Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn ngành luật xã hội hóa cai nghiện ma túy khuôn khổ pháp lý và thực tiễ...

Tài liệu Luận văn ngành luật xã hội hóa cai nghiện ma túy khuôn khổ pháp lý và thực tiễn tại bến tre​

.PDF
66
1
56

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM TRẦN HOÀNG LAN XÃ HỘI HÓA CAI NGHIỆN MA TÚY: KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN TẠI BẾN TRE LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM TRẦN HOÀNG LAN XÃ HỘI HÓA CAI NGHIỆN MA TÚY: KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN TẠI BẾN TRE LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Võ Trí Hảo TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018 MỤC LỤC Lời cam đoan Danh mục chữ viết tắt Tóm tắt luận văn Phần mở đầu ......................................................................................................... 1 CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CAI NGHIỆN MA TÚY ....................................................................................................................... 3 1.1. Nghiện ma túy, tác hại đối với xã hội................................................................ 3 1.1.1. Khái niệm ma túy .................................................................................. 3 1.1.2. Phân loại ma túy .................................................................................... 4 1.1.3. Nghiện ma túy ....................................................................................... 5 1.1.4. Tác hại của ma túy ................................................................................. 5 1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về xử lý người nghiện ma túy ........ 8 1.2.1. Giai đoạn trước năm 2002 ..................................................................... 8 1.2.2. Giai đoạn 2002 đến 2012 ..................................................................... 10 1.2.3. Giai đoạn 2012 đến nay ....................................................................... 11 1.3. Những khó khăn trong tổ chức cai nghiện .................................................... 11 1.4.1. Khó khăn trong cai nghiện tự nguyện ................................................. 12 1.4.2. Khó khăn trong cai nghiện bắt buộc .................................................... 13 1.5. Các tiêu chí của một hệ thống cai nghiện ma túy hiệu quả ....................... 18 Tiểu kết luận Chương 1 ............................................................................................ 21 Chương 2: XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG CAI NGHIỆN TẠI BẾN TRE DƯỚI GÓC NHÌN KINH TẾ - LUẬT ............................................................. 23 2.1. Nhà nước tham gia vào hoạt động cai nghiện ma túy ................................ 23 2.1.1. Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể bảo đảm an ninh trật tự cho xã hội ............................................................................................................. 23 2.1.2. Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể bảo đảm an sinh xã hội ..... 25 2.2. Cơ sở pháp lý cho việc xã hội hóa hoạt động cai nghiện ............................ 31 2.2.1. Khái niệm xã hội hóa ........................................................................... 31 2.2.2. Chủ trương của Đảng và hệ thống văn bản pháp luật ......................... 32 2.3. Tác động kinh tế - xã hội của việc xã hội hóa hoạt động cai nghiện ....... 34 2.3.1. Chi phí từ góc nhìn của nhà đầu tư ............................................................. 34 2.3.2. Hiệu quả cắt cơn, điều trị ........................................................................... 36 2.4. Xã hội hóa hoạt động cai nghiện tại Bến Tre giai đoạn 2010 - 2018. Thực trạng và kiến nghị ....................................................................................................... 39 2.4.1. Những kết quả đạt được ...................................................................... 39 2.4.2. Những khó khăn, tồn tại và hạn chế .................................................... 42 2.4.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa hoạt động cai nghiện trên địa bàn tỉnh ................................................................................. 43 Tiểu kết luận Chương 2 ............................................................................................ 47 Phụ lục 1: Danh mục các bảng ............................................................................. l Bảng 2: Phân loại ma túy được sử dụng ............................................................. l Bảng 3: Số vụ bị xử lý hành chính ...................................................................... li Bảng 4: Số vụ bị xử lý hình sự ............................................................................ li Bảng 5: Kết quả hoạt động cai nghiện .............................................................. lii Phụ lục 2: Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................... liii LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là Trần Hoàng Lan, mã số học viên: 7701270064A, là học viên lớp Cao học Luật … Khóa chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Nghiện ma túy: Khuôn khổ pháp lý và thực tiễn tại Bến Tre” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực Học viên thực hiện Trần Hoàng Lan DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT UBND: Ủy ban nhân dân. HĐND: Hội đồng nhân dân. MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. PCMT: Phòng, chống ma túy. LĐTB&XH: Lao động, thương binh và xã hội. VHTT&DL: Văn hóa, thể thao và du lịch. DANH MỤC CÁC BẢNG STT 01 02 03 04 05 BẢNG Số liệu người nghiện từ năm 2012 đến năm 2017 Phân loại ma túy được sử dụng Số vụ bị xử lý hành chính Số vụ bị xử lý hình sự Kết quả hoạt động cai nghiện TRANG 1xxxiii 1xxxiii 1xxxiv 1xxxiv 1xxxv Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn TÓM TẮT LUẬN VĂN Nghiện ma túy có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân người nghiện, gia đình và xã hội. Vì thế việc quản lý và điều trị những người nghiện ma túy hiện nay là một trong vấn đề quan trọng và hết sức cấp thiết. Bằng những chứng cứ xác thực từ những nghiên cứu mới nhất, hiện nay, nghiện được thừa nhận là một bệnh mạn tính, thường tái diễn, là nguyên nhân gây ra xung động tìm kiếm và sử dụng ma túy cho dù biết hậu quả tổn hại cho bản thân và cho người ngoài. Tương tự như những bệnh mạn tính khác, nghiện ma túy là căn bệnh tái diễn; không có gì lạ khi một người nghiện tái diễn hút chích trở lại. Tuy nhiên, tái diễn hút chích không phải là dấu hiệu điều trị nghiện thất bại, mà đúng hơn là còn chỉ ra cho chúng ta cần thiết lập trị liệu lại và hoặc bổ sung hoặc thay đổi cần thiết trong điều trị giúp cho bệnh nhân lấy lại khả năng kiểm soát bản thân và hồi phục. Không yếu tố nào có thể tiên đoán người nào có thể bị nghiện ma túy. Nguy cơ nghiện tác động bởi sự kết hợp các yếu tố như sinh học, môi trường xã hội, tuổi tác hay quá trình trưởng thành của người nghiện. Có một biểu hiện chung ở những người nghiện ma túy và các chất gây nghiện khác, đó là xuất hiện “hội chứng cai” hay là hội chứng thiếu, đói thuốc rất dễ nhận biết. Hội chứng này xuất hiện khi vì bất kỳ lý do nào đó ngưng sử dụng ma túy mà trước đó đã sử dụng số lượng nhiều hay trong thời gian kéo dài. Do đó, cần tập trung thực hiện hai nội dung, thứ nhất là nhanh chóng đưa người nghiện ra khỏi hội chứng cai. Vì đây là giai đoạn khổ sở nhất của người nghiện do các triệu chứng liều thuốc mang lại. Sự đau đớn về thể xác và tinh thần mãnh liệt đến mức người nghiện có thể làm bất cứ điều gì để có thuốc. Tốt nhất là nên đưa người nghiện đến cơ sở điều trị cai nghiện có đầy đủ phương tiện giúp người nghiện nhanh chóng cắt được cơn. Thứ hai là vấn đề hậu cai (là giai đoạn điều trị tiếp theo sau khi cắt cơn để phòng ngừa tái phát). Cần nhớ nghiện ma túy là dạng bệnh đặc biệt. Nhu cầu được chữa trị (tự nguyện) luôn luôn bị sự thôi thúc thèm muốn mãnh liệt dùng lại ma túy. Bởi lẽ ngoài sự lệ thuộc thuốc, người nghiện còn có sự lệ thuộc về tâm lý. Mặt khác hơn 90% người nghiện tái nghiện là do chưa được giải quyết đúng mức ở giai đoạn hậu cai này. Vấn đề này là một công việc rất lớn, rất phức tạp, cần thiết phải điều trị lâu dài, có sự hợp tác giữa người bệnh và thầy thuốc, với sự hỗ trợ của gia đình Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn và xã hội. Việc từ bỏ ma túy hẳn là cực kỳ khó khăn đòi hỏi nhiều nỗ lực của cá nhân người nghiện, sự động viên, nâng đỡ, an ủi, tạo việc làm của gia đình và xã hội sẽ tạo điều kiện cho người nghiện ma túy vượt qua chính mình để tái hòa nhập cộng đồng. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng ma túy và tác hại của ma túy đến bản thân người nghiện, gia đình và xã hội là hết sức to lớn. Tuy nhiên nghiện ma túy có thể điều trị và phòng ngừa nếu có những biện pháp hợp lý cho người nghiện và những đối tượng có khả năng nghiện cao (thanh thiếu niên, những người bị lạm dụng, bạo hành, đối tượng mại dâm…). Cần phát huy hiệu quả hoạt động cai nghiện, trong đó chú trọng xã hội hóa hoạt động cai nghiện ma túy, tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của ma túy và giúp đỡ những người bị lệ thuộc vào ma túy để họ có thể thực hiện thành công việc cai nghiện ma túy. Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tình hình tội phạm nói riêng và phạm pháp hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Bến Tre cũng như cả nước có xu hướng diễn biến phức tạp, ngày càng gia tăng về số vụ cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Cơ cấu về tội phạm và số hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến người nghiện và người sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện chiếm tỉ lệ ngày càng nhiều. Trong khi đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến ma túy, công tác tổ chức cai nghiện ma túy chưa mang lại kết quả như mong muốn; đặc biệt là công tác cai nghiện ma túy. Việc hạn chế trong tổ chức cai nghiện, quản lý số người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn trong thời gian qua góp phần làm gia tăng “nguồn” cung cấp đối tượng cho phạm pháp hình sự cũng như các hành vi vi phạm khác. Về nguyên nhân của hạn chế trong bình diện chung của cả nước như hệ thống quy định của pháp luật còn chồng chéo, thiếu tính khả thi, thì trong đó còn mang tính đặc thù về điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Đa dạng hóa các loại hình cai nghiện, khuyến khích các cá nhân, tổ chức – doanh nghiệp – tham gia hoạt động cai nghiện; sự tham gia của khu vực tư nhân vào hoạt động cai nghiện thông qua xã hội hóa dựa trên nền tảng pháp luật về phòng chống ma túy, biện pháp cai nghiện được quy định trong các quy định pháp luật có liên quan; cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác cai nghiện ma túy, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh nhà, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến ma túy, đó là lý do chọn đề tài. 2. Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu 2.1. Giả thuyết nghiên cứu Việc tổ chức cai nghiện ma túy trong thời gian qua chưa thật sự phát huy hiệu quả, tỉ lệ tái nghiện trong số người đã được tổ chức cai nghiện (dưới nhiều hình thức) luôn chiếm tỉ lệ cao (hơn 90%). Liệu có phải nguyên nhân do mô hình tổ chức cai nghiện chưa đa dạng, chưa thu hút được nhiều thành phần tham gia, chủ yếu là do nhà nước đảm nhiệm; phát đồ điều trị chưa phù hợp, không phát huy hiệu quả; công tác quản lý sau cai nghiện chưa được quan tâm; cơ sở vật chất và kinh phí phục vụ cho việc cai nghiện còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. 1 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn 2.2. Câu hỏi nghiên cứu 2.2.1.Vì sao công tác cai nghiện ma túy trong thời gian vừa qua chưa mang lại hiệu quả? tỉ lệ tái nghiện cao?. Mô hình cai nghiện hiện nay có gì bất cập?. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực cai nghiện ma túy phát huy hiệu quả hay chưa?. 2.2.2. Sự cần thiết phải bổ sung, thay đổi phương thức quản lý, cách thức tổ chức cai nghiện ma túy; sự tham gia của khu vực tư vào hoạt động cai nghiện, thực hiện xã hội hóa hoạt động cai nghiện ma túy?. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích: Thực trạng tình hình nghiện ma túy và tính hiệu quả trong công tác cai nghiện ma túy. Hệ thống pháp luật về phòng chống ma túy và pháp luật có liên quan, việc thực hiện xã hội hóa trong hoạt động cai nghiện ma túy. 3.2. Đối tượng: Hoạt động tổ chức cai nghiện ma túy; công tác quả lý nhà nước; hoạt động cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện ma túy (bắt buộc, tự nguyện tại gia đình và cộng đồng). 3.3. Phạm vi: Trên địa bàn tỉnh. 5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu, khung lý thuyết Khảo sát, tổng hợp số liệu, phân tích, đánh giá. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Nâng cao hiệu quả hoạt động cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Bến Tre, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. 2 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CAI NGHIỆN MA TÚY 1.1. Nghiện ma túy, tác hại đối với xã hội 1.1.1. Khái niệm ma túy Hiện nay, chưa có một khái niệm thống nhất như thế nào là ma túy, chỉ có một số khái niệm dưới dạng liệt kê. Khi nói đến ma túy, việc đầu tiên phải suy nghĩ đến đó là một hiểm họa của nhân loại, tác hại của ma túy không chỉ hủy hoại sức khỏe con người mà còn ảnh hưởng đến giống nòi; tạo ra nhiều bất ổn của tình hình trật tự xã hội nói chung và tội phạm nói riêng. Ma túy là từ Hán Việt, trong đó “ma” được hiểu là tê mê và “túy” là say sưa. Theo đó, ma túy là chất có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, tê liệt, dùng quen thành nghiện, hay nói cách khác, ma túy là chất gây nghiện. Theo từ điển tiếng Việt1, ma túy là tên gọi chung của những chất có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện; ma túy là những chất mà người dùng nó một thời gian sẽ gây nghiện hay nói cách khác là trạng thái phụ thuộc vào nó. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa “ma túy” là các chất khi xâm nhập vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng. Đến năm 1982, WHO đã phát triển định nghĩa “ma tuý” theo nghĩa rộng, là mọi thực thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật. Liên Hợp Quốc cũng đã đưa ra định nghĩa “ma túy” là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể làm thay đổi trạng thái tâm sinh lý của người sử dụng. Tuy nhiên, các định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới hay của Liên Hợp Quốc đều mang tính khái quát, bao hàm tất cả các chất làm biến đổi về mặt tâm sinh lý của con người2. Ở Việt Nam, theo các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, ma túy có thể hiểu là các chất bao gồm: nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, lá, hoa, quả cây cần sa, quả thuốc phiện khô, quả thuốc phiện tươi, Viện Ngôn ngữ học – Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – Hà Nội – Đà Nẵng 2002. 2 Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020. 1 3 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn heroine, cocaine, mathamphetamine, amphetamine, MDMA hoặc XLR-11, các chất ma túy khác ở thể lỏng hay thể rắn. Luật PCMT năm 2000 đưa ra khái niệm về chất ma túy tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”. Khoản 2 và khoản 3 Điều 2 Luật PCMT năm 2000 quy định: “chất gây nghiện” là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng và “chất hướng thần” là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện với người sử dụng. Như vậy, ma túy là những chất đã được khoa học xác định và có tên gọi riêng. Danh mục các chất ma túy, tiền chất ma túy được quy định tại Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành các Danh mục về chất ma túy và tiền chất; Nghị định số 126/2015/NĐ-CP ngày 09/12/2015 của Chính phủ sửa đổi danh mục các chất ma túy và tiền chất). Việc xác định là chất ma túy, tiền chất được tiến hành qua trưng cầu giám định. Từ các khái niệm của quốc tế và Việt Nam về ma túy, tác giả khái quát đưa ra một khái niệm chung, sử dụng trong luận văn này như sau: Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của con người. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng. 1.1.2. Phân loại ma túy Ma túy được phân thành nhiều nhóm dựa trên những căn cứ nhất định phục vụ cho những mục đích khác nhau. Một số cách phân loại cơ bản như sau: - Căn cứ vào nguồn gốc, ma túy được chia thành: Ma túy tự nhiên, ma túy tổng hợp và ma túy bán tổng hợp. - Căn cứ theo tác dụng, ma túy được chia thành ba nhóm chính là kích thích, ức chế thần kinh và gây ảo giác. - Căn cứ tính hợp pháp, ma túy chia làm hai nhóm: hợp pháp, bất hợp pháp. - Căn cứ nguồn gốc của ma túy và cơ chế tác động dược lý, các chuyên gia của Liên hợp quốc đã thống nhất phân chia ma túy thành năm nhóm sau: + Nhóm 1: Ma túy là các chất từ cây thuốc phiện (opiates); + Nhóm 2: ma túy là các chất làm từ cần sa (canabis); + Nhóm 3: ma túy là các chất gây kích thích (sitimulants); + Nhóm 4: ma túy là các chất gây ức chế (depressants); + Nhóm 5: ma túy là các chất gây ảo giác (hallucinorens). 4 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn 1.1.3. Nghiện ma túy Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa “Nghiện ma túy là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc thể chất hoặc cả hai khi một người sử dụng ma túy lặp đi lặp lại theo chu kỳ hoặc dùng kéo dài liên tục một thứ ma túy và tình trạng lệ thuộc này làm thay đổi cách cư xử, bắt buộc họ luôn cảm thấy bức bách phải dùng ma túy để có được những hiệu ứng ma túy về mặt tâm thần của ma túy và thoát khỏi sự khó chịu, vật vã do thiếu ma túy”3. Luật Phòng chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 định nghĩa “người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này”. 1.1.4. Tác hại của ma túy Khi nói đến tác hại của ma túy, hình ảnh đầu tiên liên tưởng đến đó là những hình ảnh gầy gò, tiều tụy của người sử dụng ma túy hay những hình ảnh người nghiện ma túy vật vã trong cơn nghiện…tất cả những hình ảnh đó đều là những hậu quả do ma túy mang lại. Tác hại của ma túy có thể thấy được ở các khía cạnh sau: Thứ nhất về sức khỏe, ma túy gây tổn hại rất nghiêm trọng về sức khỏe. Ma tuý được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau như: Hút (thuốc phiện, hút cần sa, hít (heroin, ma tuý tổng hợp (hàng đá)), tiêm chích (heroin, morphine, thuốc phiện) và uống (các loại ma tuý tổng hợp); và hiện nay một số hình thức sử dụng ma túy mới xuất hiện như hít một số loại ma túy mới xuất hiện hay miếng da dưới lưỡi. Như vậy ma tuý đưa vào cơ thể theo đường tiêu hoá, đường hô hấp, đường máu tuần hoàn hoặc thẩm thấu qua da, niêm mạc và gây tổn hại trực tiếp cho các cơ quan này. Đồng thời gây ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa (làm cho người nghiện luôn có cảm giác no, vì vậy họ không muốn ăn, tiết dịch của hệ tiêu hoá giảm nên họ thường có cảm giác buồn nôn, đau bụng, đại tiện lúc lỏng, lúc táo bón); hệ tuần hoàn (Người nghiện thường bị loạn nhịp tim, huyết áp tăng giảm đột ngột, mạch máu bị xơ cứng. Đặc biệt là hệ mạch máu làm ảnh hưởng đến hoạt động của bộ não. Do việc tiêm chích thường không vô trùng nên dẫn đến nhiễm trùng máu, viêm tắc tĩnh mạch); hệ hô hấp (Những đối tượng hít ma tuý thường bị viêm mũi, viêm xoang, viêm đường hô hấp); các bệnh về da (Người nghiện ma tuý bị rối loạn cảm giác da nên không “nghiện ma túy là gì, bản chất và cơ sở sinh lý học của nghiệnmatúy”,www.lamdong.gov.vn/vivn/phongchongmatuy/tachai/pages/banchatnghienmatuy/aspx 21/9/2009 3 5 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn cảm thấy bẩn, mặt khác họ thường sợ nước, vì vậy họ rất sợ và ngại tắm. Đây là điều kiện thuận lợi cho các bệnh về da phát triển như ghẻ lở, hắc lào viêm da…); làm suy giảm chức năng giải độc (Trong cơ thể gan, thận là cơ quan chủ yếu đào thải các chất độc. Khi nghiện ma tuý nhất là heroin, hai cơ quan này suy yếu ảnh hưởng đến chức năng thải độc làm các chất độc tích tụ trong cơ thể, càng làm cho gan thận và toàn cơ thể suy yếu, thường người nghiện hay bị các bệnh như: áp xe gan, viêm gan, suy thận dẫn đến tử vong); ảnh hưởng đối với hệ thần kinh (Khi đưa ma tuý vào cơ thể, ma tuý sẽ tác động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ương, gây nên tình trạng kích thích hoặc ức chế từng phần ở bán cầu não. Người nghiện có biểu hiện rối loạn phản xạ thần kinh, đau đầu, chóng mặt, trí nhớ giảm sút, rối loạn cảm giác, run tay chân, viêm dây thần kinh dễ bị kích động dẫn đến tội ác, nếu dùng liều cao cơ thể bị ngộ độc cấp, biểu hiện rối loạn tinh thần nặng, hôn mê. Người nghiện ma tuý dẫn đến tình trạng nhiễm độc ma tuý mãn tính, suy nhược toàn thân, người gầy gò xanh xao, mặt trắng, môi thâm, nước da tái xám, dáng đi xiêu vẹo, cơ thể gầy đét do suy kiệt hay phù nề do thiếu dinh dưỡng, rối loạn nhịp sinh học, thức đêm, ngủ ngày, sức khoẻ giảm sút rõ rệt. Người nghiện ma tuý bị suy giảm sức lao động, giảm hoặc mất khả năng lao động và khả năng tập trung trí óc. Trường hợp sử dụng ma tuý quá liều có thể bị chết đột ngột. Thứ hai, gây tổn hại về nhân cách. Sử dụng ma tuý làm cho người nghiện thay đổi trạng thái tâm lý, sa sút về tinh thần. Họ thường xa lánh nếp sống sinh hoạt lành mạnh, xa lánh người thân, bạn bè tốt. Khi đã lệ thuộc vào ma tuý thì nhu cầu cao nhất đối với người nghiện là ma tuý, họ dễ dàng bỏ qua những nhu cầu khác trong cuộc sống đời thường. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu cấp bách về ma tuý cho bản thân, họ có thể làm bất cứ việc gì kể cả trộm cắp, lừa đảo, cướp giật, thậm chí giết người… miễn là có tiền mua ma tuý để thoả mãn cơn nghiện. Hành vi lối sống của họ bị sai lệch so với chuẩn mực đạo đức của xã hội và pháp luật. Họ là những người bị tha hoá về nhân cách. Ma tuý còn làm biến chất một số cán bộ cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật vì buôn bán ma tuý đem lại lợi nhuận cao cho nên bọn tội phạm ma tuý dùng tiền mua chuộc một số ít cán bộ biến chất để tiếp tay bảo vệ cho chúng, thậm chí cán bộ cơ quan nhà nước trong đó có cơ quan bảo vệ pháp luật tham gia mua bán ma tuý để kiếm lời. Cho nên ma tuý chính là nguyên nhân phát sinh nhiều loại bệnh tật, huỷ hoại sức khoẻ của người nghiện và cũng là nguồn phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác đồng thời cũng là nguyên nhân chính làm lây lan căn bệnh truyền nhiễm của thế kỷ đó là HIV/AIDS. Theo số liệu thống kê của cơ quan chức năng thì trong số người bị nhiễm HIV có tới gần 70% là 6 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn do nghiện ma tuý (trong đó lây nhiễm HIV được xác định qua 3 đường là: tiêm chích ma tuý, đường tình dục và lây từ mẹ sang con). Thứ ba, gây tổn hại về tỉnh cảm và hạnh phúc gia đình. Người nghiện ma tuý làm tiêu tốn tài sản, đây cũng là một hậu quả dễ nhận thấy nhất đối với những gia đình có người nghiện ma tuý. Thiệt hại về kinh tế do sử dụng ma tuý là một trong những nguyên nhân làm đổ vỡ mối quan hệ tốt đẹp giữa những người trong gia đình với người nghiện. Mặt khác người nghiện có xu hướng sống thu mình, ngại tiếp xúc lẩn tránh người thân. Do quá trình sử dụng ma tuý làm cho người nghiện thay đổi tính cách như hay gây gổ, cáu gắt, lừa dối, trộm cắp, cướp giật… đến lúc nào đó bản thân họ không còn hoà hợp với những người trong gia đình. Khi lên cơn nghiện thì người nghiện mất hết lý trí, không còn điều khiển được hành vi của mình, họ xoay xở và tìm mọi cách để có tiền mua chất ma tuý nhằm thoả mãn cơn nghiện. Nhưng khi không có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đó, người nghiện trở nên liều lĩnh, tàn bạo có thể gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng như hành hạ người thân, cha mẹ, vợ con, anh em, đập phá tài sản gia đình… từ đó dẫn đến hạnh phúc gia đình bị tan vỡ và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống cộng đồng. Thứ tư, tác hại của ma túy đối với nền kinh tế. Sự lạm dụng các chất ma tuý đã làm mất đi các giá trị tổng hoà của cuộc sống cộng đồng. Việc duy trì các dịch vụ có liên quan đến ma tuý vừa tốn kém vừa tiêu phí tiền bạc, nhân lực quý giá cần thiết cho các nhu cầu và các mối quan tâm khác của xã hội. Hàng năm ở nước ta phải chi phí hàng trăm tỷ đồng cho việc xoá bỏ cây thuốc phiện, cho công tác cai nghiện ma tuý, công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý. Cuối năm 2014 cả nước có 204.377 người nghiện. Ước tính hàng năm tiêu phí gần 6.000 tỉ đồng cho việc sử dụng heroin nói riêng và ma túy nói chung. Nếu số tiền này được đầu tư vào các chương trình phát triển kinh tế thì hiệu quả mang lại sẽ rất lớn. Ngoài những thiệt hại trực tiếp về kinh tế, tệ nạn ma tuý còn gây ra những tác động xấu đối với nền kinh tế như: Làm suy giảm lực lượng lao động của gia đình và xã hội cả về số lượng lẫn chất lượng, làm cho thu nhập quốc dân cũng giảm, nhưng chi phí cho dự phòng và chăm sóc y tế lại tăng; người nghiện ma tuý hầu hết ở độ tuổi lao động, vì vậy vấn đề đào tạo cán bộ, công nhân có tay nghề để thay thế họ là một vấn đề khó khăn; đầu tư nước ngoài cũng giảm vì họ ngại đầu tư vào những nước có tỷ lệ người nghiện cao như ở nước ta. Thứ năm, ma tuý là nguyên nhân xô đẩy người lương thiện vào con đường phạm tội. Do sử dụng các chất ma tuý mà người nghiện không làm chủ được hành vi của mình dẫn đến họ có những hành vi vi phạm phẩm chất đạo đức và vi phạm 7 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn pháp luật. Theo thống kê thì có tới 85,5% người nghiện ma tuý có tiền án, tiền sự. Khi trở thành nô lệ của ma tuý, nhu cầu về tiền bạc đối với người nghiện là rất lớn. Trong khi đó khả năng về tài chính của bản thân họ và gia đình không thể đáp ứng. Lúc đó, họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có tiền mua ma tuý thoả mãn cho cơn nghiện kể cả giết người, cướp tài sản ... điều này đã chứng minh được qua những tổng kết thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma tuý ở nước ta thời gian qua cho thấy số đối tượng nghiện ma tuý phạm tội cướp giật, trộm cắp, lừa đảo… chiếm tỷ lệ khá cao. Trong số những đối tượng nghiện các chất ma tuý, có một số không nhỏ đã tham gia vào cuộc vận chuyển thuê, bán thuê ma tuý cho các đối tượng buôn bán ma tuý chuyên nghiệp hoặc họ tự tham gia buôn bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý… nhằm thu lợi bất chính vừa có tiền để duy trì việc hút, tiêm chích ma tuý cho bản thân. Hoạt động mua bán, tổ chức sử dụng ma tuý trái phép của các đối tượng và sự tập trung của những người nghiện ở một địa bàn sẽ kéo theo những tệ nạn xã hội và những vi phạm pháp luật khác làm bất ổn về an ninh trật tự tại địa phương đó. Thực trạng nói trên đã gây tâm lý hoang mang, lo sợ và bất bình trong quần chúng nhân dân. 1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về xử lý người nghiện ma túy 1.2.1. Giai đoạn trước năm 2002 Ngày 06/7/1995, Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính lần đầu tiên được ban hành (gọi tắt là Pháp lệnh 1995), thay thế Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989; lần đầu tiên, Pháp lệnh 1995 có quy định việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác, trong đó có biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Điều 24 Pháp lệnh 1995 quy định việc đưa vào cơ sở chữa bệnh được áp dụng đối với đối tượng là người nghiện ma túy, người mại dâm có tính chất thường xuyên, đã được chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không chịu chữa, giới hạn trong độ tuổi trên 18 và không quá 55 đối với nữ, không quá 60 đối với nam; thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh 1995 là từ 03 tháng đến 12 tháng với mục đích chữa bệnh học tập và lao động. Nghị định số 20/CP ngày 13/4/1996 của Chính phủ ban hành quy chế về cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh 1995 quy định cụ thể hơn về đối tượng nghiện ma túy bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bao gồm “người nghiện ma túy đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng vẫn chưa cai nghiện được; đã được đưa vào Cơ sở chữa bệnh để cai nghiện nhưng vẫn tái nghiện; người nghiên nặng không có khả năng để cai nghiện tại nhà hoặc cai nghiện tại cộng đồng. Thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh 8 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn thuộc người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính cấp tỉnh, là chủ tịch ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Về mô hình tổ chức cai nghiện ma túy theo Pháp lệnh 1995, Nghị định số 20/CP của Chính phủ quy định cơ sở chữa bệnh quy định là đơn vị sự nghiệp, có tư cách pháp nhân, được cấp kinh phí sự nghiệp; được thành lập theo địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Lao động - Thương binh và xã hội, mỗi tỉnh, thành phố thành lập một cơ sở chữa bệnh. Đối với những tỉnh, thành phố có số lượng lớn người nghiện ma túy, người mại dâm thì có thể thành lập một cơ sở chữa bệnh riêng cho người nghiện ma túy và một cơ sở chữa bệnh riêng cho người mại dâm. Những địa phương có ít người nghiện ma túy, mại dâm thì có thể gửi những người bị áp dụng biện pháp này ở các cơ sở chữa bệnh của những địa phương khác trên cơ sở thỏa thuận giữa địa phương nơi gửi và nơi nhận. Việc thành lập hay giải thể cơ sở chữa bệnh tại địa phương sẽ do ủy ban nhân dân cấp tỉnh thỏa thuận bằng văn bản với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội. Cơ sở chữa bệnh theo quy định của Pháp lệnh 1995 và những văn bản hướng dẫn thi hành có chức năng, nhiệm vụ tiếp nhận, chữa bệnh, phục hồi sức khoẻ cho những người được đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức học tập, giáo dục, dạy nghề; bảo đảm các điều kiện vật chất, sinh hoạt tinh thần cho người được đưa vào cơ sở chữa bệnh theo đúng quy định, tổ chức lao động sản xuất cho người được đưa vào cơ sở chữa bệnh, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để tổ chức quản lý, chữa bệnh, giáo dục, lao động, dạy nghề và hướng nghiệp cho người được đưa vào cơ sở chữa bệnh. Người được đưa vào cơ sở chữa bệnh phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước và nội quy của Cơ sở, chịu sự quản lý, giáo dục của Cơ sở, tuân theo chế độ điều trị, chữa bệnh và lao động do Cơ sở chữa bệnh quy định. Về cơ cấu tổ chức, tuỳ theo quy mô tổ chức và số lượng người được đưa vào cơ sở chữa bệnh, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định số lượng các phòng và biên chế cần thiết cho phù hợp với cơ sở chữa bệnh thuộc địa phương mình. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định bổ nhiệm Giám đốc cơ sở chữa bệnh trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và xã hội, Phó Giám đốc cơ sở chữa bệnh sẽ do Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và xã hội quyết định bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Giám đốc cơ sở chữa bệnh. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thống nhất quản lý Nhà nước đối với các cơ sở chữa bệnh. Về quan hệ phối hợp, khi có tình hình phức tạp về y tế, an ninh trật tự mà cơ sở chữa bệnh không bảo đảm được thì Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội làm văn bản đề nghị, Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Công an cấp tỉnh có trách 9 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn nhiệm cử cán bộ, chiến sỹ của ngành mình tăng cường, hỗ trợ, phối hợp trong việc bảo đảm an ninh trật tự và chữa bệnh, điều trị tại các cơ sở chữa bệnh. Trong thời gian công tác tại cơ sở chữa bệnh các cán bộ, chiến sĩ của ngành Y tế, Công an làm việc theo sự phân công và điều hành của Giám đốc Cơ sở chữa bệnh. 1.2.2. Giai đoạn 2002 đến 2012 Trước những thay đổi kinh tế, xã hội của đất nước, hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2002 đến 2012 phát triển tương đối nhanh và từng bước hoàn thiện nhằm đáp ứng công cuộc phát triển của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Sau gần 07 năm triển khai thực hiện trong thực tế, Pháp lệnh 1995 đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định cần phải được thay thế để phù hợp với hệ thống pháp luật vào thời điểm hiện tại và định hướng của Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10. Ngày 02/7/2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X đã ban hành Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thay thế Pháp lệnh 1995 (gọi tắt là Pháp lệnh 2002). Pháp lệnh 2002 tiếp tục quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh tương tự như Pháp lệnh 1995, tuy nhiên có những thay đổi nhất định. Thứ nhất, về diện người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, đã phân rõ diện người nghiện ma túy và mại dâm. Theo đó, đối với diện người nghiện ma túy áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Thời hạn đưa vào cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh 2002 cũng đã phân biệt cụ thể, đối với người nghiện ma túy là từ 12 tháng đến 24 tháng, người bán dâm là từ 03 tháng đến 18 tháng. Thứ hai, về thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh sẽ do chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định mà không phải là cấp tỉnh như Pháp lệnh 1995. Về cơ cấu tổ chức, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập và quản lý cơ sở chữa bệnh theo địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội được quy định tại Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức và hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành 10 Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh, nhiều nội dung giống như Pháp lệnh 1995 và Nghị định số 20/CP. 1.2.3. Giai đoạn 2012 đến nay Thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, hệ thống pháp luật cũng phải thể hiện được đường lối, chủ trương đó. Ngày 20/6/2012, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Xử lý vi phạm hành chính, đây là đạo luật có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm cụ thể đường lối của Đảng, đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong tiến trình hội nhập quốc tế; thể hiện các cam kết của Việt Nam đối với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Việc xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy cũng đã có những cơ bản, rõ rệt, đã tuân thủ được nguyên tắc hiến định, cụ thể đó là: Thứ nhất, về tên gọi của biện pháp đã thay đổi từ “đưa vào cơ sở chữa bệnh” thành “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Thứ hai, là việc thay đổi cơ quan có thẩm quyền áp dụng từ cơ quan hành chính nhà nước sang tòa án. Đây là thay đổi mang tính cách mạng nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, theo đó quyền con người, quyền công dân chỉ bị hạn chế theo phán quyết có hiệu lực pháp luật của tòa án. 1.3. Những khó khăn trong tổ chức cai nghiện Kết quả hoạt động cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua cũng đã mang lại những hiệu quả nhất định. Những số liệu về người nghiện được áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh (theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính) và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (theo Luật xử lý vi phạm hành chính) qua từng năm đã nói lên được điều đó. Tuy có những khoảng thời gian nhất định khi hệ thống pháp luật liên quan đến việc xử lý hành vi vi phạm cũng như hoạt động cai nghiện chưa kịp hoàn thiện nên việc áp dụng biện pháp cai nghiện gặp khó khăn, nhất là thời điểm sau khi Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực cho đến trước khi các văn bản hướng dẫn được ban hành để hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, tổ chức các hoạt động cai nghiện ma túy trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Bến Tre cũng gặp không ít khó khăn và dẫn đến việc hiệu quả hoạt động của công tác này chưa mang lại hiệu quả. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan