũng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan đến giám đốc việc xét xử để làm rõ đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn giám đốc việc xét xử trong các năm từ năm 2010 đến năm 2014. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Để hoàn thành luận văn, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp. 4 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu để tác giả hoàn thiện luận văn bao gồm các phương pháp truyền thống, phù hợp với chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, cụ thể là: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử; logic, phương pháp khảo sát thực tiễn...; Trong luận văn, tác giả coi trọng việc nghiên cứu lý luận với thực tiễn mà đặc biệt là việc khảo sát, tổng kết thực tiễn công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự, đối chiếu với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 6. Ý nghĩa của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về nguyên tắc giám đốc việc xét xử trên cả khía cạnh lý luận và thực tiễn thực hiện nguyên tắc này, tác giả đã kiến nghị nhiều vấn đề và đề ra các giải pháp nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện nguyên tắc giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự. Luận văn còn là tài liệu tham khảo hữu hiệu trong công tác nghiên cứu khoa học, công tác giảng dạy trong các trường đại học, học viện đào tạo các chức danh tư pháp, Trường cán bộ Tòa án và đối với Thẩm tra viên, Thẩm phán và các cán bộ có các chức danh tư pháp khác. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự và thực tiễn thi hành. Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm nguyên tắc giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỔ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.1. Định nghĩa giám đốc việc xét xử Phát biểu tại một Hội nghị triển khai công tác Tòa án cho một năm mới, Nguyên Phó thủ tướng chính phủ, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư trung ương Đảng Trương Vĩnh Trọng có nói rằng: “Việc và cơm vào miệng vẫn có thể có những hạt bị rơi, không có việc gì được trọn vẹn. Tòa án cũng vậy thôi, xét xử thì cũng có thể có sai lầm, nhưng các đồng chí hãy cố gắng, làm thế nào để hạn chế cái sai lầm đó tối đa nhất dẫn đến loại trừ nó. Và khi đã phạm sai lầm thì biết phát hiện kịp thời để mà khắc phục những sai lầm đó”. Thể chế hóa Điều 134 của Hiến pháp năm 1992 (nay là Điều 104 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013): “Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác , trừ trường hợp do luật đi ̣nh ” [40], Bộ luật tố tụng hình sự quy định giám đốc việc xét xử là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự với nội dung Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được tiến hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động của Tòa án cấp dưới thể hiện ở việc kiểm tra, xem xét hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới; phát hiện những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới, từ đó sửa chữa, hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật. Công tác giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới còn thể hiện bằng việc xem lại các bản án và quyết định 6 theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử hình sự của Tòa án cấp dưới được tiến hành bằng việc xem xét lại các bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm” [58, tr.47-48]. Giám đốc xét xử là việc Toà án cấp trên kiểm tra tính đúng đắn về hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới. Việc giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên nhằm phát hiện và khắc phục những sai lầm thiếu sót đó là cần thiết, góp phần vào bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, xử lý công minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên thông qua các hoạt động: kiểm tra phát hiện những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới; giải quyết khiếu nại của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và của công dân về các bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật; tổng kết kinh nghiệm xét xử; hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp dụng pháp luật thống nhất; kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tóm lại, theo phân tích trên, “Giám đốc việc xét xử là việc Tòa án cấp trên giám sát, kiểm tra, xem xét hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới để phát hiện và uốn nắn kịp thời những vi phạm, sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm hoạt động xét xử và các bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện và ban hành đúng pháp luật”. 1.1.2. Giám đốc việc xét xử - nguyên tắc của luật tố tụng hình sự Việt Nam Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) năm 1998 thì: “Nguyên tắc là điều cơ bản định ra nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [20, tr.672]. Vậy, giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự có phải là điều cơ bản được định ra và nhất thiết phải làm, phải tuân theo trong công tác xét xử của Tòa án hay không? Trong Bộ máy nhà nước nói chung và trong từng ngành, từng hệ thống 7 nói riêng, việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát là công việc phải thực hiện thường xuyên. Giám đốc việc xét xử trong hệ thống Tòa án nhân dân về bản chất cũng giống như kiểm tra, kiểm soát và giám sát. Tuy nhiên nó cũng có những đặc thù riêng. Tòa án xét xử độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật. Với những đặc trưng của hoạt động xét xử, hệ thống tòa án là nơi đem đến cho các bên tranh tụng sự bình đẳng, công bằng, góp phần thiết lập trật tự xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống tòa án cũng không phải không có những vi phạm, sai lầm nếu những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng không được bảo đảm. Khi đó, không những quyền lợi chính đáng của các đương sự không được bảo đảm, mà uy tín của Nhà nước cũng bị giảm sút. Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật tố tụng hình sự chịu sự chi phối của các nguyên tắc nhất định. Theo quy định tại Chương 2 “Những nguyên tắc cơ bản” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thì trong tố tụng hình sự có 30 Điều (từ Điều 3 đến Điều 32) các nguyên tắc cơ bản. Tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về “Giám đốc việc xét xử” quy định: “Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất” [39, Điều 21]. Quy định này không phải mới được bổ sung và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 mà nó đã được quy định tại Chương 1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta với nội dung tương ứng: “Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất” [34, Điều 22]. Bên cạnh đó, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm; về phát hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm; về xét lại bản án, quyết định của Tòa 8 án có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm đủ để kết luận: “Giám đốc việc xét xử là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam”. 1.2. Vai trò và ý nghĩa của nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1. Vai trò của nguyên tắc giám đốc việc xét xử Nguyên tắc giám đốc việc xét xử có vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự. Điều đó được thể hiện ở một số phương diện sau đây: Thứ nhất, nguyên tắc này có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, tăng cường sự tham gia của người dân thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đó có công tác xét xử của Tòa án. Nguyên tắc này cũng là một cơ sở để thực hiện tốt nguyên tắc “Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng”. Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, nó có ý nghĩa không những đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn góp phần vào việc phát hiện, khắc phục sai lầm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Điều 31 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục [39, Điều 31]. Như vậy, công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, tố cáo những 9 việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Trong hoạt động kiểm tra, giám sát việc xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, công dân có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan cũng như người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là không đúng pháp luật. Trong giai đoạn xét xử, việc khiếu nại được gửi đến cho Chánh án tòa án cùng cấp hoặc Tòa án cấp trên. Song song đó, cơ quan có thẩm quyền cũng phải có nghĩa vụ tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại và tố cáo biết và có biện pháp khắc phục. Kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy phải dựa vào quần chúng, phát huy tính tích cực, chủ động của quần chúng trong việc phát hiện, ngăn chặn tội phạm, kiểm tra, giám sát việc xét xử, thi hành pháp luật cũng như trong công tác thi hành án thì mới đạt được hiệu quả cao. Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức. Phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, khi nhận được tin báo, tố giác, khiếu nại của các tổ chức hoặc công dân chuyển đến, cơ quan tiến hành tố tụng sau khi xem xét phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, trả lời đơn cho tổ chức hoặc công dân đã báo tin biết. Thứ hai, nguyên tắc này bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án đưa ra là đúng nhằm “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” hướng tới mục đích “góp phần 10 bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật Xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án, quyết định của Tòa án đặc trưng ở tính dứt điểm của nó. Chỉ có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật mới xác định một người nào đó có tội hay không có tội. Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [39, Điều 9]. Nguyên tắc giám đốc việc xét xử nhằm bảo đảm bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải đúng đắn. Có như vậy mới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của con người. Chừng nào chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Do chưa được coi là người có tội nên các cơ quan tiến hành tố tụng không được đối xử với bị can, bị cáo như người có tội, kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam. Mọi quyết định của Tòa án đều tác động đến mỗi con người cụ thể - một người chỉ phải chịu hình phạt khi bản án kết tội của Tòa đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, bản án hoặc quyết định của Tòa án đưa ra là rất quan trọng, mang tính pháp lý cao, nên việc đưa ra bất cứ bản án hoặc quyết định nào của Tòa đều phải đảm bảo tính chính xác, phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất định và dưới sự kiểm tra, giám sát của công dân, tổ chức, các cơ quan có thẩm quyền. Thứ ba, nguyên tắc này bảo vệ uy tín của Đảng và Nhà nước, tạo lòng tin cho nhân dân. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tư tưởng vì con người, vì nhân dân, lấy dân làm gốc luôn là mục tiêu, tôn chỉ trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch. Muốn Đảng và 11 Nhà nước vững mạnh, phát triển thì phải có niềm tin của dân vào Đảng, Nhà nước và chính quyền. Một trong những cách hiệu quả để tạo được lòng tin cho nhân dân chính là việc thực thi pháp luật một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng vậy. Việc xuất hiện những vụ án oan sai là biểu hiện sự giảm sút của hệ thống pháp luật, người dân không còn biết bấu víu vào đâu và phải tự tìm mọi cách để cứu mình. Thông qua hoạt động giám đốc việc xét xử, các bản án và quyết định của Tòa án luôn được đảm bảo tính đúng đắn, hạn chế tối đa và dần tiến tới loại bỏ những sai sót. Vì vậy, phát hiện và sửa chữa kịp thời những sai lầm nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân, hình thành lòng tin của họ vào pháp luật và Đảng và Nhà nước, qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, thái độ tôn trọng pháp luật của mọi thành viên trong xã hội. Làm tốt công tác giám đốc xét xử chính là giúp cho các thành viên trong xã hội thấy rõ hơn trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình trong việc xây dựng, giữ gìn, bảo vệ thành quả cách mạng, tạo niềm tin vững chắc vào Đảng, chính quyền và chế độ Xã hội chủ nghĩa, qua đó nâng cao ý thức chính trị, tự giác chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, tích cực, chủ động tham gia thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Thông qua hoạt động giám đốc xét xử nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ và nhân dân sẽ tạo sự thống nhất cao trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị, từng bước tạo ra mặt bằng dân trí pháp lý phù hợp, góp phần tạo ra sự ổn định về chính trị- xã hội, làm nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. 1.2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc giám đốc việc xét xử Với nội dung như đã phân tích trên, nguyên tắc này bảo đảm cho việc chấp hành pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất; bảo đảm tính đúng đắn của bản án và quyết định của Tòa án; góp phần vào việc nâng cao chất lượng xét 12 xử của Tòa án cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Nguyên tắc giám đốc việc xét xử góp phần vào việc bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Việc thực hiện nguyên tắc giám đốc xét xử chính là việc kiểm tra của Tòa án các cấp. Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới thông qua hoạt động kiểm tra việc xét xử bằng cách thông qua các thông tin, đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đảm bảo cho việc tiến hành tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh nhất. Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên hoạt động xét xử của Tòa án cũng sẽ không tránh được những sai xót, xử sai, xử không đúng người đúng tội. Trên thực tế có rất nhiều những vụ án oan sai, hoặc áp dụng những biện pháp tư pháp, hình phạt sai do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trên thực tế, vì những nguyên nhân khách quan hay chủ quan, vẫn còn tồn tại những án oai sai, xử không đúng người, đúng tội. Chính vì vậy, hoạt động giám đốc xét xử có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế những sai lầm, thiếu sót của Tòa án, đảm bảo cho quá trình tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Nguyên tắc giám đốc việc xét xử góp phần vào việc động viên và tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm và dân chủ hóa quá trình tố tụng. Nguyên tắc giám đốc việc xét xử có ý nghĩa cho việc định hướng xây dựng pháp luật tố tụng hình sự. Từ việc giám đốc việc xét xử, Tòa án sẽ rút ra được những thiếu sót, yếu kém của các Tòa án cấp dưới. Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa. Từ đó phát hiện những sai sót, yếu kém của các Tòa án cấp dưới và kịp thời sửa chữa, khắc phục, điều chỉnh những sai sót, yếu kém đó; Những bất cập của pháp luật, khi 13 áp dụng vào thực tế không còn phù hợp sẽ được phát hiện. Thông qua đó, rút kinh nghiệm từ thực tiễn, Tòa án sẽ có những đề án, kế hoạch cụ thể để sửa đổi, bổ sung pháp luật, hoàn thiện pháp luật sao cho phù hợp với công tác xét xử trên thực tiễn và phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành. 1.3. Nội dung của giám đốc việc xét xử 1.3.1. Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm, sai lầm Chủ thể phát hiện và hình thức phát hiện rất phong phú và đa dạng Theo Điều 274 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, thì người bị kết án, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân có quyền phát hiện và kiến nghị những vi phạm pháp luật hoặc những tình tiết mới trong các bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật với những người có thẩm quyền kháng nghị để những người này xét có quyết định kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hay không. Nếu không có căn cứ kháng nghị, thì người có quyền kháng nghị phải trả lời cho người hoặc cơ quan tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do vì sao không kháng nghị. Không hạn chế quyền phát hiện các vi phạm, sai lầm này. Việc không hạn chế quyền phát hiện vi phạm pháp luật, sai lầm trong áp dụng pháp luật trong các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật là thể hiện quyền giám sát hoạt động xét xử của toàn xã hội đối với Tòa án. Hình thức phát hiện lại rất phong phú đa dạng. Người phát hiện có thể viết đơn, thư gửi cho những người có thẩm quyền kháng nghị. Thông qua các tin tức do các cơ quan thông tin đại chúng như: Đài phát thanh, truyền thanh, truyền hình, báo chí,… đưa tin về việc vi phạm pháp luật trong các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, về việc phát hiện các tình tiết mới có liên quan đến vụ án. Phạm vi phát hiện cũng rất rộng, có thể phát hiện bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ở địa phương mình hoặc trong cả nước của bất kỳ Tòa án nào. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan