BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LÝ SINH ĐẠI
LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tân Duy
Học viên: Lý Sinh Đại
Lớp: Cao học Luật hình sự – Khóa 32
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân. Mọi lý luận,
nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích dưới sự hướng dẫn của TS.
Lê Huỳnh Tấn Duy. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo độ
tin cậy, khách quan và chính xác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan
này. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng
2022
Ngƣời cam đoan
Lý Sinh Đại
năm
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
: Bộ Luật Tố tụng hình sự
ĐTV
: Điều tra viên
THTT
TTHS
: Tiến hành tố tụng
: Tố tụng hình sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................10
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18
tuổi trong tố tụng hình sự...................................................................................10
1.1.1. Khái niệm lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi .................................10
1.1.2. Đặc điểm của lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi ...........................15
1.1.3. Ý nghĩa của lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi ..............................18
1.2. Cơ sở của việc quy định về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong
tố tụng hình sự .....................................................................................................19
1.2.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................20
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ..........................................................................................23
1.3. Nguyên tắc lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong tố tụng hình
sự...........................................................................................................................26
1.3.1. Những nguyên tắc chung ..........................................................................26
1.3.2. Những nguyên tắc đặc thù ........................................................................28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................32
CHƢƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ LẤY
LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN .........................................................................................................................33
2.1. Sơ lƣợc lịch sử các quy định về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi
trong tố tụng hình sự ..........................................................................................33
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về lấy lời khai bị hại
là ngƣời dƣới 18 tuổi ...........................................................................................37
2.2.1. Quy định về triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi để lấy lời khai...........37
2.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi ....40
2.3. Thực tiễn lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi ...................................48
2.3.1. Những kết quả đạt được trong lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi .48
2.3.2. Những hạn chế trong lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi và nguyên
nhân ...........................................................................................................................52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................68
CHƢƠNG 3 NHU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI LÀ NGƢỜI
DƢỚI 18 TUỔI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN .............................69
3.1. Nhu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời
khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi và nâng cao hiệu quả thực hiện .................69
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời
khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi .......................................................................71
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi .........................................78
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................84
KẾT LUẬN ..............................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người dưới 18 tuổi là đối tượng được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
đặc biệt quan tâm bảo vệ. Đảng và Nhà nước ta cũng luôn xây dựng một đường lối
nhất quán, xuyên suốt trong vấn đề bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên, gần đây
nhất, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 20/CT-TW ngày 5-11-2012 về việc “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em
trong tình hình mới” xác định đây là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần
quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, chúng ta đang đứng trước một thực trạng đáng báo động là khi
kinh tế, xã hội và đất nước ngày càng phát triển thì ngày càng nhiều những tiêu cực
và tác động xấu ảnh hưởng đến sự phát triển của người dưới 18 tuổi. Đó là sự gia
tăng về các tệ nạn như ma túy, mại dâm trẻ em, buôn bán trẻ em và người chưa
thành niên hay thậm chí là những tội phạm về xâm phạm tình dục đối với người
dưới 16 tuổi,... Đây là những hành vi trái với luân thường đạo lý, trái với các
nguyên tắc, chủ trương và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Thêm vào
đó, khi những trẻ em nói trên tham gia vào quá trình tố tụng, với tư cách là bị hại
chúng hoàn toàn có thể phải chịu những tác động tiêu cực từ phía các cơ quan
THTT, báo chí, dư luận xã hội,... Có thể kể đến một số hoạt động tố tụng như giám
định pháp y, việc lấy lời khai của cơ quan điều tra hay thủ tục xét hỏi tại phiên tòa,...
Những hoạt động tố tụng ấy sẽ tác động nhiều đến tinh thần, tâm trạng của đứa trẻ
chưa kể đến sự tham gia của báo chí, sự bình phẩm của dư luận xã hội cũng có thể
khiến cho bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng. Vì thế, để bảo vệ
bị hại là người dưới 18 tuổi khỏi những tổn thương bởi tội phạm gây ra và chính từ
quá trình tham gia tố tụng, chúng ta cần có một thiết chế mạnh mẽ, một sự quan tâm
đúng mực đối với đối tượng này.
Ở Việt Nam, với tính chất nghiêm trọng và ngày càng phức tạp của tình hình
tội phạm liên quan đến người dưới 18 tuổi trong những năm gần đây đòi hỏi phải có
một khung pháp lý hoàn thiện, xử lý khéo léo để ngăn ngừa, giảm thiểu những tác
hại xấu đối với xã hội nhưng vẫn đảm bảo quyền tố tụng cơ bản, quyền con người
và quyền công dân của người dưới 18 tuổi. Đều này góp phần giúp nước ta có thể
hoàn thành mục tiêu xây dựng một nền tư pháp hiện đại, nhân văn theo hướng bảo
2
vệ quyền con người, quyền công dân, vấn đề bảo vệ bị hại – người trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần và tài sản là người dưới 18 tuổi nói riêng trong pháp luật
luôn luôn cần phải được đề cao và tôn trọng.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi
vẫn còn nhiều những vướng mắc, bất cập. Bất cập trong chính những nguyên tắc
THTT; vẫn chưa có một đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên; bất cập
trong việc xác định và đảm bảo những quyền đặc thù của bị hại nhất là trong hoạt
động điều tra, xét xử của các cơ quan THTT. Việc thu thập chứng cứ và hoạt động
lấy lời khai còn chưa hiệu quả, việc xác định bị hại và độ tuổi của bị hại còn nhiều
những khó khăn, việc chưa đồng bộ hóa các cơ quan chuyên trách đối với người
dưới 18 tuổi cũng là một rào cản lớn cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng,...
Thêm vào đó, các quy định bảo vệ bị hại là người dưới 18 tuổi còn quy định sơ sài,
chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức. Do đó, pháp luật TTHS phải có những
quy định, thủ tục riêng để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng.
Pháp luật Việt Nam luôn chú trọng đảm bảo thực hiện các quyền của người dưới 18
tuổi trong quá trình TTHS, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam đã
cam kết. Vì thế, cần có những nghiên cứu bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thực thi
trong hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm thực hiện
việc bảo vệ quyền bị hại là người dưới 18 tuổi ngày một tốt hơn, vững chắc hơn.
Chính vì vậy, nhận thấy được những khó khăn cần tháo gỡ của pháp luật Việt
Nam nói chung và pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng về vấn đề bảo vệ bị hại là
người dưới 18 tuổi, cùng với đó cần trau dồi thêm việc nghiên cứu, hoàn thiện các
quy định của BLTTHS hiện hành trong mối tương quan, so sánh với một số chuẩn
mực quốc tế cũng như pháp luật một số nước để từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ
sung chế định lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi một cách hoàn thiện nhất,
bảo đảm thực thi các ngh a vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết. Với những lý do
đó, học viên quyết định chọn đề tài “Lấy lời khai bị hại là người ư i
tu i t o
luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm Luận văn thạc s luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi là một hoạt động quan trọng trong
TTHS. Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình
khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc trong các giáo trình,
sách chuyên khảo, bình luận khi nghiên cứu vấn đề lấy lời khai bị hại là người dưới
18 tuổi. Tiêu biểu, có các công trình nghiên cứu sau đây:
3
Nhóm sách, giáo trình, sách bình luận chuyên khảo tiêu biểu liên quan
đến đề tài nghiên cứu n ư:
- Nguyễn Ngọc Diệp (2019), “Bình luận các tội phạm có bị hại là người dưới
18 tuổi trong Bộ luật hình sự năm 2015 và sự tham gia tố tụng của họ”, sách
chuyên khảo, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. Công trình phân tích, bình luận và
đánh giá những quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến người bị hại dưới 18
tuổi và các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc”, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia. Cuốn sách này trình bày và phân tích chuyên sâu về khung
pháp lý tư pháp hình sự người chưa thành niên của Liên hợp quốc và Việt Nam,
trong đó tập trung chủ yếu vào những quy định của pháp luật TTHS điều chỉnh về
người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), “Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề thủ tục
giải quyết vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của
Liên Hợp Quốc”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Cuốn sách nghiên cứu chung về lý luận,
quyền của người bị hại trong TTHS Việt Nam, nghiên cứu so sánh lịch sử hình
thành và phát triển quyền của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới
và Việt Nam; Đánh giá về thực trạng các quy định của pháp luật về quyền của
người bị hại và thực trạng thực hiện quyền của người bị hại ở Việt Nam từ đó đưa
ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp thúc đẩy, bảo đảm quyền của
người bị hại. Tuy nhiên tác giả nghiên cứu chung về quyền của người bị hại theo
luật TTHS năm 2003.
Các công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở việc phân tích, bình luận
các quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 về lấy lời khai người
bị hại mà chưa đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định đó cũng như chưa giải
quyết các vấn đề mang tính lý luận về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi.
Nhóm luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp cử nhân tại Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tiêu biểu có liên quan đến đề tài:
- Lê Nguyên Thanh (2012), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố
tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến s Luật học, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu đã phân tích những vấn đề lý luận chung
4
về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của BLTTHS. Quyền và
ngh a vụ của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của BLTTHS
năm 2003. Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện.
- Nguyễn Đức Thái (2015), “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại
trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến s Luật học, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại. Thực tiễn áp dụng
và giải pháp hoàn thiện quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong
TTHS Việt Nam. Chứ không nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động lấy lời khai
người bị hại dưới 18 tuổi.
- Huỳnh Thị Trúc Mai (2014), “Bảo đảm quyền con người của người bị hại
chưa thành niên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Luận văn thạc s
Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình đã nghiên
cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền con người của người bị hại chưa
thành niên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và kiến nghị.
- Nguyễn Thị Thanh Hương (2020), “Xác định tuổi của người bị buộc tội,
người bị hại dưới 18 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc s
Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu
phân tích các quy định về xác định tuổi của người bị hại theo luật TTHS Việt Nam.
Nhóm nghiên cứu khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài:
- Cao Thị Hiền (2013), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm Thị Nguyên (2012), “Bảo vệ quyền con người của người bị hại trong
tố tụng hình sự”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Phạm Thị Xuân (2001), “Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình
sự”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhóm các bài báo, bài viết tạp chí chuyên ngành luật, tham luận hội thảo
có liên quan đến đề tài:
Võ Thị Kim Oanh, Đinh Văn Đoàn (2015), “Hoàn thiện quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng,
người bị hại”, Tạp chí khoa học pháp lý (8); Đinh Văn Đoàn (2017), “Thủ tục đối
với bị hại là người dưới 18 tuổi trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật (06); Trương Hồ Hải (2015), “Hoàn thiện quy định của Bộ
5
luật Tố tụng hình sự liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và quyền tự
bảo vệ của bị hại tại phiên toà hình sự”, Tạp chí Luật học (2); Phạm Thanh Tú
(2017), “Một số ý kiến nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại
dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật (8); Nguyễn Đức Thái (2015), “Vai trò của người bị hại trong lịch sử Tố tụng
hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát (23); Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề
về người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp
chí Kiểm sát (4); Vũ Gia Lâm (2011), “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học (11); Lê
Tiến Châu (2007), “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý (1); Nguyễn
Phương Thảo (2020), “Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ bị hại dưới 18 tuổi
trong giai đoạn điều tra, xét xử và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí khoa học
pháp lý (05); Lại Kiên Cương (2020), “Lấy lời khai bị hại là phụ nữ và trẻ em trong
các vụ án hiếp dâm – những khó khăn, vướng mắc và giải pháp khắc phục”, Tạp chí
Khoa học kiểm sát (2); Nguyễn Cao Cường (2018), “Lấy lời khai và kiểm sát lấy lời
khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt
Nam”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (06); Vũ Thị Quyên,
Nguyễn Thị Kiều Anh (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị hại là người dưới 18 tuổi
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
Viện nhà nước và Pháp luật (01); Trần Minh Hưởng (2007), “Nâng cao hiệu quả
pháp lý lấy lời khai bị hại trong điều tra các vụ án mua bán phụ nữ, trẻ em”, Tạp
chí Kiểm sát (21); Phạm Ngọc Cường, Trần Nguyên Quân (2001), “Phương pháp
tác động tâm lý để lấy lời khai người bị hại trong các vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm
sát (06).
Phan Trung Pháp, Chế Việt Hải, Nguyễn Hoàng Trúc Nhi, Trần Thị Thảo
Nhi (2019), “Trợ giúp pháp lý đối với bị hại là người dưới 18 tuổi theo Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam”, Công trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên cấp
trường lần thứ XXIII năm học 2018 – 2019; Trương Nhật Minh, Nguyễn Hoài
Thương, Trần Thị Hường (2018), “Bảo vệ người bị hại dưới 18 tuổi theo hướng
dẫn của Liên hợp quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Công trình dự thi nghiên
cứu khoa học sinh viên cấp trường lần thứ XXIII năm học 2018 – 2019; Lê Huỳnh
Tấn Duy (2017), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người bị
hại dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc”, Báo cáo tổng kết đề
6
tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp trường; Võ Thị Kim Oanh, Trịnh Duy
Thuyên (2015), “Một số vấn đề về lấy lời khai bị hại”, Tài liệu hội thảo, Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung các công trình thuộc nhóm trên đã nghiên cứu về hoạt động lấy lời
khai bị hại trên nhiều góc độ và nhiều phạm vi khác nhau. Những giải pháp mà các
tác giả đưa ra chủ yếu là những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật,
nhưng do mỗi một công trình nghiên cứu một khía cạnh khác nhau nên các giải
pháp không mang tính tổng thể, toàn diện về hoạt động lấy lời khai bị hại là người
dưới 18 tuổi mà chỉ đề cập đến những quy định về nguyên tắc đối với bị hại là
người dưới 18 tuổi một cách khái quát, chỉ ra một số vướng mắc và nêu ra một số
giải pháp về nội dung mà tác giả muốn nói đến chứ chưa đi sâu vào phân tích các
biện pháp cụ thể đối với hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. Các
công trình nghiên cứu sâu về vấn đề lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi chủ
yếu nghiên cứu ở dưới dạng bài báo, có rất ít bài nghiên cứu về các quy định đối với
hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo BLTTHS 2015.
Tuy nhiên, các bài viết, tạp chí trên cũng có nhiều nội dung để tác giả nghiên
cứu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu, phân tích các vấn đề về “Lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi theo
luật TTHS Việt Nam” dưới góc độ nghiên cứu các quy định của BLTTHS Việt Nam
là hoàn toàn mới trong sự tương quan với các chế tài khác của pháp luật là một vấn
đề hoàn toàn mới. Việc nghiên cứu vấn đề này có giá trị tham khảo về mặt lý luận
cũng như thực tiễn để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam liên quan đến bảo vệ quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi một cách tốt nhất,
phù hợp với thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
ục đ c ng iên cứu
Luận văn được thực hiện với mục đích chính là tìm ra những giải pháp hữu
hiệu nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi và
nâng cao hiệu quả thực hiện.
iệm vụ ng iên cứu
Phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề nhận thức về bị hại là người dưới 18
tuổi ở khía cạnh lý luận và pháp lý; tìm hiểu lịch sử hình thành TTHS về bị hại là
7
người dưới 18 tuổi đồng thời tham khảo xu hướng lập pháp và pháp luật TTHS hiện
nay của một số quốc gia trên thế giới để có thể nhận thức đúng về bản chất, vị trí,
vai trò của chủ thể này trong TTHS Việt Nam.
Tìm hiểu các quy phạm pháp luật về chế định bảo vệ bị hại là người dưới 18
tuổi trong các hướng dẫn, văn bản pháp lý của Việt Nam và của cả Liên Hợp Quốc.
Đồng thời đánh giá thực trạng áp dụng chế định trên để tìm hiểu mức độ đảm bảo
quyền của người chưa thành niên nói chung và bị hại là người dưới 18 tuổi nói riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tác giả đưa ra đề kiến nghị sửa
đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS 2015 và xây dựng được các giải pháp để
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về chế định này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam về hoạt động lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi và thực tiễn
hoạt động lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
thời gian qua.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung làm rõ quy định của BLTTHS 2015 và các
văn bản có liên quan về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu các phương pháp, chiến
thuật lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi.
- Về không gian và thời gian: Việc khảo sát thực tiễn của luận văn được thực
hiện trên phạm vi cả nước trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2021, trong đó các
số liệu thu thập phục vụ chứng minh cho nghiên cứu chủ yếu kể từ khi BLTTHS
2015 có hiệu lực thi hành đến thời điểm hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã vận dụng quan điểm của chủ ngh a
duy vật biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác – Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về quyền con người. Quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền.
8
5.2. P ương p áp ng iên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học được sử dụng ở các chương của
luận văn nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực trạng và đề
xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của bị hại dưới 18 tuổi.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử được sử dụng để phân tích một cách có hệ
thống, đánh giá quá trình phát triển, thực trạng áp dụng pháp luật về lấy lời khai bị
hại là người dưới 18 tuổi.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong việc xác định quan điểm, giải
pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của bị hại dưới 18 tuổi có tính đến kinh nghiệm
quốc tế về vấn đề này.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống được sử dụng để phân tích, đánh giá
các vụ việc, vụ án hình sự để minh chứng cho những kết quả đạt được, hạn chế
trong thực tiễn lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và thực
tiễn về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi. Luận văn góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự,
thông qua việc đưa ra những khái niệm cũng như phân tích những vấn đề liên quan
đến lấy lời khai bị hại dưới 18 tuổi nhằm tác động đến nhận thức của ĐTV về việc
tuân thủ các trình tự, yêu cầu của pháp luật TTHS trong hoạt động lấy lời khai bị
hại dưới 18 tuổi. Qua đó đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, nhằm
nâng cao hiệu quả của việc vận dụng các quy định của pháp luật về lấy lời khai bị
hại dưới 18 tuổi trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu, nghiên cứu thực
tiễn lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi để thấy được những điểm hạn chế, tồn
tại của việc sử dụng biện pháp này, từ đó đề xuất những kiến nghị sát thực nhằm
đảm bảo hơn nữa quyền con người nói chung và quyền của người bị hại dưới 18
tuổi một cách tốt nhất.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
9
C ương : Những vấn đề lý luận về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi
trong tố tụng hình sự.
C ương : Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về lấy lời khai bị hại là
người dưới 18 tuổi và thực tiễn thực hiện.
C ương : Nhu cầu, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi và nâng cao hiệu quả thực hiện.
10
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẤY LỜI KHAI BỊ HẠI
LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của lấy lời khai bị hại là ngƣời dƣới 18
tuổi trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi
Khi nghiên cứu hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi, tác giả
thấy rằng, hiện nay, một số thuật ngữ pháp lý liên quan đến bị hại là người dưới 18
tuổi vẫn chưa có sự thống nhất trong cách hiểu. Do đó, để phục vụ cho việc nghiên
cứu đề tài luận văn, tác giả xin đưa ra và phân tích một số khái niệm để làm rõ hoạt
động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi.
Bị hại là một khái niệm mang tính tương đối trong khoa học pháp lý về
TTHS. Tùy theo quan điểm của nhà làm luật qua các thời kỳ mà pháp luật TTHS sẽ
quy định khác nhau về khái niệm bị hại. Có thể nói, bị hại chỉ là một trong số những
chủ thể bị thiệt hại trong TTHS bởi có rất nhiều chủ thể bị thiệt hại về vật chất lẫn
phi vật chất do tội phạm gây ra. Ngoài ra, chính khái niệm bị hại cũng có những
quan điểm khác nhau như có những quan điểm chỉ coi bị hại là cá nhân nhưng cũng
có nhiều quan điểm cho rằng bị hại gồm cả tổ chức, pháp nhân.
Người bị hại là thuật ngữ pháp lý sử dụng đối với cá nhân bị thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng hoặc về tài sản gây ra bởi một tội phạm. Từ điển Tiếng Việt giải
thích thuật ngữ người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, vật chất hoặc tinh
thần do tội phạm gây ra”1, còn theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học pháp lý
người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội
phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân, bị người phạm tội làm thiệt hại về
thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”2.
Thuật ngữ “bị hại” dùng để chỉ một sự thiệt hại, mất mát, có thể là thiệt hại
về thể chất như tính mạng, sức khoẻ của một người; tài sản thuộc quyền quản lý, sử
dụng, định đoạt của cá nhân hay tổ chức; cũng có thể là bị thiệt hại về tinh thần
hoặc thiệt hại về các quyền và lợi ích hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Với việc dùng thuật ngữ “bị” thể hiện những tác động gây ra thiệt hại phải mang
1
2
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng năm 2004, tr.698.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, tr.198.
11
tính tiêu cực từ bên ngoài mà cá nhân hay tổ chức không mong muốn tiếp nhận nó.
Trong khoa học pháp lý hình sự trước đây chỉ đề cập bị hại là con người cụ
thể, là người bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội của tội phạm. Điều 51
BLTTHS năm 2003 quy định “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra”3. Quy định này chưa làm rõ những vấn đề quan
trọng như: thiệt hại do tội phạm gây ra có bao hàm những thiệt hại gián tiếp? Có
được xem là người bị hại trong những trường hợp phạm tội chưa đạt? Vấn đề này
cần căn cứ vào các loại cấu thành tội phạm cũng như tính chất của sự thiệt hại để
xác định người bị hại. Trong khoa học luật hình sự: Đối với các loại tội phạm có
cấu thành vật chất bắt buộc phải có hậu quả xảy ra và hậu quả đó thường là thiệt hại
về thể chất và vật chất. Trong trường hợp này sự thiệt hại gây ra cho người bị hại
phải là thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra, những thiệt hại cụ thể và xác định,
thiệt hại đó có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Đối với các tội có cấu
thành hình thức thì thiệt hại gây ra cho người bị hại thường là thiệt hại về tinh thần,
vì vậy thiệt hại đó có thể không cụ thể, khó định lượng. Ở nội dung này Ts. Lê
Nguyên Thanh trong luận án tiến s luật học của mình với đề tài “Người bị thiệt hại
do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam”4 phân tích rất cụ thể đã nêu ra các quan
điểm khác nhau xác định người bị hại trong trường hợp người đã bị tội phạm đe dọa
gây ra thiệt hại nhưng thiệt hại chưa xảy ra. Tác giả đồng tình với TS. Lê Nguyên
Thanh khi cho rằng dấu hiệu “đã thực tế bị thiệt hại” không phải là dấu hiệu bắt
buộc của người bị hại. Chỉ cần có hành vi phạm tội đe dọa gây ra thiệt hại cho một
người được xác định thì người đó là người bị hại mà không nhất thiết đã bị thiệt hại
hay chưa và tội phạm đó có cấu thành vật chất hay cấu thành hình thức5.
BLTTHS năm 2015 ra đời là một bước tiến mới trong công tác lập pháp, đã
có những quy định hợp lý, toàn diện và phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền con
người. Đặc biệt đối với bị hại, BLTTHS năm 2015 quy định không chỉ bao gồm cá
nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản như quy định tại BLTTHS
năm 2003 mà còn bao gồm cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội
phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Điều này giúp khắc phục hạn chế của BLTTHS
3
Điều 51 BLTTHS năm 2003.
Lê Nguyên Thanh (2012), Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận án
tiến s luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.28 – 31.
5
Nguyễn Thế Thắng (2019), Lấy lời khai của bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc s luật
học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.9.
4
12
năm 2003, tạo sự công bằng về địa vị pháp lý cho cá nhân, cơ quan và tổ chức bị tội
phạm gây thiệt hại6. Khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định “Bị hại là cá
nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”7. Trong phạm vi
của đề tài nghiên cứu, tác giả xin được nhắc đến thuật ngữ “bị hại” dưới góc độ là
cá nhân (người bị hại).
Sau khi nghiên cứu các quan điểm và nhận thức về bị hại theo quy định của
pháp luật hiện hành, tác giả đưa ra khái niệm về bị hại như sau: “Bị hại là cá nhân
trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa
gây ra. Nếu bị hại là dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần
thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện
hợp pháp của bị hại. Trong trường hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của
bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại và có
những quyền của bị hại”.
Cùng với khái niệm bị hại, tác giả đi sâu vào tìm hiểu thuật ngữ “người dưới
18 tuổi” để làm rõ hơn chủ thể của đề tài nghiên cứu. Điều 1 Công ước quốc tế về
quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định
tuổi thành niên sớm hơn”. Quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước quyền tự do năm 1990 (Quy tắc Havana) lại định ngh a một cách đơn
giản hơn: “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”8. Ủy ban Quyền con người
nhấn mạnh rằng trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966
(ICCPR), giới hạn độ tuổi chưa thành niên được xác định bởi từng quốc gia thành
viên phụ thuộc vào yếu tố xã hội, văn hóa và những điều kiện khác nhưng theo quan
điểm của cơ quan này thì tất cả những người dưới 18 tuổi nên được đối xử như
người chưa thành niên ít nhất trong các vấn đề liên quan đến tư pháp hình sự9. Như
vậy, có thể từ lúc đầu thuật ngữ người chưa thành niên trong khung pháp lý của
Liên Hợp Quốc bao gồm cả nhóm người nhất định trên 18 tuổi nhưng về sau dựa
6
Lê Huỳnh Tấn Duy, Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất: “Những quy định
chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bài viết trong Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên, 2016), Bình luận
những điểm mới cơ bản của Bộ luật TTHS năm 2015, Nxb Hồng Đức, tr.17.
7
Khoản 1 điều 62 BLTTHS năm 2015.
8
The UN Rules for the Protection of Juveniles Deprived of their Liberty (“Havana Rules”), adopted by the
General Assembly resolution 45/113 of 14 December 1990, A/RES/45/113, Article 11.a.
9
UN Human Rights Committee (HRC), CCPR General Comment No.21: Replaces general comment 9
concerning humane treatment of persons deprived of liberty (Artcle 10), 10 April 1992, paragraph 13.
13
trên khái niệm trẻ em trong Công ước về Quyền trẻ em, các cơ quan của Liên Hợp
Quốc đã sử dụng thuật ngữ trẻ em phổ biến hơn và có phần nào tương đồng với
thuật ngữ người chưa thành niên trong các văn bản, tài liệu của mình10.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên được quy định
tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người chưa thành niên là người
chưa đủ 18 tuổi”11. Trong khi pháp luật dân sự lấy độ tuổi để xác định tư cách chủ
thể của người tham gia quan hệ pháp luật thì pháp luật hình sự lại dựa vào độ tuổi
để xác định tư cách chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Theo pháp luật hình sự Việt
Nam quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi (trừ
những trường hợp trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự như mắc
bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không có khả năng nhận thức...). Quy định này
có ngh a là pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận người chưa thành niên là những
người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm
người chưa thành niên được xác định dựa trên cơ sở độ tuổi như quy định của một
số văn bản pháp lý quốc tế và được quy định tương đối thống nhất trong các văn
bản pháp luật hiện hành như: Luật Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, BLTTHS, Bộ luật
Dân sự, Bộ luật Lao động và một số văn bản pháp luật khác. Tất cả các văn bản này
đều quy định độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định những
chế định pháp lý riêng biệt đối với người chưa thành niên trong từng l nh vực cụ thể.
Tuy nhiên theo quy định pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận “Trẻ em là người dưới
16 tuổi”12. Do vậy trong quá trình nghiên cứu, khi nhắc đến pháp luật trong nước thì
khái niệm trẻ em đề cập đến những người dưới 16 tuổi, còn khái niệm người chưa
thành niên đề cập đến những người dưới 18 tuổi, bao gồm cả trẻ em; còn theo xu
hướng chung của thế giới thì trẻ em hay người chưa thành niên đều là danh xưng
được sử dụng để gọi những người dưới 18 tuổi.
Từ những nội dung đã phân tích, tác giả đưa ra khái niệm như sau: “Bị hại
dưới 18 tuổi là người chưa thành niên tại thời điểm trực tiếp bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra và trong quá trình tham
gia tố tụng”.
Lời khai của bị hại là sự trình bày về nguồn tin tội phạm, những tình tiết của
10
Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Thủ tục giải quyết vụ án hình sự đối với người chưa thành niên, NXB Đại học
Quốc Gia TPHCM, tr.5.
11
Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015.
12
Điều 1 Luật trẻ em năm 2016.
14
vụ án, quan hệ giữa họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Lời trình bày này
là nguồn chứng cứ quan trọng và cần thiết, vì bị hại là đối tượng bị tội phạm xâm
phạm trực tiếp đến thể chất, tinh thần hoặc tài sản, nên bị hại biết rất rõ hành vi của
người phạm tội. Đây là nguồn chứng cứ có độ tin cậy cao, là nguồn tin cơ bản giúp
cho các cơ quan THTT xác định được sự thật của vụ án. Nhất là trong giai đoạn đầu
điều tra vụ án, lời khai của bị hại thường là cơ sở để tiến hành các biện pháp cấp
bách như: khám nghiệm hiện trường, truy bắt thủ phạm sau khi thủ phạm gây án bỏ
trốn, khám xét, thực nghiệm điều tra… Tuy nhiên lời khai của bị hại phải được đánh
giá, đối chiếu với các chứng cứ khác, vì bị hại thường quan tâm đến thiệt hại mà
mình gánh chịu, nên tâm lý họ thường cố gắng phản ánh những tình tiết nhằm vạch
trần tội phạm và người phạm tội với mong muốn được đền bù thiệt hại. Do đó trong
hoạt động lấy lời khai bị hại, ĐTV phải kiểm tra, đánh giá lời khai một cách thận
trọng đảm bảo được tính khách quan của lời khai.
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã
đưa ra khái niệm về lấy lời khai bị hại là: “hoạt động điều tra do người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định nhằm thu thập
thông tin về vụ án từ những người tham gia tố tụng này phục vụ cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án”13. Theo quan điểm của khoa học điều tra hình sự hoạt động lấy lời
khai của bị hại là biện pháp điều tra bắt buộc do những người theo luật định tiến
hành theo trình tự, thủ tục TTHS. Lời khai của bị hại là một trong những nguồn
chứng cứ quan trọng có vị trí độc lập trong hệ thống chứng cứ của vụ án, rất cần
được khai thác để phục vụ cho các hoạt động điều tra và xử lý tội phạm14.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm lấy lời khai của bị hại là
người dưới 18 tuổi như sau: “Lấy lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi trong tố
tụng hình sự là hoạt động điều tra do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực
hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định nhằm thu thập những tình
tiết, thông tin, tài liệu mà bị hại là người dưới 18 tuổi biết được giúp các cơ quan
có thẩm quyền điều tra làm rõ một số vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình
sự”.
13
Trường Đại học Luật TP.HCM (2018), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Hồng Đức, tr.440.
Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Bộ Công an (2012), Khoa học hình sự Việt
Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân, tr.149.
14
- Xem thêm -