Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng...

Tài liệu Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng

.PDF
145
19
144

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ NGUYÊN TÙNG LỖI CỦA BÊN BỊ THIỆT HẠI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG NGOÀI HỢP ĐỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH LỖI CỦA BÊN BỊ THIỆT HẠI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG NGOÀI HỢP ĐỒNG Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60.38.01.03 Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Minh Hùng Học viên: Võ Nguyên Tùng Lớp: Cao Học Luật Khánh Hòa - Khóa 3 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng toàn bộ nội dung luận văn “Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng” là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Ts. Lê Minh Hùng. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong phần trích dẫn tài liệu tham khảo. Các bản án, thông tin được nêu trong luận văn là trung thực và hoàn toàn chính xác, đúng sự thật. Tác giả luận văn Võ Nguyên Tùng DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1 Bộ luật Dân sự (Số 44-L/CTN) ngày 28/10/1995 BLDS 1995 2 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 27/6/2005 BLDS 2005 3 Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015 BLDS 2015 4 Hội đồng thẩm phán HĐTP 5 Tòa án nhân dân TAND 6 Thành phố Hồ Chí Minh TP. HCM MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI MỘT PHẦN ................................... 7 1.1. Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại .....................................7 1.1.1. Chưa áp dụng đúng căn cứ luật định: bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại ........................................................................................................................8 1.1.2. Nhầm lẫn về nguyên nhân với điều kiện, nguyên cớ trong thực tiễn xét xử ...................................................................................................................................10 1.1.3. Kiến nghị hoàn thiện ................................................................................13 1.2. Căn cứ ấn định tỷ lệ lỗi của các bên chủ thể .............................................15 1.2.1. Dựa vào mặt chủ quan của các bên chủ thể trong việc gây thiệt hại ......16 1.2.2. Dựa vào các tình tiết khách quan của việc gây thiệt hại .........................19 1.2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề ấn định tỷ lệ lỗi: cần đánh giá toàn diện cả dấu hiệu lỗi chủ quan và tình tiết khách quan của vụ án......22 Kết luận chương 1 .............................................................................................254 CHƯƠNG 2. BÊN BỊ THIỆT HẠI HOÀN TOÀN CÓ LỖI ............................... 26 2.1. Căn cứ xác định bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc gây thiệt hại ...................................................................................................................................26 2.1.1. Nhầm lẫn trong việc đánh giá hành vi có lỗi của bên bị thiệt hại ...........26 2.1.2. Đánh giá chưa toàn diện về hành vi trái luật, lỗi của bên gây thiệt hại ..30 2.2. Miễn trách nhiệm khi bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi ...........................37 2.2.1. Quy định miễn trừ trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi cố ý còn được hiểu, áp dụng chưa thống nhất ............................................................................................................................37 2.2.2. Người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có lỗi trong việc ngăn chặn, hạn chế thiệt hại ..............................................................................................41 Kết luận chương 2 ...............................................................................................43 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 44 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam và phần lớn các nước trên thế giới, pháp luật dân sự được xem là một trong những ngành luật quan trọng thu hút được sự quan tâm to lớn không chỉ của Nhà nước mà còn có cả người dân, bởi những tác động mạnh mẽ mà ngành luật mang lại cho đời sống hàng ngày. Vì vậy, những quy định liên quan đến ngành luật này luôn có những ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội của một quốc gia. Từ khi Bộ luật Dân sự năm năm 1995 được ban hành, tính đến nay trải qua trên hai mươi năm thi hành đã mang đến những đóng góp không nhỏ cho hoạt động thực thi pháp luật ở Việt Nam. Trong rất nhiều vấn đề được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự thì yêu tố lỗi, đặc biệt là lỗi trong trách nhiệm bồi thường dân sự ngoài hợp đồng luôn là một nội dung nhận được sự quan tâm của các chuyên gia pháp luật cũng như những người đang làm công tác thực tiễn. Bởi lẽ: Lỗi là một trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu pháp luật có quy định, lỗi còn là cơ sở để phân định mức độ trách nhiệm của những bên cùng gây ra thiệt hại, và trong trường hợp nhất định khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì lỗi càng có vai trò quan trọng hơn, vì nó làm cơ sở để cân nhắc giảm mức bồi thường hoặc miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên gây ra thiệt hại. Tại chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều 584 đến Điều 608) có đề cập sơ lược về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác định lỗi của bên bị thiệt hại cùng hệ quả của việc xác định lỗi của bên bị thiệt hại là cơ sở cho việc quyết định mức bồi thường trong trường hợp này là vấn đề vô cùng phức tạp. Thực tiễn áp dụng quy định vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc phát sinh, đôi khi thiếu tính nhất quán và đồng bộ, dẫn đến nhiều khó khăn cho việc đưa ra các phán quyết khi xử lý các tranh chấp này. Từ đó, làm giảm hiệu lực các phán quyết của Tòa án, làm giảm niềm tin đối với xã hội và người dân về tính nhất quán cũng như lẽ công bằng trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, góp phần áp dụng thống nhất pháp luật về vấn đề lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, tác giả chọn đề tài “Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài “Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng” là vấn đề quan trọng nhưng thực tế chưa được các học giả, các nhà nhà nghiên cứu pháp luật quan tâm làm rõ bằng một đề tài mang tính chất bài bản, rõ nét và chuyên sâu. Tuy nhiên cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu chung, nhiều tài liệu có đề cập đến vấn đề này, trong đó nổi bật là những sách giáo trình đại học và sách bình luận khoa học: - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam. Giáo trình đã phân tích trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là dựa trên cơ sở thiệt hại, trong đó lỗi là cơ sở của trách nhiệm. Giáo trình còn khái quát các trường hợp không phải chịu trách nhiệm bồi thường cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi. Đây là vấn đề mà tác giả đặc biệt quan tâm và tìm hiểu nghiên cứu. - Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này, các tác giả đã bình luận các điều luật trong Bộ luật Dân sự năm 2005, trong đó có các điều luật về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” nhưng cũng chưa nêu rõ lỗi của bên bị thiệt hại một cách cụ thể, chi tiết. Tuy nhiên đây cũng là một tài liệu quan trọng có ý nghĩa định hướng cho đề tài của tôi. - Nhóm sách chuyên khảo: Đỗ Văn Đại (2010), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả đã bình luận các bản án có liên quan đến mối quan hệ tranh chấp “bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, tác giả đã nêu chính kiến của tác giả về các bản án của các cấp Tòa án tại Việt Nam. Đây là tài liệu có ý nghĩa quan trọng, giúp cho tác giả luận văn có cách tiếp cận và cách bình luận các bản án có hệ thống, logic và sâu sắc hơn. Cùng tác giả, còn có quyển Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (2014), Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Sách chuyên khảo, Xuất bản lần thứ 2, Tập 2. Thông qua việc bình luận các bản án, tác giả đã đưa ra chính kiến, trong thực tiễn xét xử có những trường hợp bên gây thiệt hại không có lỗi, hoặc giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra không có mối quan hệ nhân quả nên bên bị thiệt hại không được bồi thường. Từ nội dung này, tác giả luận văn sẽ tham khảo bài viết trên để có cơ sở phân tích sâu hơn cho đề tài của tác giả. 3 - Nhóm các bài báo khoa học: Đỗ Văn Đại “Quyền được bồi thường thiệt hại trong Hiến pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2013. Trong bài viết này, tác giả đã nêu và phân tích về quyền được bồi thường thiệt hại trong Hiến Pháp của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, chưa thấy phân tích về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. + Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người khác gây ra”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2013. Trong bài viết này, tác giả đã nêu và phân tích lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người khác gây ra nhưng cũng chưa có phân tích, so sánh tương quan giữa lỗi của bên gây ra thiệt hại và lỗi của bên bị thiệt hại. + Phùng Trung Tập, “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Luật học, số 10/2004. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến lỗi và bồi thường thiệt hại nói chung, có phân tích một số vấn đề về lỗi của bên gây ra thiệt hại và bên bị thiệt hại nhưng không nghiên cứu sâu về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. Đây là tài liệu có ý nghĩa quan trọng đối với đề tài của tôi. - Nhóm các luận văn, luận án, có: Luận văn Thạc sĩ Luật học (2014) của tác giả Hứa Thu Hằng, Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nội dung luận văn đề cập đến nhiều vấn đề thiết thực cho việc thực hiện đề tài của tác giả, trong đó có phân tích về lỗi của bên bị thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra, tuy nhiên nội dung không đi nghiên cứu chuyên sâu về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. + Luận văn Thạc sĩ Luật học (2015) của tác giả Cao Cẩm Nhung, Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật Việt Nam. Công trình nghiên cứu đã đề cập đến những nội dung cơ bản của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, đi sâu phân tích từng trường hợp cụ thể, đánh giá một cách khái quát vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và nói lên được mức độ lỗi xảy ra thực tế, để từ đó có căn cứ quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên có hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, các vấn đề này được đề cập ở dạng khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, chứ không tập trung phân tích chuyên sâu về bên bị thiệt hại có lỗi khi xảy ra thiệt hại. Ngoài ra trên một số trang thông tin điện tử có nhiều bài viết đề cập đến nội dung về lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu một cách độc lập, chuyên sâu, đánh giá toàn 4 diện từ các quy định của pháp luật đến thực tiễn áp dụng về nội dung “Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng”. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Làm rõ những vấn đề lý luận cốt lõi về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Phân tích những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện cụ thể các quy định này. Đồng thời, phân tích thực tiễn áp dụng cũng như nguyên nhân dẫn đến thực tiễn áp dụng các quy định này còn hạn chế trong thực tế. Đề xuất một số kiến nghị chung trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định này trong thực tế. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, phương pháp nghiên cứu 4.1 Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Giới hạn pháp luật: Tác giả chỉ nghiên cứu về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự. - Lãnh thổ: Tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. - Thời gian: Chỉ nghiên cứu trong giới hạn của pháp luật Việt Nam từ giai đoạn Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực đến nay, mặc dù trong luận văn có đề cập đến một số văn bản quy phạm pháp luật trước đây nhưng chỉ nhằm mục đích so sánh, đối chiếu. - Vấn đề: Tập trung nghiên cứu về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, không nghiên cứu về lỗi của các chủ thể khác. - Giới hạn: Luận văn không nghiên cứu về vấn đề lỗi của bên bị thiệt hại trong các lĩnh vực đặc thù như trong pháp luật bảo hiểm, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp bình luận án. 5 - Phương pháp so sánh, tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh quy định về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng tại Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, BLDS năm 2005, BLDS năm 2015. Thế mạnh của phương pháp so sánh là giúp cho người đọc có cách nhìn tổng quát, rõ ràng về nội dung của đề tài và các nội dung liên quan. Do pháp luật dân sự hiện hành có những quy định về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng với những đặc điểm gần giống với lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng được ghi nhận trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, trên cơ sở đó tác giả sử dụng phương pháp so sánh nhằm mục đích chỉ ra sự giống và khác nhau của vấn đề này để làm sáng tỏ nội dung đề tài. Ngoài ra, tác giả sẽ sử dụng phương pháp so sánh nhằm mục đích so sánh nội dung về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng với lỗi của bên gây thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng. - Tác giả cũng sử dụng phương pháp lịch sử vì bằng phương pháp lịch sử trong bài viết này sẽ giúp người đọc hiểu hơn về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng trong từng thời kỳ, cụ thể xác địnhlỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng có từng được quy định trong các văn bản pháp luật dân sự trước đây hay không và những quy định này đã tồn tại trong những thời kỳ nào, chi tiết quy định ra sao? Trên cơ sở đó tác giả sẽ so sánh và phân tích các quy định về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng trong các giai đoạn lịch sử trước đây với BLDS năm 2015. - Phương pháp logic được sử dụng như là một phương pháp song hành với phương pháp lịch sử nhằm đảm bảo cho việc xem xét và đánh giá vấn đề một cách toàn diện hơn. Phương pháp logic được vận dụng để phân tích trong chương 1. Cụ thể là trong phần khái niệm, trên cơ sở tìm hiểu quy định pháp luật, tác giả sử dụng phương pháp logic để đưa ra khái niệm về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự. - Phương pháp phân tích được sử dụng phổ biến trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, để lý giải, phân tích, đánh giá nội dung của các quy phạm pháp luật đang được sử dụng để hệ thống chúng một cách khoa học và hợp lý, đồng thời để dự báo cho sự phát triển của các quy phạm đó trong tương lai. Nhằm giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về những quy định liên quan đến lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng, tác giả sẽ áp dụng phương pháp này xuyên suốt luận văn, giúp người đọc có cái nhìn chi tiết hơn về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng. Từ sự phân tích quy định của pháp 6 luật về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng, tác giả sẽ trình bày quan điểm của cá nhân bằng cách đánh giá, nhận xét sự cần thiết và những vướng mắc có thể xảy ra trong việc áp dụng chế định này. - Phương pháp tổng hợp là phương pháp ngược lại với phương pháp phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho phương pháp phân tích để tìm ra cái chung, khái quát nhất. Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp này để tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán để bài viết có sức thuyết phục và sinh động hơn. - Phương pháp bình luận án giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội, tập trung ở vấn đề các quy phạm pháp luật sau khi được ban hành sẽ tác động như thế nào đến đời sống xã hội và ngược lại, các điều kiện xã hội sẽ ảnh hưởng như thế nào đến giá trị và hiệu quả của các quy phạm pháp luật. 5. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng kết quả nghiên cứu Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đi sâu phân tích những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án để đưa ra những kiến nghị và định hướng quy định về bồi thường thiệt hại do bên bị thiệt hại có lỗi, nên đề tài có giá trị tham khảo trong quá trình thực thi pháp luật tại Tòa án nhân dân đồng thời góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật trong tương lai. 6. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục đề tài gồm hai chương: - Chương 1. Bên bị thiệt hại có lỗi một phần. - Chương 2. Bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi. 7 CHƯƠNG 1. BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI MỘT PHẦN Lỗi là một trong những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới việc xác định trách nhiệm bồi thường. Theo từ điển chuyên ngành luật dân sự, thì “lỗi là thái độ tâm lý của người gây thiệt hại, thể hiện nhận thức và mong muốn của mình đối với hành vi gây thiệt hại và thiệt hại do hành vi đó gây ra” 1. Ở một góc độ khác, lỗi không chỉ là yếu tố cấu thành2 của trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan tới bên gây thiệt hại, mà còn là yếu tố pháp lý liên quan tới bên bị thiệt hại. Khi bên bị thiệt hại cũng có lỗi, thì vấn đề trách nhiệm bồi thường sẽ được xem xét để đưa ra hướng giải quyết thích hợp, như có thể giảm mức bồi thường hoặc thậm chí miễn trừ trách nhiệm bồi thường, tùy theo mức độ lỗi của bên bị thiệt hại ở đây là gì. Trong BLDS năm 2005, trường hợp bồi thường thiệt hại khi bên bị thiệt hại cũng có lỗi được xem là một trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể (Điều 617). Đến nay, theo BLDS năm 2015, việc bên bị thiệt hại có lỗi không được xem là một trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể mà chỉ là một trong những quy định chung, mang tính nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự thay đổi này có ảnh hưởng cơ bản đối với các quy định liên quan tới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi. Chương này không nghiên cứu mọi vấn đề về lỗi, vai trò của lỗi trong việc xác định “trách nhiệm hỗn hợp” 3, mà chỉ nghiên cứu 03 vấn đề: (i) Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại; (ii) Ấn định tỷ lệ lỗi của bên bị thiệt hại và các bên liên quan; và (iii) Giảm mức bồi thường trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi. 1.1. Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại Để đánh giá được mức độ lỗi của bên bị thiệt hại, cần phải xác định được mức độ lỗi đó được xác định theo những căn cứ nhất định. Cách giải quyết vấn đề trong mục này là tìm hiểu về căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, đồng thời cũng tìm hiểu căn cứ thực tiễn để nắm bắt được quan điểm xét xử của các thẩm phán về việc xác định lỗi của bên bị thiệt hại là như thế nào? 1 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.79. 2 Trước khi có BLDS năm 2015, lỗi là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. [Xem thêm: Phạm Kim Anh (2008), Trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.78 – 80]. Hiện nay, lỗi không được xem là điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp BLDS và luật liên quan có quy định khác. 3 Trước đây, Thông tư 173-TANDTC ngày 23/3/1972 của TAND tối cao hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gọi đây là “trách nhiệm hỗn hợp”. Dẫn theo: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 480. 8 1.1.1. Chưa áp dụng đúng căn cứ theo quy định của pháp luật: Bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại Về mặt lý luận và theo quy định chung, điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng thường dựa trên các yếu tố: Có thiệt hại thực tế, hành vi (hoặc việc)4 gây thiệt hại trái pháp luật, và mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi (việc) gây thiệt hại trái pháp luật với thiệt hại thực tế; trong trường hợp BLDS năm 2015 và luật liên quan có quy định khác, thì còn đòi hỏi có thêm yếu tố lỗi. 5 Theo đó, lỗi không còn là điều kiện bắt buộc của trách nhiệm, trừ trường hợp luật có quy định, ví dụ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người cố ý cho người khác sử dụng chất kích thích6, trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại của người thi công liên đới với chủ sở hữu nhà ở, công trình xây dựng khác phải bồi thường nếu người thi công có lỗi để cho nhà ở, công trình xây dựng khác gây ra thiệt hại7… Mặc dù vậy, vai trò của lỗi trong việc xác định mức độ lỗi, chia sẻ trách nhiệm bồi thường, ấn định số tiền bồi thường, giảm trách nhiệm bồi thường không vì thế mà bị suy giảm. Theo quy định của BLDS năm 2015, lỗi vẫn còn là căn cứ không thể thiếu để xác định trách nhiệm bồi thường trong nhiều trường hợp, đặc biệt là quy định về trách nhiệm bồi thường khi bên bị thiệt hại có lỗi. Theo đó, khi “bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra” (khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015). Như vậy, khi đề cập đến lỗi của bên bị thiệt hại, luật không nói về lỗi chung chung, mà khẳng định rất rõ: Bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại. Sự xác định rõ ràng như vậy có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc giới hạn phạm vi tác động của yếu tố lỗi của bên bị thiệt hại theo những điều kiện nhất định. Trên cơ sở đó, để xác định việc bên bị thiệt hại bị giảm mức bồi thường tới đâu, cần xác định cả 02 yếu tố: (i) Cả bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại đều có hành vi gây ra thiệt hại cho bên bị thiệt hại và (ii) Bên bị thiệt hại có phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại này. Ở điều kiện thứ nhất, thiệt hại thuộc trường hợp thiệt hại do nhiều người cùng gây ra, trong đó, bên bị thiệt hại cũng là một trong những người tham gia vào việc gây thiệt hại cho mình. Điều này có nghĩa, ở đây phải có sự tồn tại đồng thời 02 nguyên nhân gây ra thiệt hại, đó là việc bên gây thiệt hại cùng với bên bị thiệt hại cùng tham gia vào quá trình gây thiệt hại. Nếu thiếu sự tham gia của một bên, 4 Gọi đây là việc gây thiệt hại để chỉ những trường hợp không có hành vi gây thiệt hại của chủ thể hoặc hành vi đó có thể tồn tại dưới dạng không hành động hoặc do yêu cầu của nghĩa vụ bảo đảm an toàn, trách nhiệm nghiêm ngặt. Ví dụ: Việc nguồn nguy hiểm cao độ, hàng hóa khuyết tật, cây cối, nhà ở, súc vật gây thiệt hại… 5 Khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015. 6 Điều 596 BLDS năm 2015. 7 Điều 605 BLDS năm 2015. 9 thì thiệt hại đó có thể đã không xảy ra. Ví dụ: A chạy xe máy khi đang say rượu và đã tự té ra giữa đường phía trước của xe máy do B lái cùng chiều, vào buổi tối, trên đoạn đường nông thôn không có gắn đèn đường. B điều khiển xe bị hỏng đèn, cùng chiều ở phía sau A, với tốc độ cao, nên không phát hiện và tránh kịp thời, đã cán qua người của A, làm cho A bị thương nặng dẫn đến tử vong sau đó.8Ta thấy, trong hoàn cảnh trên, nếu A không say rượu và té ra đường trước đầu xe của B hoặc B chạy xe đúng vận tốc quy định, xe có đèn chiếu sáng, thì có lẽ thiệt hại đã không xảy ra. Có thể thấy, việc gây ra thiệt hại trong tình huống này là do cả hai bên. Ở điều kiện thứ hai, bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại. Nếu như trách nhiệm của bên gây thiệt hại không cần có lỗi trừ trường hợp luật quy định khác, thì việc miễn trừ hoặc giảm trách nhiệm bồi thường đối với bên bị thiệt hại chỉ áp dụng khi có dấu hiệu là bên bị thiệt hại có lỗi đối với việc gây thiệt hại. Nếu bên bị thiệt hại không có lỗi hoặc lỗi của họ không liên quan tới việc gây thiệt hại, thì vấn đề miễn, giảm trách nhiệm bồi thường không đặt ra. Có một điểm cần lưu ý, theo Điều 617 BLDS năm 2005 quy định:“Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình…”. Từ “cũng” ở đây vô hình chung lại quy định cả bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại phải cùng có lỗi, trong khi đó, theo BLDS năm 2015, yếu tố lỗi là yếu tố đã bị loại bỏ khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật có quy định, vì quá trình áp dụng trên thực tế thiệt hại xảy ra ngay cả những trường hợp không có yếu tố lỗi. Vì vậy, BLDS năm 2015 tiến bộ hơn đã loại bỏ từ “cũng” trong trường hợp này. Từ điểm này có thể suy rộng ra, mặc dù khi giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi là nói tới nguyên nhân gây ra thiệt hại là cả hai bên, nhưng BLDS năm 2015 không đương nhiên xác định là hai bên cùng có lỗi, mà chỉ cần thiệt hại do hai bên cùng gây ra, nhưng nếu bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì đủ cơ sở để xác định có trách nhiệm “hỗn hợp” của các bên đối với thiệt hại xảy ra. Có thể nói, vấn đề hiểu rõ nội hàm của quy định về giảm, miễn trách nhiệm bồi thường do bên bị thiệt hại có lỗi đòi hỏi phải có yếu tố bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại. Thực tiễn vấn đề này còn nhiều cách hiểu chưa nhất quán, và việc áp dụng pháp luật vì thế cũng chưa được thống nhất. Để có cơ sở đưa ra những giải pháp hợp lý, phần tiếp theo sẽ trình bày về thực tiễn áp dụng liên quan tới nội dung này. 8 Anh Thế (Dân trí), “Đi xe máy không đèn, chẹt chết người vừa bị tai nạn giao thông”, http://phapluattp.vn/20130618054814113p1063c1016/di-xe-may-khong-den-chet-chet-nguoi-vua-bi-tai-nangiao-thong.htm (truy cập ngày 13/7/2017). 10 1.1.2. Nhầm lẫn về nguyên nhân với điều kiện, nguyên cớ trong thực tiễn xét xử Như đã phân tích ở trên, điều kiện để xem xét trách nhiệm “hỗn hợp”, đó là việc bên bị thiệt hại có lỗi. Mặc dù lỗi được coi là một trong những phạm trù pháp lý quan trọng trong các lĩnh vực trách nhiệm pháp lý, nhưng việc xác định lỗi trong lý luận và đánh giá lỗi trên thực tế, cũng gặp không ít khó khăn. Trong khoa học pháp lý, có nhiều quan điểm trong nhận thức về yếu tố lỗi. Theo một nhà nghiên cứu, lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, là yếu tố nội tâm của con người, diễn biến phức tạp và chi phối trực tiếp hành vi của con người. Hành vi của cá nhân là hệ quả của sự biểu lộ tâm lý của người đó trong một hoàn cảnh, không gian và thời gian nhất định9, tức là yếu tố lỗi được đặt trong hoàn cảnh khách quan cụ thể. Có ý kiến cho rằng, lỗi là trạng thái tâm lý của con người có thể làm chủ, nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi đó 10. Còn theo các nhà bình luận, lỗi là thái độ tâm lý hay trạng thái tâm lý của người gây thiệt hại đối với hành vi. Trạng thái tâm lý này gồm hai yếu tố, đó là lý trí và ý chí. Yếu tố lý trí thể hiện ở nhận thức thực tại khách quan (nhận thức được hoặc không nhận thức được mặc dù đủ điều kiện thực tế để nhận thức khả năng gây thiệt hại của hành vi). Yếu tố ý chí thể hiện năng lực điều khiển hành vi (khả năng kiềm chế hành vi gây thiệt hại hoặc có khả năng thực hiện hành vi khác phù hợp với pháp luật). 11Theo đó, người gây thiệt hại bị coi là có lỗi nếu nhận thức được hoặc tuy không nhận thức được nhưng có đủ điều kiện thực tế để nhận thức được tính chất của hành vi và có đủ điều kiện để điều khiển một hành vi khác không gây thiệt hại. Có thể thấy, trong nhận thức về lỗi, thì rõ ràng có nhiều cách tiếp cận khác nhau, dù cơ bản vẫn xuất phát từ phương diện tâm lý và nhận thức, thái độ của chủ thể. Trong thực tiễn, việc xác định tính chất có lỗi của bên bị thiệt hại trong nhiều trường hợp là khá khó khăn, và giữa Tòa án các cấp vẫn còn nhiều quan điểm, cách nhìn không hoàn toàn đồng nhất. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ việc thực tiễn sau: Tình huống 01: Nhầm lẫn trong việc xác định nguyên nhân gây thiệt hại: Bình có giấy phép lái xe hợp lệ, điều khiển xe khách từ Đồng Xuân (Phú Yên) về Tuy Hòa thì Tân xin quá giang. Khi xe tiếp tục chuyển bánh, cửa lên xuống của xe 12 9 Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb. Hà Nội, tr.77. 10 Lê Văn Sua (2004), “Vài suy nghĩ về Điều 621 BLDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11, tr.32. 11 Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, quyển II, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.715. 12 Phụ lục 01: Bản án số 30/1999/HS-PT ngày 24/3/1999 của TAND tỉnh Phú Yên. 11 không đóng. Tân đứng ở bậc lên xuống, phụ xe yêu cầu Tân đứng vào trong vì đứng ở cửa xe rất nguy hiểm, nhưng Tân không vào. Khi xe chạy đến thị trấn La Hai thì Tân đòi nhảy xuống, nhưng phụ xe và một số khách đi trên xe ngăn và bảo Tân chờ xe dừng hẳn hãy xuống. Mặc dù vậy, Tân vẫn cứ nhảy xuống khi xe đang chạy và bị trượt chân ngã vào gầm xe, bị bánh sau cán qua người chết tại chỗ. Tại bản án sơ thẩm số 02/1999/HS-ST ngày 06/02/1999, TAND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên nhận định rằng do việc Võ Vĩnh Bình điều khiển xe không đóng cửa xe là đã vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông vận tải và nếu cửa xe đóng khi chạy thì không thể dẫn tới cái chết của Hồ Văn Tân. Tại bản án số 30/1999/HS-PT ngày 24/3/1999, TAND tỉnh Phú Yên lại nhận định ngược lại và cho rằng, chính Tân mới là người có lỗi tự làm thiệt hại cho mình. Nhận xét: Cách đánh giá của hai cấp Tòa án khi xét xử vụ án cụ thể này là khác nhau về nguyên nhân gây tai nạn do đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại giữa các bên. Ở đây, cấp sơ thẩm đã có sự nhầm lẫn nguyên nhân gây ra thiệt hại, nên quyết định về phần trách nhiệm dân sự trong vụ án này chưa chuẩn xác. Tòa cấp tỉnh đánh giá lỗi và nguyên nhân gây thiệt hại khá chính xác khi cho rằng “mặc dù hành vi không đóng cửa xe khi chạy là vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông, song đây không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của Hồ Văn Tân, bởi lẽ Tân là người có đủ năng lực hành vi. Khi lên xe, Tân đã được phụ xe yêu cầu vào ghế ngồi và khi muốn xuống xe lại tự ý nhảy xuống mặc dù phụ xe đã ngăn cản vì xe đang chạy”. Tình huống 02: Xác định nguyên nhân và lỗi gây ra thiệt hại chưa đúng: Hảo đang lái xe mô tô chở ông Minh thì gặp tốp 03 người nắm tay hàng ngang đi dưới lòng đường, Hảo lách xe về bên trái theo hướng lưu hành để tránh thì va chạm với Tuyến đang điều khiển mô tô lưu thông theo chiều ngược lại. Tai nạn xảy ra làm bị thương cho Hảo (tỷ lệ 22%), ông Minh (17%), Tuyến (12%). Lúc tai nạn, trong người Tuyến có nồng độ cồn vượt mức quy định (án không xác định lượng cồn cụ thể). Cấp sơ thẩm (Tp. Tuy Hòa) xác định các bên đều có lỗi, nên buộc Tuyến bồi thường 50% tổn thất cho bên bị thiệt hại. Cấp phúc thẩm xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại “là do Hảo lách tránh người, vượt trái lên phía trước, lấn đường của phương tiện ngược chiều. Còn Tuyến mặc dù có nồng độ cồn trong người khi lưu thông, nhưng đây chỉ là lỗi hành chính, không phải là nguyên nhân gây ra tai nạn… (và) Tuyến không có lỗi trong vụ tai nạn này”. 13 13 Phụ lục 02: Bản án dân sự phúc thẩm số 60/2012/DSPT ngày 25/9/2012 của TAND tỉnh Phú Yên, về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. 12 Nhận xét: Cả hai cấp Tòa án không nhất quán trong việc xác định nguyên nhân và lỗi của các bên trong việc gây thiệt hại. Cấp sơ thẩm cho rằng cả hai bên có lỗi. Cấp phúc thẩm cho rằng, việc bị đơn (Tuyến) tuy đang lái xe mô tô và trong người có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, nhưng đây là lỗi hành chính, chứ không phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Đánh giá của cấp phúc thẩm là thuyết phục, vì ở đây, bị đơn tuy có sử dụng bia rượu khi lái xe, nhưng có giấy phép lái xe đúng quy định, và cũng không có bằng chứng cho thấy bị đơn đã chạy sai làn đường hoặc chạy quá tốc độ cho phép, hoặc đã vi phạm các quy định liên quan đến việc điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ. Tai nạn giao thông không khởi phát từ Tuyến mà ở đây là do bên bị thiệt hại (Hảo) gây ra. Cũng vì thế, có thể nói rằng, cấp sơ thẩm đã đánh giá không đúng nguyên nhân gây thiệt hại. Có thể thấy, trong cả hai tình huống 1 và 2, cả hai cấp Tòa có sự nhìn nhận khác nhau về nguyên nhân và lỗi trong việc gây thiệt hại. Tính phổ biến trong hai vụ án này cho thấy cấp sơ thẩm đánh giá chưa chính xác nguyên nhân gây ra thiệt hại. Đây là hiện tượng cần được nghiên cứu, đưa ra hướng xử lý nhằm hạn chế sai sót tương tự. Tình huống 03: Không phân biệt được lỗi gây thiệt hại với nguyên cớ dẫn đến sự xô sát, gây thiệt hại:14Ngày 16/5/2015, ông Hưng và ông Sanh xảy ra xô sát, đánh nhau xuất phát từ việc ông Hưng có hành vi đập bể trụ đá mà ông Sanh chôn làm mốc ranh giới giữa hai thửa ruộng của hai bên. Hậu quả, ông Sanh ném đá làm trúng đầu ông Hưng, thương tích 3%, nhưng Công an huyện Long Đất có quyết định không khởi tố vụ án hình sự do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ông Hưng đã kiện ông Sanh đòi bồi thường thiệt hại về sức khỏe. Tại bản án số 03/2012/DSST ngày 22/01/2012 của TAND huyện Long Đất - cấp sơ thẩm, tuyên thiệt hại của ông Hưng có phần lỗi của ông Hưng, vì đã đập trụ đá cột mốc của ông Sanh. Do đó, sau khi xác định khoản thiệt hại phát sinh được công nhận là 3.188.000 đồng (số tròn) và chỉ buộc ông Sanh bồi thường 50% mức thiệt hại. Cấp phúc thẩm cho rằng, nhận định của Tòa cấp sơ thẩm là không có căn cứ, vì kết quả điều tra tại cơ quan Công an xác định ông Sanh có ném cục đá vào đầu ông Hưng, đây là hành vi trái pháp luật, hậu quả làm ông Hưng bị thương tích. Vì vậy, cần buộc ông Sanh phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Hưng mới đúng. 14 Phụ lục 03: Bản án số 19/2016/DS-PT ngày 15/4/2016 của TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”. 13 Nhận xét: Trong vụ án này, quan điểm của hai cấp Tòa là chưa nhất quán. Có thể thấy, cả hai cấp đều chưa làm rõ được, liệu việc ông Hưng đào trụ đá ranh đất, dẫn đến việc các bên cự cãi, xô sát có phải là lỗi của ông Hưng trong việc gây thiệt hại hay không? Thiết nghĩ, nếu không chứng minh được việc ông Hưng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho mình, thì không thể tuyên ông Sanh chỉ bồi thường ½ mức thiệt hại, mà phải tuyên ông Sanh bồi thường toàn bộ, như quan điểm của cấp phúc thẩm mới thuyết phục. Việc đào trụ đá và cãi cọ chỉ có thể được xem là “nguyên cớ” dẫn đến gây thiệt hại chứ không phải là nguyên nhân. Có thể nói, việc không phân biệt được lỗi gây thiệt hại với nguyên cớ dẫn đến việc gây thiệt hại là khá phổ biến. Điều này cần có sự điều chỉnh, hướng dẫn để việc áp dụng pháp luật trở nên nhất quán và chính xác. Có thể nói, tuy thực tiễn xét xử không phải lúc nào cũng đánh giá chính xác, nhưng điều đáng nói là nhiều Tòa thường hay có sự nhầm lẫn, thậm chí là nhầm lẫn đến mức phổ biến trong việc xác định các điều kiện này. Điều này rất cần có những giải pháp để thay đổi, cải thiện tình hình. Tiểu mục tiếp theo sẽ giải quyết vấn đề này. 1.1.3. Kiến nghị hoàn thiện Các vụ việc thực tiễn nêu ở mục trên cho thấy, nhiều Tòa án có sự nhầm lẫn trong việc đánh giá về sự tồn tại lỗi của bên bị thiệt hại cũng như xem lỗi của bên bị thiệt hại với tính chất là “nguyên cớ”, yếu tố tác động tới thái độ ứng xử của bên gây thiệt hại với “nguyên nhân” và với tính chất là sự kiện, hiện tượng gây ra hệ quả thiệt hại. Điều này có thể là do thói quen xem xét căn cứ để giảm mức trách nhiệm trong pháp luật hình sự của bên gây thiệt hại (tình tiết giảm nhẹ) hoặc cũng có thể là đánh giá chưa đúng bản chất của vấn đề, hoặc thậm chí là chưa có sự nhận thức đúng đắn về mối quan hệ nhân quả giữa lỗi gây ra thiệt hại cho bản thân với lỗi không liên quan tới thiệt hại. Chính vì sự thiếu sót này làm giảm chất lượng của các phán xử liên quan, làm cho việc áp dụng pháp luật trở nên thiếu nhất quán, từ đó, gây mất niềm tin xã hội về hoạt động tư pháp. Kiến nghị (thứ nhất): Để giải quyết vấn đề này, tác giả kiến nghị Hội đồng thẩm phánTAND tối cao cần tiến hành đồng thời cả hai việc sau: (i) Cần tiếp tục ban hành Nghị quyết thay thế Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn về trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó cần giải thích rõ sự khác nhau giữa nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện, để từ đó ấn định chủ thể chịu trách nhiệm chỉ có thể là bên gây thiệt hại. 14 (ii) Cần chọn lọc các bản án, quyết định có tình tiết tương tự với hoàn cảnh được đề cập để xây dựng thành án lệ làm định hướng cho việc xét xử những vụ việc liên quan. Theo cách tiếp cận này, tác giả xin được đề xuất cần lấy vụ việc sau đây làm dữ liệu nghiên cứu, xây dựng án lệ. Cụ thể: Tình huống 04: Ngày 13/9/2003, bà Trần Thị Hộ đã bị bà Nguyễn Huệ Lan đánh vào mặt gây thương tích ở mắt trái làm cho bà Hộ bị loét giác mạc mắt trái và phải khoét bỏ nhãn cầu mắt trái. Bà Lan bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xử 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Về Dân sự, Tòa cấp sơ thẩm và cả cấp phúc thẩm đều xác định bà Hộ có lỗi trước khi buộc bà Lan bồi thường cho bà Hộ, vì trước khi bị bà Lan đánh, bà Hộ đã gây sự, chửi bới, nhục mạ ông Bảo (chồng bà Lan). Cấp giám đốc thẩm khẳng định bà Hộ có lỗi, nhưng không liên quan đến việc gây ra thiệt hại. Theo Tòa giám đốc thẩm: “Việc bà Hộ chửi gia đình ông Bảo không phải lỗi trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ, sự việc đó chỉ là nguyên cớ gây ra vụ đánh, chửi nhau, thông thường chỉ áp dụng đánh giá khi lượng hình đối với bị cáo trong vụ án hình sự. Việc Tòa án hai cấp sơ – phúc thẩm cho rằng bà Hộ phải chịu 20% lỗi là thiếu căn cứ.”15 Nhận xét: Có thể thấy trong vụ án này, quyết định giữa Tòa án các cấp đã có sự đối lập, không có sự thống nhất với nhau trong việc xem xét mối quan hệ nhân quả trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên nhân của sự đối lập này là do không có quy định cụ thể nào để thống nhất cách đánh giá, các trường hợp về mối quan hệ nhân quả trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm xác định bà Hộ có một phần lỗi trong vụ án và buộc bà Hộ phải chịu 20% chi phí thiệt hại là chưa thật sự hợp lý. Bà Hộ và bà Lan đã xảy ra tranh cãi, vụ tranh cãi đó tác động dẫn đến việc đánh nhau. Tuy nhiên, không thể xem việc tranh cãi giữa bà Hộ và bà Lan là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho bà Hộ. Nếu như bà Lan rơi vào trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, do sự tác động của bà Hộ nên mới có hành vi đánh người thì mới xem việc tranh cãi giữa hai bà là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Trong vụ án này, bà Lan có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, hành vi đánh người là sự lựa chọn dựa theo ý chí của bà Lan. Bà Lan hoàn toàn có sự lựa chọn khác là hòa giải thay vì xông tới đánh bà Hộ. Tuy nhiên, bà Lan đã đánh bà Hộ gây thương tích nên có thể kết luận rằng hành vi trái pháp luật của bà Lan chính là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho bà Hộ. 15 Phụ lục 04: Xem Quyết định giám đốc thẩm số 226/2012/DS-GĐ, ngày 22/5/2012 của Tòa Dân sự TAND tối cao, về “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”. 15 Như vậy, trong vụ án này, đã phát sinh một vấn đề cần được chú trọng: Phân biệt giữa nguyên nhân gây ra thiệt hại và điều kiện tác động đến thiệt hại. Giữa hành vi đánh người của bà Lan với thương tật của bà Hộ đã xuất hiện mối quan hệ nhân quả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Hành vi trái pháp luật của bà Lan đã trực tiếp tác động đến bà Hộ, làm cho bà Hộ bị thiệt hại về sức khỏe. Đối với việc tranh cãi giữa bà Hộ và bà Lan chỉ có thể xem đó là điều kiện tác động, là “chất xúc tác” dẫn đến thiệt hại xảy ra. Vì việc cãi nhau giữa bà Lan và bà Hộ chỉ có thể tác động đến bản thân bà Lan, ảnh hưởng một phần trong quyết định lựa chọn giải quyết vấn đề của bà Lan; nếu xem việc tranh cãi là nguyên nhân thì đó chỉ có thể là nguyên nhân dẫn đến việc đánh nhau chứ không là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại cho bà Hộ. Phủ nhận hướng xử lý của hai Tòa cấp dưới, Tòa giám đốc thẩm cho rằng, bà Hộ không có lỗi gây ra thiệt hại cho chính mình. Lập luận của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý, thỏa mãn với yếu tố mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Tác giả cho rằng, Quyết định giám đốc thẩm nói trên là rất thuyết phục, phù hợp với lý luận và pháp luật thực định, thể hiện và phân biệt rõ ràng giữa nguyên cớ và nguyên nhân. Cần có án lệ hoặc giải thích: Nguyên cớ (hình sự - có thể giảm mức hình phạt), còn dân sự thì ai gây ra thiệt hại gì, người đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó, cụ thể: Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do mình gây ra, không bồi thường hoặc không chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại không phải do mình gây ra. Nội dung án lệ cần hướng dẫn là: + Việc giảm mức bồi thường đối với trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi chỉ áp dụng khi xác định được hành vi có lỗi của bên bị thiệt hại cũng là một phần nguyên nhân gây ra thiệt hại cho chính bên bị thiệt hại; + Nếu hành vi có lỗi của bên bị thiệt hại không phải là nguyên nhân (mà chỉ là yếu tố tác động tới thái độ ứng xử, sự kích động về tinh thần của chủ thể, vì thế mà chủ thể đã hành xử trái pháp luật gây ra thiệt hại, thì Tòa án cần xem đó chỉ là “nguyên cớ” hay “điều kiện” chứ không phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại), thì bên bị thiệt hại không bị giảm mức bồi thường thiệt hại. 1.2. Căn cứ ấn định tỷ lệ lỗi của các bên chủ thể Để ấn định tỷ lệ lỗi của các bên trong trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi, thì BLDS năm 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định căn cứ vào mức độ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan