Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Loại trừ chứng cứ theo luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Loại trừ chứng cứ theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
85
1
138

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ CẨM THU LOẠI TRỪ CHỨNG CỨ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH LOẠI TRỪ CHỨNG CỨ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh Học viên : Nguyễn Thị Cẩm Thu Lớp : Cao học Luật, khóa 31 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Cẩm Thu DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao THTT Tiến hành tố tụng TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao DANH MỤC BẢNG BIỂU Tên bảng biểu Trang Bảng 1: Bảng thống kê số vụ bị can bị khởi tố trên phạm vi toàn quốc từ năm 2016 đến năm 2020 48 Bảng 2: Bảng thống kê việc giải quyết VAHS trong giai đoạn điều tra trên phạm vi cả nước trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2020 50 Bảng 3: Bảng thống kê kết quả giải quyết VAHS trong giai đoạn điều tra trên phạm vi cả nước trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2020 51 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ LOẠI TRỪ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .........................................................7 1.1. Những vấn đề lý luận về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự ............7 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự ..............................................................................................................................7 1.1.2. Cơ sở loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự .........................................18 1.1.3. Kinh nghiệm lập pháp nước ngoài về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự.........................................................................................................................21 1.2. Quy định loại trừ chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 ......................................................................................................................28 1.2.1. Những quy định chung về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự .........29 1.2.2. Quy định về loại trừ chứng cứ trong những trường hợp cụ thể ...............31 Kết luận Chương 1 ..................................................................................................46 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN LOẠI TRỪ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP .....................................................................................47 2.1. Thực tiễn loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự ...................................47 2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng các quy định loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự .....................................................................................47 2.1.2. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự ....................................................................................................55 2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự .....................................................................64 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự ......................................................................................................67 2.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự ....................................................................................................67 2.2.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự...........................................................................69 Kết luận Chương 2 ..................................................................................................72 KẾT LUẬN ..............................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chứng cứ là phương tiện được sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự và có vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần làm rõ đối tượng chứng minh thông qua các chứng cứ đã thu thập được. Việc xác định đúng chứng cứ giúp cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chứng cứ được sử dụng để giải quyết vụ án hình sự phải đảm bảo tính khách quan, tức là chứng cứ phải là những gì có thật, tồn tại trong thực tế. Bên cạnh đó, chứng cứ được dùng phải có tính liên quan, tức là làm rõ những vấn đề cần chứng minh của vụ án. Ngoài ra, chứng cứ còn cần phải đảm bảo tính hợp pháp, tức là phải được thu thập đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền và được rút ra từ nguồn chứng cứ mà pháp luật quy định. Những gì thu thập được nhưng không bảo đảm tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp thì sẽ không được xem là chứng cứ của vụ án và không được dùng để chứng minh. Vì vậy, để xác định chứng cứ của vụ án hoặc những gì không phải là chứng cứ, không có giá trị chứng minh nhà làm luật cũng cần quy định cụ thể. Việc không chấp nhận những gì thu thập được không phải là chứng cứ được gọi là loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự. Loại trừ chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn chứng minh. Nếu luật tố tụng hình sự đã quy định chứng cứ thì cũng cần thiết quy định loại trừ chứng cứ. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, lần đầu tiên có một quy định chung về loại trừ chứng cứ tại khoản 2 Điều 87. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý chung để bác bỏ những gì thu thập được nhưng không phải là chứng cứ, không có giá trị chứng minh. Bên cạnh đó còn có một số quy định loại trừ chứng cứ riêng từ lời khai, từ kết luận giám định… tạo nên cơ sở pháp lý cho loại trừ chứng cứ. Nếu như không nhận thức đầy đủ về loại trừ chứng cứ. Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về loại trừ chứng cứ là rất cần thiết, qua đó góp phần đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước đối với việc tiếp tục cải cách tư pháp và công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hiện nay. Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Loại trừ chứng cứ theo luật tố 2 tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề về loại trừ chứng cứ chưa có công trình nghiên cứu nào về những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên những vấn đề liên quan đến chứng cứ, quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, quá trình chứng minh vụ án hình sự đã được rất nhiều chuyên gia luật học nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau trong đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây: - Về tài liệu cung cấp tri thức cơ bản về tố tụng hình sự, có các giáo trình, sách bình luận khoa học về luật tố tụng hình sự, như sau: + Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức; Lê Cảm (chủ biên) (2021), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội; Phạm Mạnh Hùng và Lại Viết Quang (đồng chủ biên) (2019), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội,… Đây là những công trình đặc thù về lý luận khoa học tố tụng hình sự, trong đó phân tích làm rõ quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm. Đây là những công trình có giá trị tham khảo cao giúp tác giả hoàn thiện những vấn đề lý luận về loại trừ chứng cứ tại Chương 1 của Luận văn. + Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức. Nội dung quyển sách gồm hai phần: Phần thứ nhất trình bày, phân tích và đánh giá những chế định pháp lý nổi bật mới được ghi nhận, được sửa đổi trong Bộ luật tố tụng hình sự 3 năm 2015, các chế định này trải dài từ phần những quy định chung cho đến phần thủ tục giải quyết các vụ án hình sự được viết bởi nhiều tác giả; Phần thứ hai là so sánh nội dung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhằm giúp người đọc có cơ sở trong việc đối chiếu hai Bộ luật này. - Về các sách chuyên khảo, luận văn, luận án có các công trình nghiên cứu sau đây: + Trần Quang Tiệp (2009), Chế định chứng cứ trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Sách này đề cập đến những thông tin lý luận về mặt pháp lý của chế định chứng cứ. Cụ thể, quyển sách này viết về: Khái niệm chứng cứ và các loại chứng cứ, khái niệm nguồn chứng cứ và các loại nguồn chứng cứ, đối tượng chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong vụ án hình sự, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự. Tác giả cũng đã đề cập đến cơ sở lý luận của chứng cứ, khái niệm chứng cứ, ý nghĩa của khái niệm chứng cứ, phân loại chứng cứ. + Trịnh Quy Bình Yên (2017), Đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam đồng thời làm rõ thực tiễn quy định pháp luật tố tụng hình sự về đánh giá chứng cứ; thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về đánh giá chứng cứ. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra những giải pháp bao gồm: Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chứng cứ và đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự; giải pháp về tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về đánh giá chứng cứ, qua đó là nguồn tài liệu để luận văn hoàn thiện kiến nghị. + Vũ Đại Hải (2021), Hoạt động thu thập chứng cứ theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Hòa Bình), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là luận văn đã nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận và thực hiện trong hoạt động thu thập chứng cứ, trong đó tập trung phân tích, đánh giá và đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động thu thập chứng cứ đối với từng loại chứng cứ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về thu thập chứng cứ, từ đó đã chỉ ra nguyên nhân, hạn chế, qua đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện những quy định và tổ chức thực hiện các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. 4 + Trần Văn Tuân (2021), Đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. Trong luận án đã nghiên cứu cứu một cách cơ bản một số vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự, đồng thời nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự của các chủ thể trực tiếp đánh giá chứng cứ, từ đó đưa ra những kiến giải khoa học về việc tổ chức thực hiện và bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật, xây dựng cơ chế đảm bảo sự thuận lợi cho các chủ thể trực tiếp thực hiện đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, góp phần hoàn thiện hơn nữa chất lượng đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Đây là luận án có giá trị tham khảo cao về lý luận về loại trừ chứng cứ. Ngoài ra còn có thể kể đến một số công trình khác có liên quan như: Đặng Văn Thực, Trần Quỳnh Hoa (2015), “Cần sửa đổi bổ sung các quy định về chứng cứ và thu thập chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí kiểm sát, (số 11), tr 35-36; Trần Văn Độ (2013), “Cơ chế đánh giá chứng cứ trong trường hợp các kết luận giám định có kết quả khác nhau”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 3/2013; Đỗ Văn Chỉnh (2015), “Chứng cứ và đánh giá chứng cứ”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14/2015; Võ Minh Kỳ (2017), “Đánh giá lời khai của người bị buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2017; Hoàn Thị Minh Sơn (2008), “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học số 7/2008, tr 65-72; Nguyễn Thanh Mai (2019), “Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghề Luật số 3/2019, tr 56-62…Đây là các công trình nghiên cứu khoa học rất công phu về lý luận và thực tiễn áp dụng về chế định chứng cứ, hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự. Qua nghiên cứu một số công trình nghiên cứu đã kể trên có thể khẳng định rằng chế định chứng cứ, hoạt động thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ được sự quan tâm nghiên cứu với hình thức nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khác nhau. Các công trình đã đánh giá chuyên sâu và làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về chứng cứ, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên cho đến thời điểm nghiên cứu luận văn, chưa có công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ. Vì vậy, trên tinh thần tiếp thu 5 có chọn lọc những thành tựu của các công trình nghiên cứu đã công bố, luận văn tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự, từ đó đưa ra những đề xuất để hoàn thiện những quy định pháp luật về loại trừ chứng cứ cũng như những giải pháp khác nhằm áp dụng đúng các quy định về loại trừ chứng cứ trong thực tiễn pháp lý. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Từ mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: Thứ nhất, trình bày những vấn đề lý luận loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự; cơ sở trong việc quy định loại trừ chứng cứ cũng như kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự. Thứ hai, phân tích và làm rõ về thực trạng áp dụng quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy định loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan điểm lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự nước ta hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Về nội dung: Đề tài nghiên cứu các quy định loại trừ chứng cứ theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. 6 - Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trên phạm vi cả nước. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trên phạm vi cả nước từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người cũng đóng vai trò phương pháp luận trong luận văn này. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự. Phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ án (tình huống) điển hình góp phần làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn nghiên cứu của đề tài Loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự là một công trình hoàn toàn mới, trong đó có sự tiếp thu và kế thừa những tinh hoa của những công trình nghiên cứu trước đây, từ đó, luận văn cung cấp những nội dung, luận cứ quan trọng có giá trị để tiếp tục làm phong phú thêm lý luận về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự. Kết quả nghiên cứu luận văn đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị của luận văn có thể áp dụng bảo đảm hiệu quả trong việc áp dụng các quy định về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự. Kết quả nghiên cứu đó cũng có thể được sử dụng để tham khảo trong giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 02 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự Chương 2: Thực tiễn loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự và giải pháp. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ LOẠI TRỪ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận về loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự 1.1.1.1. Khái niệm loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự Tội phạm là hành vi cụ thể của con người, nên bất kỳ một tội phạm nào xảy ra bao giờ cũng được thể hiện ra thế giới khách quan bằng những dấu vết cụ thể, được phản ánh dưới những dạng khác nhau, hoặc là dạng vật chất hoặc là dạng tinh thần. Dạng phản ánh vật chất là những dấu vết tội phạm được lưu lại trên những vật thể hoặc chất nào đó, như: Có hình dạng, kích thước, màu sắc, số lượng, khối lượng... mà con người có thể xác định được bằng các hoạt động cụ thể, như: Cân, đong, đo, đếm... hoặc bằng các giác quan, như: Cầm, nắm, nhìn, nghe... Dạng phản ánh tinh thần là những dấu vết tội phạm được lưu lại trong bộ não con người, như: Trong bộ não của người làm chứng, người bị hại, bị can, bị cáo... và những dấu vết này được bộc lộ ra bên ngoài thông qua các hoạt động tố tụng, như: Lấy lời khai, nhận dạng, đối chất...1. Thông qua việc thu thập các dấu vết để lại này con người có thể nhận thức và xác định được sự thật khách quan của vụ án2. Những dấu vết đó, trong khoa học pháp lý được gọi là “chứng cứ”. Đó là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục TTHS, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án3. Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm chứng cứ được các chuyên gia nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau: Theo tác giả Vương Văn Bép cho rằng “Chứng cứ trong tố tụng hình sự là những thông tin có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân và tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc Khổng Minh Tuấn, Ngô Sỹ Hiền, Phạm Xuân Thủy (2006), Kỹ thuật điều tra hình sự, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 225-226. 2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 154. 3 Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội, Xem Chương VI. 1 8 giải quyết đúng đắn và chính xác vụ án hình sự”4. Tác giả Đỗ Văn Đương cho rằng: “Chứng cứ là những thông tin xác thực về những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội, được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà những người và cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án”5, còn theo tác giả Lý Xuân Nhất thì: “Chứng cứ là những sự vật, sự việc tồn tại khách quan, liên quan đến hành vi phạm tội, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”6. Như vậy, qua các khái niệm trên có thể nhận thấy rằng: xét về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu, là những gì có thật được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo các quy trình, thủ tục mà pháp luật TTHS quy định nhằm giải quyết đúng đắn VAHS. Một thông tin, tài liệu chỉ có thể được coi là chứng cứ của vụ án khi nó hội đủ ba thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. - Tính khách quan đòi hỏi chứng cứ là những gì có thật, tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Những gì là suy đoán tưởng tượng hoặc được tạo ra một cách giả dối đều không phải là chứng cứ. Cũng có ý kiến cho rằng một số chứng cứ chứa đựng trong lời khai của người tham gia tố tụng thì khó mang tính khách quan, dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng của yếu tố chủ quan, của ý chí người khai báo. Thực ra, chứng cứ trong lời khai của người tham gia tố tụng là những thông tin về tội phạm được phản ánh khách quan trong ý thức người chứng kiến sự việc phạm tội đó. Vì vậy, về bản chất các thông tin được khai báo là khách quan. Tuy nhiên, do tác động của các yếu tố khác nhau (như khả năng tiếp nhận thông tin, quan hệ với người phạm tội, người bị hại...) mà thông tin đó được tiếp nhận hoặc cung cấp sai lệch. Nhiệm vụ của cơ quan THTT là kiểm tra xem các thông tin đó có khách quan hay không. Các thông tin mà CQĐT, VKSND, TAND hay người có thẩm quyền khác nhận được mà không khách quan thì dù bất kì lí do gì đều không được coi là chứng cứ. Những thông tin, tài liệu, đồ vật dù tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên tạc, bóp Vương Văn Bép (2013), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học quốc gia Hà Nội. tr 16. 5 Đỗ Văn Đương (2000), Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Cảnh sát nhân dân, tr 30. 6 Lý Xuân Nhất (2019), Chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nan năm 2015, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội. tr.7. 4 9 méo hay bị làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang tính khách quan. Vì vậy, những thông tin, tài liệu, đồ vật đó không thể là chứng cứ của vụ án được. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử việc xác định đúng đắn tính khách quan của chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong chứng minh tội phạm. Việc sử dụng các thông tin, tài liệu bị bóp méo, bị xuyên tạc, bị làm giả để chứng minh cũng như kiểm tra, đánh giá chứng cứ phụ thuộc vào suy luận chủ quan của nguồn chứng cứ (suy luận chủ quan của người cung cấp lời khai, người báo cáo...) sẽ làm cho việc chứng minh thiếu chính xác, sự thật khách quan không được xác định. Trong bối cảnh đó vụ án sẽ bị giải quyết sai lệch. - Tính liên quan của chứng cứ có nghĩa là những gì có thật phải có mối liên hệ khách quan với những sự kiện cần phải chứng minh trong VAHS, có thể làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh. Mối quan hệ này được thể hiện ở hai mức độ khác nhau: Ở mức độ thứ nhất, mối quan hệ của chứng cứ với đối tượng cần chứng minh. Đây là mối quan hệ cơ bản, chủ yếu. Trong mối quan hệ này, chứng cứ chứng minh sự thật vụ án, tức là xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết khác có ý nghĩa làm rõ tội phạm và trách nhiệm hình sự. Ở mức độ khác, có những thông tin, tài liệu không trực tiếp làm rõ bản chất vụ án nhưng có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vụ án (ví dụ hoàn cảnh giả đình, nhân thân, được khen thưởng Huân chương, huy chương….). Mặc dù không trực tiếp làm rõ sự thật vụ án nhưng có ý nghĩa trong quyết định hình phạt và áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự khác. Để coi một thông tin, tài liệu, đồ vật có phải là chứng cứ hay không, cơ quan có thẩm quyền THTT phải xác định được tính liên quan của thông tin, tài liệu, đồ vật ở hai mức độ như trên. Nếu thông tin, tài liệu, đồ vật không liên quan hoặc không có ý nghĩa trong giải quyết vụ án thì không gọi là chứng cứ. - Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ, những gì có thật, liên quan đến VAHS và tồn tại trong những nguồn chứng cứ và được thu thập bằng các biện pháp, đúng trình tự thủ tục và đúng thẩm quyền. Cụ thể là chứng cứ được xác định bằng nguồn xác định theo quy định của pháp luật. Những thông tin, tài liệu, đồ vật tuy tồn tại trong thực tế và có liên quan đến vụ án nhưng không được lưu giữ trong nguồn chứng cứ mà pháp luật quy định thì không được xem là chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi việc thu thập phải đúng trình tự do pháp luật quy định. 10 Như vậy, nếu thiếu một trong ba thuộc tính này thì thông tin, tài liệu dù có được thu thập và đưa vào hồ sơ vụ án cũng không thể trở thành chứng cứ của VAHS được. Khi giải quyết một VAHS, ở từng giai đoạn tố tụng, cơ quan THTT phải dựa vào chứng cứ. Chứng cứ là phương tiện để chứng minh có tội phạm xảy ra hay không, là tội phạm gì, ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và các tình tiết khác có liên quan thế nào. Thông qua chứng cứ, CQĐT mới ra được bản kết luận điều tra, xác định được hành vi phạm tội của bị can và đề nghị VKSND truy tố; từ đó VKSND mới ban hành cáo trạng truy tố bị can ra trước TAND để xét xử; Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà mới dựa vào đó luận tội đối với bị cáo; còn bị cáo, người bào chữa mới có thể có lập luận để bác bỏ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Hội đồng xét xử ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tiếp cận dưới góc độ luật học so sánh cho thấy, trong pháp luật TTHS của mỗi quốc gia, đều có những quy định về loại trừ chứng cứ, tuy nhiên các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra các căn cứ để loại trừ chứng cứ, còn loại trừ chứng cứ là gì vẫn chưa được đề cập một cách cụ thể. “Loại trừ” là một hành động, trong tiếng Anh được gọi theo nhiều từ khác nhau nhưng thường trong từ ngữ pháp lý thì từ được sử dụng nhiều nhất là “exclude” và từ này có thể hiểu là “loại trừ, gạt ra”. Theo Dictionary Cambridge “Loại trừ chứng cứ” hay “loại trừ bằng chứng” trong tiếng Anh là “exclusion of evidence”7. Ở Anh, chứng cứ được loại trừ dựa trên tính công bằng theo luật thông thường, Đạo luật Cảnh sát và chứng cứ Hình sự năm 1984 (Police and Criminal Evidence Act 1984), Đạo luật Tư pháp Hình sự 2003 (Criminal Justice Act 2003). Trong pháp luật của Liên bang Nga, căn cứ loại trừ chứng cứ được quy định ngay trong BLTTHS (cụ thể tại Điều 75, Điều 88 và một số điều luật khác)8 là “những chứng cứ được thu thập nhưng vi phạm quy định của Bộ luật này thì không được chấp nhận và những chứng cứ không được chấp nhận thì không có giá trị pháp lý và không được sử dụng làm căn cứ để buộc tội cũng như để chứng minh bất kỳ tình tiết nào”9. Bên cạnh đó, Bộ luật đưa ra các trường hợp loại trừ cụ thể chủ yếu quy định về tính hợp pháp của chứng cứ. Luật TTHS của Trung Quốc cũng quy định các căn cứ loại trừ chứng cứ ngay trong BLTTHS https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/english-vietnamese/exclude truy cập ngày 07/08/2022 Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Nga, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội 9 Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), tlđd (8) 7 8 11 (Điều 55, Điều 56 và các điều luật khác có liên quan)10 và một số văn bản hướng dẫn có liên quan. Mặc dù vấn đề loại trừ chứng cứ đã được đề cập vào pháp luật TTHS của các nước nhưng chưa có một khái niệm pháp lý chính thức nào về loại trừ chứng cứ. Dưới góc độ pháp luật thực định, BLTTHS của Việt Nam năm 1988 và năm 2003 chỉ đề cập khái niệm về chứng cứ nhưng chưa đề cập đến khái niệm về loại trừ chứng cứ trong TTHS. Riêng BLTTHS Việt Nam năm 2015, ngoài quy định thế nào là chứng cứ thì tại khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015 còn quy định: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”. Như vậy, lần đầu tiên BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận loại trừ chứng cứ trong một quy định rõ ràng. Quy định này nhấn mạnh tính hợp pháp của chứng cứ và có thể nói đây là một điểm mới quan trọng trong pháp luật TTHS của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ quy định đơn giản như vậy vẫn chưa thể hiện được tầm quan trọng của vấn đề loại trừ chứng cứ, cũng như chưa đủ chặt chẽ, toàn diện về việc loại trừ chứng cứ. Bản chất của chứng cứ trong TTHS là thông tin xác thực về sự kiện thực tế có liên quan đến VAHS. Do vậy, nội hàm của khái niệm về chứng cứ được xác định như sau: Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết VAHS. BLTTHS hiện hành không quy định cụ thể thế nào là đủ chứng cứ để giải quyết vụ án, vì vậy quá trình kiểm tra, đánh giá cần khẳng định các chứng cứ thu thập được đã đủ cơ sở để chứng minh trong vụ án hình sự chưa hay cần phải thu thập thêm những chứng cứ khác nữa để xác định được mức độ tin cậy, làm cơ sở kết luận toàn bộ những vấn đề cần phải chứng minh trong những trường hợp cụ thể. Từ đó, các cơ quan THTT khẳng định được tính đúng đắn trong kết luận của mình, đã xác định được tính logic của những tình tiết của vụ án với những chứng cứ đủ sức thuyết phục và tin cậy. Quá trình nhận thức về thế giới khách quan thấy rằng sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và luôn tuân theo những quy luật khách quan nhất định. Đinh Bích Hà (người dịch) (2007), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; 10 12 Vì vậy, trong quá trình chứng minh, cũng có xu hướng loại trừ chứng cứ song song với chấp nhận chứng cứ. Loại trừ chứng cứ chủ yếu dựa trên kết quả kiểm tra chứng cứ, là tiền đề, điều kiện cho việc sử dụng chứng cứ. Sử dụng chứng cứ là sự kiểm nghiệm, kiểm tra lại các giá trị chứng cứ và kết quả của quá trình đánh giá chứng cứ. Như vậy, loại trừ chứng cứ và sử dụng chứng cứ là hai hoạt động không thể tách rời hoạt động nhận thức về thế giới khách quan và nội dung vụ án. Bên cạnh đó, hoạt động loại trừ chứng cứ là kết quả của hoạt động kiểm tra chứng cứ, tạo điều kiện cho việc xác định rõ sự thật khách quan của VAHS. Để loại trừ chứng cứ, người có thẩm quyền THTT phải nghiên cứu khách quan, toàn diện, đầy đủ mọi tình tiết của vụ án và dựa trên cơ sở quy định pháp luật về chứng cứ, nguồn chứng cứ, trình tự thủ tục thu thập chứng cứ để nghiên cứu, xem xét từng chứng cứ có phù hợp với thực tế khách quan, phù hợp với các tình tiết khác hay không, chứng cứ đó có thể chứng minh những tình tiết nào. Bên cạnh các chủ thể là người có thẩm quyền THTT, các chủ thể khác như bị can, bị cáo, người bị hại, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là những người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý trong vụ án. Bị can, bị cáo, người bị hại có quyền thu thập các tài liệu để bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền THTT kiểm tra, đánh giá. Người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền THTT kiểm tra, đánh giá. Những chủ thể này không bắt buộc phải chứng minh hành vi phạm tội, đồng nghĩa với việc không bắt buộc phải thực hiện hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Trong quá trình tham gia vào hoạt động tố tụng, những người này có thể thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và nếu hiểu theo nghĩa rộng thì bất cứ ai (kể cả những người không liên quan đến vụ án) cũng có thể có hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ cho nên hoạt động loại trừ chứng cứ cũng được đặt ra. Những người tham gia tố tụng có thể đánh giá để đưa ra chứng cứ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người mà họ bảo vệ (đối với người bào chữa). Quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá của những chủ thể này cũng là quá trình xác định giá trị chứng minh của chứng cứ nhằm lựa chọn sử dụng chứng cứ nào, đưa ra chứng cứ vào thời điểm nào để cơ quan THTT, người THTT xem xét quyết định, nhưng để có những đánh giá mang tính quyết định và để đưa ra kết luận có giá trị pháp lý thì thuộc quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan 13 THTT, người THTT. Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động loại trừ chứng cứ khi kiểm tra chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền THTT trong TTHS. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về loại trừ chứng cứ trong TTHS “là hoạt động nhận thức, tư duy logic của các chủ thể trên cơ sở vận dụng tổng hợp quy định của pháp luật, ý thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn và niềm tin nội tâm nhằm bác bỏ những gì thu thập được nhưng không phải là chứng cứ và không có giá trị chứng minh.” 1.1.1.2. Đặc điểm của loại trừ chứng cứ trong tố tụng hình sự Qua quá trình nghiên cứu, có thể đưa ra một số đặc điểm của loại trừ chứng cứ trong TTHS như sau: Thứ nhất, việc loại trừ chứng cứ thực hiện dựa trên những quy định của pháp luật TTHS về chứng cứ. Tội phạm xảy ra bao giờ cũng để lại dấu vết trong thế giới khách quan dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất. Để chứng minh tội phạm thì phải thu thập các dấu vết mà tội phạm để lại. Sau khi phát hiện chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền THTT phải tiến hành thu thập chứng cứ. Để tiến hành thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp và phương pháp theo quy định của pháp luật, từ đó phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản tài liệu, đồ vật, thông tin liên quan để phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Việc thu giữ chứng cứ phải được thực hiện nhanh chóng, kịp thời để tránh các trường hợp ngụy tạo, tiêu hủy chứng cứ, bảo đảm các thủ tục theo quy định của pháp luật cho từng loại nguồn chứng cứ nhằm đảm bảo tính hợp pháp cho những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được. Khi thu thập chứng cứ, người có thẩm quyền phải tiến hành lập biên bản mô tả, ghi chép những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình thu thập được thông qua các biên bản tố tụng hoặc các hình thức khác (biên bản hỏi cung, biên bản lấy lời khai, biên bản định giá tài sản, bản kết luận giám định, sơ đồ hiện trường…). Tùy vào từng loại nguồn chứng cứ mà sau khi thu thập sẽ có cách bảo quản phù hợp nhằm đảm bảo tính nguyên vẹn của chứng cứ, tránh chứng cứ bị tiêu hủy, hư hỏng nhằm đảm bảo tính khách quan của chứng cứ. Ví dụ: vật chứng thì phải được niêm phong, xử lý theo quy định của pháp luật (tùy vào từng chứng cứ mà có cách bảo quản khác nhau), đối với những chứng cứ được ghi nhận trong biên bản tố tụng thì được lưu giữ trong hồ sơ vụ án…Thực tiễn hiện nay, để tiến hành loại trừ chứng cứ thì người
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan