Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình...

Tài liệu Luận án hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

.PDF
226
200
73

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGÔ THỊ NGỌC VÂN HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 62 38 01 04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS NGUYỄN VĂN HUYÊN 2. TS. PHAN THANH MAI HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Ngô Thị Ngọc Vân MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu Kết luận chương 1 7 7 11 25 29 Chương 2: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1. Khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 2.2. Ý nghĩa hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Kết luận chương 2 30 30 59 65 Chương 3: CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 3.2. Thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Kết luận chương 3 67 67 82 110 125 Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 126 4.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp và vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư 4.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 4.3. Các giải pháp khác Kết luận chương 4 126 131 138 146 KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 149 151 152 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS CQĐT HĐXX : : : Bộ luật Tố tụng hình sự Cơ quan điều tra Hội đồng xét xử NBC LĐLSVN TA : : : Người bào chữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam Toà án TANDTC : Toà án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKS VKSNDTC : : Viện kiểm sát Viện Kiểm sát nhân dân tối cao DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1: Số lượng luật sư tham gia bào chữa trong 5 năm từ năm 2007 đến 2011 Biểu đồ 3.2: Tình hình số luật sư được mời và theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng trong 5 năm từ năm 2007 đến 2011 Biểu đồ 3.3: 83 Tình hình luật sư tham gia bào chữa giai đoạn từ 5/2009 đến 5/2014 Biểu đồ 3.4: 82 84 Số vụ án luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng 84 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế để bảo vệ có hiệu quả các quyền con người, các quyền công dân càng trở nên cấp bách và trở thành nhiệm vụ của toàn xã hội. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong đó có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội thuận lợi là mục tiêu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới nhiệm vụ thúc đẩy quá trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân song sự vi phạm tới các quyền con người, đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình sự vẫn đang là vấn đề nhức nhối. Để đẩy mạnh công tác tư pháp cho ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQTW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như “bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”, “ các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà...”. Như vậy, bảo đảm thực hiện quyền và trách nhiệm của Luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và trong giai đoạn đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng là vấn đề bức xúc trong cải cách tư pháp, đồng thời có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Đó là yêu cầu tất yếu khách quan để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm, thể hiện bản chất hoạt động tố tụng hình sự, có vai trò quyết định trong giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng là cần thiết khách quan. Khi tham gia giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong phạm vi được pháp luật cho phép, Luật sư bào chữa có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện các hoạt động nghề nghề nghiệp khác nhau nhằm bào chữa cho bị can, bị cáo một cách có hiệu quả. Hoạt động bào chữa của Luật sư trong trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thể hiện trong các tiểu giai đoạn khác nhau: trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, trong phiên toà sơ thẩm và sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm. Các hoạt động này thể hiện cụ thể khác nhau, tuỳ theo nhiệm vụ tố tụng, thủ tục tố tụng của mỗi giai đoạn. 2 BLTTHS năm 1988 cũng như BLTTHS năm 2003 đều ghi nhận các quyền của bị can, bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, với mục đích bảo vệ họ tránh khỏi sự vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, tất cả các quyền đó đều sẽ trở thành hình thức nếu không có cơ chế bảo đảm cho nó được thực hiện. Do đó, sự tham gia của Luật sư thực chất là để giúp đỡ bị can, bị cáo thực hiện các quyền mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo. Sự giúp đỡ này biểu hiện qua việc Luật sư thực hiện các quyền của mình trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo (thực chất là thông qua hoạt động bào chữa của luật sư). Việc tham gia tố tụng của Luật sư bào chữa là sự giám sát tốt nhất các hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; đấu tranh với những hành vi sai trái để bảo vệ mục đích cuối cùng của quá trình tố tụng hình sự là giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bên cạnh đó, Luật sư bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp luật định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo không có tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo... Hoạt động bào chữa của Luật sư cũng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, hợp tình, hợp lý; giúp Toà án cân nhắc, xem xét để đưa ra phán quyết có sức thuyết phục và nâng cao hiệu quả của pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, thực trạng thi hành các quy định của BLTTHS về sự tham gia của luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Khó khăn đầu tiên khiến hoạt động bào chữa của luật sư bị cản trở đó là thủ tục cấp gấy chứng nhận người bào chữa của Tòa án, tiếp đó là việc xác định quyền và lợi ích của các bị can, bị cáo không đối lập nhau thường không rõ ràng dẫn đến trường hợp luật sư buộc phải, hoặc bị từ chối tham gia bào chữa; luật sư không được tòa án thông báo về quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thâm chí có trường hợp quyết định nói trên còn đóng dấu “mật ” khiến luật sư khó nắm bắt được nội dung; vấn đề tiếp xúc bị cáo tại phiên tòa chưa thuận tiện khi cán bộ dẫn giải luôn yêu cầu sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa… BLTTHS không quy định các trường hợp luật sư được quyền chủ động đề xuất người làm chứng cũng như triệu tập những người liên quan khác có mặt tại phiên tòa nếu không được sự chấp thuận của tòa án; các quy định về sự có mặt của người bào chữa chưa rõ ràng nên trên thực tế nhiều HĐXX tùy tiện trong việc quyết định xét xử nếu người bào chữa vắng mặt… Hoạt động bào chữa của Luật sư thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Nguyên nhân của các bất cập, hạn chế đó là do bất cập trong quy định của pháp luật 3 cũng như nhận thức và tổ chức thực hiện hoạt động bào chữa trên thực tế. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự; làm rõ chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chú trọng chức năng gỡ tội. Theo đó, vị trí của Luật sư phải được xem là một bên tham gia tố tụng, ngang hàng với Viện kiểm sát tại phiên toà nói chung và phiên toà sơ thẩm nói riêng. Nhận thức đó phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là những người tiến hành tố tụng và mọi công dân. Đồng thời, cần có giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, nâng cao phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn của Luật sư; chú ý đến vai trò của tổ chức Luật sư trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp; Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý và điều kiện cần thiết để khuyến khích Luật sư trong hoạt động nghề nghiệp, đồng thời nâng cao vai trò tự quản của Đoàn Luật sư. Trong quá trình cải cách tư pháp cần củng cố, tăng cường tổ chức và hoạt động của Luật sư. Sự đổi mới này phải đặt trong tổng thể cải cách tư pháp, trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Trong quá trình tham khảo các tài liệu có liên quan, nghiên cứu sinh nhận thấy mới chỉ có các công trình nghiên cứu ở cấp độ thạc sỹ, tiến sỹ, đề tài khoa học cấp cớ sở, cấp Bộ, các bài viết viết trên các tạp chí chuyên ngành của các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung hoặc vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền của bị can, bị cáo …hay chỉ đề cập đến khía cạnh hẹp của vấn đề mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực diện, chuyên sâu về vấn đề hoạt động thực tế của luật sư đặc biệt là hoạt động bào chữa của luật sư. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động bào chữa của Luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của Luật sư có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Đề tài “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn về hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động bào chữa và các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự. 4 Với mục đích đó, Đề tài nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ sau: - Làm rõ vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: xây dựng khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nội dung hoạt động bào chữa, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của hoạt động này. - Làm rõ cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc). - Kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định pháp luật liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư, thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này. Phạm vi nghiên cứu: tập trung làm rõ khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cở sở pháp lý, nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động này; làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hoạt động bào chữa của luật sư và những phương hướng, yêu cầu đặt đối với việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác. Luận án nghiên cứu nội dung hoạt động bào chữa và thực trạng của hoạt động này trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và tại phiên toà sơ thẩm (không nghiên cứu hoạt động bào chữa của luật sư trong một số trường hợp đặc thù như bào chữa cho người chưa thành niên, theo thủ tục rút gọn và sau phiên toà sơ thẩm). Về pháp luật, luận án tập trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư. Ngoài ra, luận án cũng nghiên cứu các văn bản pháp luật TTHS khác và văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề này cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài ở mức độ phù hợp với yêu cầu và điều kiện nghiên cứu. Vấn đề thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luận án sẽ đánh giá thông qua việc nghiên cứu, tổng kết các vụ án đã xét xử sơ thẩm có sự tham gia của luật sư bào chữa từ năm 2005-2014 và hoạt động thực tế của luật sư bào chữa ở một số tỉnh, thành phố trên cơ sở báo cáo của LĐLS Việt Nam, của VKSNDTC, TANDTC, phiếu khảo sát và các thông tin, tài liệu khác. 5 4. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lê nin; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người, về vấn đề cải cách tư pháp và về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Tác giả chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với nội dung nghiên cứu. Cụ thể: - Sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp trong tất cả các chương của luận án để làm rõ các vấn đề về lý luận, thực trạng và giải pháp. - Sử dụng phương pháp so sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến luận án; so sánh với các chuẩn mực quốc tế; đánh giá tình hình luật sư tham gia bào chữa; đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư; so sánh pháp luật mới - cũ, Việt Nam - các nước khác. - Sử dụng phương pháp thống kê khi tổng hợp các số liệu liên quan đến luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự; khảo sát, phỏng vấn đối với các luật sư đang hành nghề, người tiến hành tố tụng đánh giá về chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư. 5. Những điểm mới của luận án - Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư như xây dựng khái niệm hoạt động bào chữa, chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa, nội dung của hoạt động này trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về hành nghề luật sư ảnh hưởng đến hoạt động bào chữa của luật sư. - Làm rõ thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế của hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm thực hiện và nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể bổ sung lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng. Luận án sẽ là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá nhân, cơ quan hữu quan tham khảo, nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLTTHS, Luật Luật sư; là nguồn tài liệu để biên soạn tài liệu dạy và học cho các cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp. 6 7. Kết cấu của luận án Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đó đặt ra, luận án có kết cấu như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận án sẽ gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2: Lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 3: Cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI Hoạt động bào chữa của luật sư là vấn đề đã được nghiên cứu trong một số công trình khoa học ở các góc độ tiếp cận, mức độ, phạm vi khác nhau và đã đạt được những kết quả nghiên cứu đáng trân trọng. Về mặt lý luận, những nghiên cứu về vấn đề quyền con người (trong đó nhấn mạnh quyền bào chữa và quyền có người bào chữa của người bị buộc tội), mô hình tố tụng, chức năng tố tụng và cải cách tư pháp trên thế giới và ở Việt Nam là cơ sở lý luận và định hướng cho việc nghiên cứu đề tài. Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, có không ít bài báo, công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đề cập đến quyền bào chữa và quyền có NBC. Cuốn “ Brownlie’s document on the man right” của tác giả Lan Brownlie, GuyS.Goodwin -Grill năm 2010 tập trung phân tích các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền bào chữa, quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự và vấn đề bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội trong đó có việc nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Sách “Toward an international criminal procedure” của tác giả Christoph Saffeling năm 2003 với nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về quyền con người của người bị buộc tội nói chung và quyền bào chữa nói riêng, đặc biệt, cuốn sách có đề cập đến nội dung tạo hành lang pháp lý và điều kiện cần thiết để luật sư trợ giúp người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của họ. Bài viết “Basic principles on the role of lawyers” của tác giả Adam Paker năm 2008 đã phân tích rõ nội dung nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự quốc tế qua việc chỉ ra các quy định minh bạch về quyền bào chữa và trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội như được nhanh chóng tiếp cận với luật sư, được tiếp xúc riêng với luật sư. Bài viết cũng phân tích rõ các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa như quyền có đủ thời gian và phương tiện chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, tranh tụng, tiếp cận đối tượng có liên quan, thu thập chứng cứ…. Bài viết “Quá trình phát triển luật hình sự ở Hoa Kỳ” của GS. JamesB. Jacobs, Warren.E.Burger tại tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ năm 2001 đề cập đến việc bảo vệ quyền con người trong suốt quá trình tố tụng trong đó có quyền bào chữa, quyền có người bào chữa. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và hầu hết mang tính mô tả pháp luật TTHS các nước. Ngoài ra, có 8 không nhiều các nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng của người bị buộc tội được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người. Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một khối lượng kiến thức nền tảng về quyền bào chữa, quyền có người bào chữa trong TTHS quốc tế và một số quốc gia trên thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện về quyền có NBC của người bị buộc tội cũng như các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền trong sự so sánh và đối chiếu với pháp luật nước ngoài là thực sự cần thiết và có ý nghĩa. Nghiên cứu lý luận cơ bản về mô hình tố tụng cần kể đến cuốn sách “Tư pháp hình sự so sánh” của Philip. L. Reichel (bản dịch tiếng Việt - Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý). Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích đặc điểm và so sánh các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới. Tác giả cũng phân tích làm rõ và so sánh các loại mô hình tố tụng, đặc biệt là mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm và mô hình tố tụng công bằng. Những nghiên cứu cho thấy rằng mặc dù cùng chung mục đích là tìm ra sự thật, phát hiện và xử lý tội phạm nhưng mỗi truyền thống pháp luật sử dụng mỗi mô hình tố tụng khác nhau và đặt vấn đề là cách thức nào được xem là tốt nhất để tìm ra sự thật. Sự khác nhau giữa các mô hình tố tụng tất yếu dẫn đến sự khác nhau, trong đó có sự khác nhau về địa vị pháp lý của các chủ thể và cách thức vận hành các chức năng tố tụng, trong đó có sự khác nhau về những quy định liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư. Cuốn sách Khái quát hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ (dịch từ nguyên bản tiếng Anh Outline of the U.S. Legal System, Congressional Quarterly, Inc, 2001) cũng là một tài liệu đáng quan tâm nghiên cứu vì cuốn sách này đã “phác họa bức tranh toàn cảnh hoạt động luật pháp Hoa Kỳ - về các thẩm phán, luật sư, bồi thẩm đoàn; về thủ tục TTHS và dân sự; về tòa án tối cao, các tòa sơ thẩm và phúc thẩm cấp bang và liên bang” [21]. Đặc biệt, cuốn sách đề cập đến hoạt động và vai trò của luật sư trong việc thương lượng lời khai (hay còn gọi là mặc cả thú tội), khi mà đổi lấy việc nhận tội, bị cáo được áp dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức theo hướng có lợi hơn. Hoạt động này không có ở Việt Nam nhưng cũng có thể nghiên cứu để rõ hơn mức độ chủ động của luật sư trong TTHS. Bài viết “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp” của tác giả James Claude và Joseph Daly đã chỉ ra cách thức thực hiện QBC của luật sư Pháp và Mỹ trong một vụ án hình sự cũng như đề cập một số kỹ năng bào chữa dưới góc độ luật sư Mỹ trong một vụ án cụ thể. Cuốn sách “Những mô hình tố tụng hình sự trên thế giới” của Jean -Philippe Rivaud nêu rõ sự tham gia của luật sư ngay từ khi một người bị bắt và các quyền cơ bản của người bị buộc tội như quyền có người 9 bào chữa, quyền im lặng… Cuốn sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc, Indonesia, NHật Bản, Hành Quốc và Nga” do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp hình sự, quy định về quyền bào chữa, tạo điều kiện để luật sư tham gia bào chữa của 5 quốc gia chọn lọc. Trong đó, các vấn đề luật sư được phép sử dụng nhiều phương pháp đặc biệt để thu thập chứng cứ, cho phép luật sư đề nghị Đoàn luật sư địa phương yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, việc hỏi cung không được ghi hình, ghi tiếng khi chưa có sự hiện diện của luật sư … được tập trung nghiên cứu. Những nghiên cứu về mô hình tố tụng nói trên có những nội dung liên quan đến hoạt động bào chữa của người bào chữa, trong đó có luật sư. Vì vậy, việc tham khảo các tài liệu trên giúp cho việc nghiên cứu của tác giả có những hiểu biết cần thiết về các mô hình tố tụng, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hợp lý, phù hợp với mô hình tố tụng pha trộn mà cải cách tư pháp ở Việt Nam đang hướng tới. Liên quan đến vấn đề hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cuốn sách “Bào chữa trong các vụ án hình sự ở Liên bang Nga” đăng trên trang web: http://bit.ly/ntMTwq của William Burnham năm 2012, Giáo sư Luật, có nội dung phân tích quyền của luật sư bào chữa, cụ thể tập trung vào các vấn đề: Liệt kê các văn bản pháp luật của các nước mà bạn là chuyên gia quy định về quyền của luật sư bào chữa; đưa ra tỷ lệ phần trăm các vụ án hình sự có sự tham gia của luật sư bào chữa từ giai đoạn xét xử; chủ thể nào được đại diện cho bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự…. Bài viết phân tích rõ về giai đoạn điều tra: quy định của Hiến pháp Liên bang Nga (điều 51) quy định về việc bảo vệ chống lại sự buộc tội bằng việc bảo đảm rằng “không ai có nghĩa vụ khai, làm chứng chống lại chính anh ta hoặc cô ta, hoặc chống lại vợ hoặc chồng hoặc những người có quan hệ thân tích với anh ta/cô ta”. Ngoài ra, chuyên gia đi sâu phân tích quy định của Bộ luật TTHS Liên bang Nga năm 2001 quy định các biện pháp bảo vệ quan trọng để đảm bảo rằng các quyền này được bảo vệ. Cụ thể là các văn bản pháp luật này quy định quyền bào chữa của luật sư từ giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng - ngay từ khi tự do của người bị tình nghi hoặc của bị can bị ngăn chặn bởi các cơ quan có thẩm quyền.; luật sư không cần thiết phải có sự chấp thuận hoặc cho phép cụ thể nào ngoài sự thừa nhận của Đoàn luật sư nơi mà luật sư tham gia và có một lệnh từ tổ chức luật sư ủy quyền cho luật sư đại diện cho khách hàng. Bên cạnh đó, trong giai đoạn điều tra, người bào chữa có quyền và phải có mặt khi người bị tình nghi hoặc bị can đưa ra lời khai trước điều tra viên, và thậm chí trước cả giai đoạn đó. Theo đó, quyền bào chữa được bắt đầu khi một người thực sự bị bắt giữ hoặc 10 “khi có bất kỳ biện pháp tố tụng có tính cưỡng bức nào khác hoặc có hành vi tố tụng khác xảy ra xâm phạm các quyền tự do của một người bị tình nghi là phạm một tội”. Bộ luật TTHS Liên bang Nga 2001 chỉ rõ “thời điểm thực sự bị bắt” là khi người dó “thực tế bị tước quyền tự do di chuyển”. Trong giai đoạn này, luật sư được quyền tham gia vào hai hoạt động điều tra: (i) khi xét hỏi người bị tình nghi hoặc bị can (ii) trong các hoạt động điều tra khác được thực hiện có sự tham gia của người bị tình nghi, bị can và các hoạt động điều tra được thực hiện theo yêu cầu của người bị tình nghi, bị can. Bài viết cũng đề cập đến vấn đề thu thập chứng cứ như việc điều tra độc lập của người bào chữa là một trong những điểm mới lớn nhất của Bộ luật TTHS Liên bang Nga năm 2001. Theo đó, điều 83 của luật này quy định người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ bằng: thu thập vật, tài liệu, thông tin khác; hỏi người khác nếu được họ đồng ý; yêu cầu cung cấp các ghi chép, ý kiến tham khảo và các tài liệu khác của các cơ quan chính quyền, các cơ quan tổ chức địa phương, cơ quan tổ chức xã hội. Những cơ quan, tổ chức này có trách nhiệm cung cấp tài liệu được yêu cầu hoặc bản sao tài liệu đó. Giai đoạn truy tố: Ở cấp sơ thẩm, BLTTHS Nga quy định có giai đoạn điều tra trước khi xét xử và giai đoạn xét xử. Trong giai đoạn điều tra trước xét xử, một người phạm tội có thể là “người bị tình nghi” khi bị bắt và sau đó là “bị can” khi những buộc tội chính thức được đưa ra. Quyền tham gia bào chữa của luật sư xuất hiện từ “thời điểm bị bắt trên thực tế”, quyền này không có sự khác biệt đối với hai nội dung nêu trên. Trong giai đoạn xét xử, các vấn đề về việc tiếp cận của người bào chữa với khách hàng của mình trong giai đoạn trước xét xử và giai đoạn xét xử không có sự khác biệt, nên sẽ không có sự cản trở nào đối với luật sư ở giai đoạn xét xử. Trong quá trình xét xử, nếu người bào chữa không xuất hiện tại phiên tòa (trong trường hợp được chỉ định) thì vụ án phải được hoãn sang một ngày khác. Bị cáo có 5 ngày để lựa chọn người bào chữa mới và nếu họ người bào chữa mới không thể có mặt thì tòa án chỉ định người bào chữa. Trong tài liệu tại Hội thảo quốc tế về Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của luật sư bào chữa năm 2012, tác giả Tian Wen Chang - chuyên gia Trung Quốc công bố bài viết “Suy nghĩ và đánh giá tổng thể về bản dự thảo sửa đổi Luật tố tụng hình sự Trung Quốc”. Bài viết này đã đề cập đến những khó khăn trong công tác xây dựng Luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và tạo bình diện mở rộng cho sự tham gia tố tụng hình sự của luật sư. Bởi lẽ, công tác bào chữa trong vụ án hình sự là lĩnh vực hành nghề quan trọng, có những đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bảo vệ sự công bằng trong tư pháp và 11 thúc đẩy xây dựng hệ thống pháp luật hình sự của Trung Quốc. Tác giả đề cập đến nội dung bản kiến nghị hoàn thiện Luật Tố tụng hình sự của Trung Quốc. Trong đó, vấn đề bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm được đề xuất theo hướng thực hiện chế độ đối kháng. Cụ thể: Hoàn thiện chế độ làm chứng tại tòa của người làm chứng; hoàn thiện quy chế thẩm vấn chéo; tăng cường quyền bào chữa, tạo sự cân bằng giữa cơ quan tố tụng và bên bào chữa, đảm bảo cho bên bảo chữa tham gia xét xử một cách hiệu quả và thực chất; đề phòng trường hợp cơ quan kiểm sát lạm dụng quyền truy tố, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên bào chữa; giảm bớt màu sắc chức trách trong hoạt động xét xử của tòa án, thực hiện tính trung lập của tòa án, tăng quyền tham dự và quyền quyết định của các bên tố tụng và bên bào chữa. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, điạ vị pháp lý của luật sư, các giai đoạn tố tụng hình sự. Các nội dung này được tiếp cận ở phạm vi rộng, hẹp khác nhau, trong đó có đề cập đến vấn đề hoạt động bào chữa của luật sư. Những vấn đề lý luận đó giúp cho tác giả luận án có được cách tiếp cận đúng đắn về quyền bào chữa và hoạt động bào chữa của luật sư, xác định hướng kiến nghị hoàn thiện pháp luật trên nguyên tắc vừa bảo đảm quyền bào chữa của đối tượng bị buộc tội, vừa bảo đảm lợi ích nhà nước, lợi ích chung của xã hội, bảo đảm lợi ích của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến cơ sở lý luận của luận án Những nghiên cứu về quyền con người có thể kể đến các cuốn sách chuyên khảo: “Quyền con người - tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học”- GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội 2010 (2 tập); “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người ”- G.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội 2011; “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” của nhóm tác giả gồm GS.TS Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao và Th.S Lã Khánh Tùng chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 và bài viết “ Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ” của PGS. TSKH. Lê Cảm, Tạp chí TAND số 11, 13 và 14/2006. Nhóm các công trình này đã phân tích nội dung, khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên, xuất hiện trước khi các nhà nước ra đời và quyền bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Trong mối quan hệ tố tụng giữa chủ thể buộc tội và người bị buộc tội, người bị buộc tội luôn 12 yếu thế do đó nhà nước phải ghi nhận quyền bào chữa trong tố tụng hình sự để họ có thể tự bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình. Quyền bào chữa của người bị buộc tội cần được nhà nước thể chế hoá trong quy định pháp luật thì mới có thể thực hiện trên thực tế và đây là một trong các quyền cấu thành nên quyền được xét xử công bằng trong luật pháp quốc tế. Quyền bào chữa, quyền có NBC của người bị buộc tội được ghi nhận từ rất sớm trong lịch sử TTHS thế giới cũng như trong TTHS Việt Nam. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền có NBC được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật TTHS như là một nguyên tắc cơ bản định hướng các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT). Mặc dù vậy, việc bảo đảm quyền này trong thực tế còn tồn tại nhiều hạn chế, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trên thực tế, việc nghiên cứu nhằm tìm kiến những giải pháp bảo đảm có hiệu quả quyền lợi của người bị buộc tội trong TTHS đã được nhiều nhà khoa học tiến hành. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều đề cập ở phạm vi bảo đảm các quyền tố tụng cơ bản của người bị buộc tội. Những nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền có NBC còn khá khiêm tốn, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào được thực hiện dưới góc độ so sánh pháp luật. Ở Việt Nam, các nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa và bảo đảm quyền có NBC còn chưa nhiều. Tài liệu “Nghiên cứu QBC trong pháp luật TTHS và thực tiễn tại Việt Nam” do nhóm nghiên cứu Nguyễn Hưng Quang và cộng sự năm 2012 đã làm rõ các tiêu chuẩn quốc tế về QBC thông qua việc nghiên cứu các văn bản pháp lý quốc tế, khu vực như ICCPR, ECHR, quy chế Rome… ; đánh giá mức độ bảo đảm, tạo điều kiện của cơ quantiến hành tố tụng đối với việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội, luật sư. Bên cạnh đó, các công trình khác như Luận văn thạc sỹ “Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tường Vi; luận án tiến sỹ “Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Mỹ và Đức” của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh; cuốn “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội” của tác giả Phạm Hồng Hải xuất bản năm 1999; cuốn“Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Tuân năm 2003… cũng đề cập đến vấn đề QBC, quyền có NBC, người bào chữa ở những khía cạnh nhất định. Hầu hết các nghiên cứu nêu trên mới chỉ dừng ở mức độ diễn giải luật thực định. Nhìn chung, nội dung đề cập trong các bài viết này tập trung ở 3 khía cạnh: một là nghiên cứu những quy định của Bộ luật TTHS dưới góc độ bảo đảm quyền con người (bao gồm quyền của người bị buộc tội); hai là nghiên cứu nguyên tắc TTHS về bảo đảm 13 quyền bào chữa nói chung của người bị buộc tội; ba là nghiên cứu vai trò của NBC trong TTHS. Bên cạnh đó, một số rất ít bài viết khoa học đề cập đến bảo đảm quyền bào chữa nói chung trong bối cảnh của cuộc cải cách tư pháp. Một vài nghiên cứu dưới dạng sách và luận án (ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ) đã trở nên lạc hậu, không còn tính thời sự. Ở quy mô lớn hơn, đã có những nhóm chuyên gia tiến hành nghiên cứu về thực trạng thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS như đã nêu trên. Mặc dù vậy, kết quả từ những nghiên cứu trên đã giúp làm sáng tỏ quy định của luật TTHS về quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa nói chung, cũng như chỉ ra tương đối những bất cập còn tồn tại. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên vẫn chưa tiếp cận trực tiếp và toàn diện về bảo đảm quyền có NBC, nhất là hoạt động bào chữa của người bào chữa. Những công trình khoa học nghiên cứu lý luận về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng gỡ tội cũng góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài luận án. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do VKSNDTC chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam. Đề án này nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô hình tố tụng của một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình TTHS ở Việt Nam. Đề án này nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô hình tố tụng của một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình TTHS ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ Các chức năng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2012. Trong luận án, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về các chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử trong TTHS; tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện các chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam và đề xuất những giải pháp cần thiết để thực hiện hiệu quả các chức năng của TTHS. Bài viết “Phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS: Buộc tội, bào chữa và xét xử” của tác giả Hà An [73] đã phân tích sự cần thiết phải tạo được cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc tội và bào chữa, nâng cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Các nghiên cứu về thủ tục, phương thức thực hiện các hoạt động tố tụng, trong đó có hoạt động bào chữa của luật sư cũng là những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, đặc biệt là các nghiên cứu về tranh tụng. Có thể kể đến luận án tiến sĩ “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” 14 của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của nguyên tắc tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu quả nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam mà không cần thay đổi mô hình tố tụng truyền thống. Từ đó, khẳng định tầm quan trọng của chức năng gỡ tội và hoạt động bào chữa của người bào chữa. Ngoài ra còn có bài viết “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTHS” của tác giả Lê Tiến Châu, tạp chí Khoa học pháp lý số 1, năm 2003; bài Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật TTHS của PGS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 6, năm 2004; bài “Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Văn Tuân, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 3/2010 (216); bài“Bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên toà mở rộng tranh tụng” của TS. Nguyễn Văn Huyên, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên để về tranh tụng năm 2003, luận văn thạc sỹ “Tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lưu Bình Dương năm 2004… Các công trình trên đã phân tích khía cạnh khác nhau về quyền bào chữa, bảo đảm quyền bào chữa nhưng nhìn chung đã cho chúng ta cái nhìn tổng thể về quyền bào chữa và đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế cũng như làm sáng tỏ về mặt lý luận nội dung quyền này; nhận diện được vai trò của người bào chữa trong đó có luật sư trong tố tụng hình sự; bất cập và nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tế, giải pháp nâng cao hiệu quả bào chữa. Những công trình nghiên cứu trên đều có nội dung liên quan đến quyền bào chữa và hoạt động bào chữa, trong đó có hoạt động bào chữa của luật sư. 1.2.2. Nhóm công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận án Những vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài cũng được nghiên cứu ở nhiều phạm vi và mức độ khác nhau. Ở mức độ đại cương, “Giáo trình Luật TTHS” của Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình Luật TTHS” của Học viện Tư pháp cũng như giáo trình của các cơ sở đào tạo luật khác nghiên cứu về khái niệm người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng; nghiên cứu, phân tích quy định của BLTTHS về quyền, nghĩa vụ tố tụng của người bào chữa cũng như những quy định điều chỉnh các hoạt động cụ thể của luật sư trong quá trình tố tụng. Giáo trình “Kỹ năng hành nghề luật sư” của Học viện Tư pháp (năm 2001), giáo trình “Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án hình sự” của Học viện Tư pháp được sửa đổi, bổ sung năm 2013, giáo trình “Kỹ năng chuyên sâu của Luật sư trong một số vụ án hình sự” năm 15 2015 nghiên cứu về kỹ năng nghề nghiệp của luật sư trong các lĩnh vực hoạt động, trong đó có hoạt động bào chữa của luật sư trong TTHS. Những nội dung trong các cuốn giáo trình này là những kiến thức đại cương, cơ bản về mặt pháp luật và những kỹ năng mềm liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư và kỹ năng hành nghề của luật sư. Nghiên cứu chuyên sâu có liên quan đến vấn đề này có thể kể đến luận án tiến sĩ “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của TS. Hoàng Thị Sơn, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003. Trong luận án tác giả trình bày một số vấn đề chung về quyền bào chữa của bị can, bị cáo; hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo; các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo; thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo; trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất các giải pháp có giá trị để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa. Luận án này là một công trình nghiên cứu có giá trị, tác giả đã nghiên cứu toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, những hoạt động của người bào chữa nhằm thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo và đã đề xuất nhiều kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm thực hiện có hiệu quả quyền bào chữa của bị can, bị cáo có tính khoa học và khả thi. Tuy nhiên đối tượng nghiên cứu về pháp luật của luận án là BLTTHS năm 1988, vì vậy có những vấn đề không còn mới trong thời điểm hiện nay. Về sách chuyên khảo phải kể đến cuốn “Vai trò của luật sư trong TTHS” của TS. Nguyễn Văn Tuân, Nhà xuất bản Đại học quốc gia, năm 2001, trong cuốn sách này tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò của luật sư trong việc bảo đảm quyền cơ bản của công dân và phân tích sâu vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nội dung cơ bản của cuốn sách tập trung phân tích các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và vai trò của luật sư trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét thông qua việc thực hiện các quyền mà BLTTHS quy định như có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan