Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Kinh nghiệm tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ 5 6 t...

Tài liệu Kinh nghiệm tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non trên địa bàn huyện đông sơn, tỉnh thanh hóa.

.PDF
33
20
68

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔNG SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KINH NGHIỆM TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG VỆ SINH CÁ NHÂN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA Người thực hiện: Chức vụ: Đơn vị công tác: Lê Thị Tình Chuyên viên Phòng Giáo dục và Đào tạo, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý 1 THANH HÓA, NĂM 2019 MỤC LỤC NỘI DUNG TT 1. 1.1. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài TRANG 1 2 3 1.2. Mục đích nghiên cứu 3 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 Phương pháp nghiên cứu NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Cơ sở lý luận Thực trạng của vấn đề. Thực trạng chung Thuận lợi Khó khăn Khảo sát chất lượng đầu năm học Các biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo Biện pháp 2: Coi trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ CBQL, GV các nhà trường trên địa bàn huyện. Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động học và lồng ghép qua hoạt động khác. Biện pháp 4: Giáo dục thói quen vệ sinh thông qua hoạt động vui chơi. Biện pháp 5: Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ thông qua mọi lúc, mọi nơi. Biện pháp 6: Chỉ đạo các nhà trường làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh. Biện pháp 7: Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá. 4. Kết quả đạt được: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận Kiển nghị DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI HÌNH ẢNH MINH HỌA SKKN 3 3 3 4 4 4 5 5 6 6 1.4. 2. 2.1. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.2.4. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. 2.3.4. 2.3.5. 2.3.6. 2.3.7. 2.4. 3. 3.1. 3.2. 8 10 13 14 15 16 18 19 19 19 20 21 23 2 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay nói chung, giáo dục mầm non nói riêng, việc chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non ngày càng được quan tâm chú trọng. Bởi giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ em. Chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ ở trường mần non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục các bậc học tiếp theo. Như Bác Hồ kính yêu đã từng nói “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt ”{7}. Năm học 2018 - 2019 ngành Giáo dục huyện Đông Sơn tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 44/NQ-CP của Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Phương hướng chung của giáo dục mầm non năm học 2018 - 2019 là tiếp tục đổi mới hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được coi là cơ hội, mà những người làm công tác giáo dục tạo ra cơ hội cho trẻ phát triển một cách hợp lý giữa việc chăm sóc và giáo dục trẻ {1}. Vì vậy việc giáo dục thói quen vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Thực tế hiện nay, sức khỏe, sự an toàn của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ chủ quan đến khách quan đòi hỏi mỗi người phải có kiến thức, hành vi tự bảo vệ sức khỏe cho mình. Những kiến thức đó cần được học từ tuổi mầm non thông qua gia đình, nhà trường và cộng đồng từ những việc đơn giản nhất như: Thói quen vệ sinh, hành vi văn minh, kỹ năng sống... Qua đó tạo cơ hội cho trẻ sống và phát triển một cách khỏe mạnh về trí tuệ, thể chất. Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ ảnh hưởng đến quá trình phát triển sức khỏe của trẻ em. Tuy nhiên, đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non hệ thần kinh nói riêng, các hệ cơ quan trong cơ thể nói chung chưa hoàn thiện về cấu tạo và chức năng. Do vậy, khả năng hoạt động của hệ thần kinh trẻ còn kém. Những tác động của môi trường bên ngoài không thích hợp có thể ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh ở trẻ, làm kìm hãm sự phát triển hoặc làm rối loạn chức năng của nó. Mặt khác do kinh nghiệm sống của trẻ còn ít, cho nên trẻ cần được giáo dục, rèn luyện thói quen vệ sinh, để trẻ thích nghi với môi trường và phù hợp với lứa tuổi {7}. Trẻ lứa tuổi mầm non khi bắt đầu làm quen với trường lớp do chuyển từ môi trường gia đình sang môi trường tập thể vì thế đòi hỏi trẻ phải có kỹ năng nhất định để hòa nhập. Phần lớn trẻ đến trường thiếu thói quen và kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân như: Chải răng, rửa tay, rửa mặt… như thế nào cho sạch và đúng cách. Chính vì vậy việc giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ ngay từ khi trẻ còn bé là điều vô cùng quan trọng. Song có nhiều phụ huynh lại cho rằng trẻ còn quá nhỏ để nhận thức được, nên trẻ cần sự bao bọc của người lớn, điều đó hoàn toàn sai lầm.  3 Trước thực trạng trên, ngoài việc chăm sóc giáo dục trường mầm non cần tập trung vào việc giáo dục, rèn luyện, hình thành những thói quen, kỹ năng vệ sinh cần thiết cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Với vai trò là người quản lý, tôi luôn suy nghĩ những biện pháp chỉ đạo các trường mầm non trên địa bàn huyện về giáo dục trẻ có thói quen vệ sinh thường xuyên? Để phụ huynh hiểu được trẻ mầm non cần phải giáo dục vệ sinh ngay từ khi đến trường lớp mầm non. Vì thế tôi chọn đề tài “Kinh nghiệm tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ trong trường mầm non, nhằm tìm ra những biện pháp giáo dục tốt nhất, giúp trẻ có những kỹ năng, thói quen vệ sinh. Từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe trẻ ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Kinh nghiệm tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu áp dụng một số phương pháp sau: * Phương pháp nghiên cứu lý luận + Phương pháp khái quát hóa + Phương pháp phân tích tổng hợp Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. * Phương pháp nghiên cứu thực tiễn + Phương pháp điều tra; quann sát + Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn + Phương pháp nêu gương + Phương pháp thực nghiệm sự phạm + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm + Phương pháp thống kê Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận Vệ sinh có thể hiểu là các thao tác, liên quan đến việc duy trì sức khỏe và sự sống được áp dụng để giảm tỷ lệ nhiễm và lây lan dịch bệnh. Thói quen vệ sinh là biểu hiện của nếp sống văn minh, một biện pháp khoa học nhằm mục đích bảo vệ, nâng cao sức khỏe của con người. Để vệ sinh trở thành thói quen văn hóa mỗi đứa trẻ cần phải có một quá trình tập luyện {2}. Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một trong những nhiệm vụ giáo dục quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với sự hình hành và phát triển nhân cách của trẻ sau này. Bởi đây là giai đoạn đánh dấu sự tự lập dần dần trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, giai đoạn định hình nhân cách. Giáo dục 4 thói quen vệ sinh là rèn luyện cho trẻ những thói quen của nếp sống văn minh như: Tính sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng. Đồng thời cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản, khoa học về vệ sinh. Giáo dục rèn luyện cho trẻ các kỹ năng thói quen vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày giúp trẻ biết tự kiểm tra, đánh giá hành động vệ sinh của mình, của bạn. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen thực hiện hành vi, vệ sinh văn minh để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân. Chăm sóc giáo dục vệ sinh cho trẻ mầm non là việc làm thiết thực, nhằm giúp trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành và phát triển các kỹ năng sống cơ bản.  Trẻ có thói quen vệ sinh tốt là một trong những cách phòng tránh dịch bệnh đơn giản và ít tốn kém nhất, những công việc vệ sinh hàng ngày tưởng như rất đơn giản như: Chải răng, rửa mặt, rửa tay, rửa chân, đi giày dép... nhưng lại rất cần thiết trong đời sống hàng ngày của trẻ. Làm tốt công việc vệ sinh không chỉ giúp trẻ phòng bệnh, duy trì sức khỏe tốt mà còn giúp trẻ tạo ấn tượng tốt với những người xung quanh {5}. Giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ mầm non là giúp trẻ hiểu được tại sao cần phải thực hiện vệ sinh sạch sẽ. Thông qua giáo dục hình thành cho trẻ những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định về các thói quen cá nhân, vì ở lứa tuổi này rất dễ uốn nắn. Tuy nhiên, trẻ chưa tự giác phục vụ bản thân, vì vậy cần có những biện pháp giáo dục, chăm sóc phù hợp và khoa học để hình thành cho trẻ thói quen vệ sinh tốt trong cuộc sống hàng ngày của trẻ. 2.2. Thực trạng chung Đông Sơn là một huyện đồng bằng, thuần nông, có 15 xã, thị trấn với 16 trường mầm non. Toàn huyện có 21.047 hộ dân, dân số 75.696 người, diện tích tự nhiên 82.406 km2. 2.2.1. Thuận lợi - Tính đến năm học 2018 - 2019 toàn huyện có 14/16 trường đạt 87,5% đã đạt chuẩn Quốc gia. Vì vậy, môi trường giáo dục trong lớp, ngoài trời cũng đã được các nhà trường cải thiện đáng kể; - Mạng lưới trường, lớp mầm non được quy hoạch tương đối tốt, đảm bảo 15 xã, thị trấn có 16 trường mầm non, mỗi trường tập trung ở 01 điểm, dân số ít nên quy mô các trường vừa và nhỏ, nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị.... không quá lớn; - Trình độ đội ngũ giáo viên hàng năm được nâng lên rõ rệt (92.4% trên chuẩn), chất lượng đội ngũ có nhiều chuyển biến tích cực, ứng dụng CNTT được triển khai rộng rãi, có nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ và đổi mới việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non; - Công tác bồi dưỡng cán bộ giáo viên luôn được chú trọng, các chuyên đề được cập nhật kịp thời và đầy đủ. Cán bộ giáo viên được trẻ hóa nhiều nên rất năng động, sáng tạo, tiếp cận nhanh với những vấn đề chuyên môn mới, nắm bắt nhanh những vấn đề mới trong việc xây dựng môi trường; - Đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho công tác chăm sóc vệ sinh cá nhân cho trẻ đầy đủ (ca cốc, khăn mặt, bàn trải đánh răng, bát thìa...) các đồ dùng thường xuyên được vệ sinh, khử trùng hàng ngày, khu vực vệ sinh luôn khô ráo 5 sạch sẽ. Phụ huynh đã hiểu được mục đích giáo dục vệ sinh cho trẻ và cùng phối hợp tốt với giáo viên và nhà trường về cách chăm sóc sức khỏe, giáo dục vệ sinh cho trẻ đúng cách và khoa học. - Công tác xã hội hóa giáo dục hàng năm luôn được lãnh đạo các cấp và nhân dân quan tâm chăm lo đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, nhân dân tích cực đóng góp xây dựng trường lớp, mua sắm trang thiết bị dạy học. 2.2.2. Khó khăn - Toàn huyện có 15 xã, thị trấn, là một huyện nhỏ, thuần nông, điều kiện kinh tế-xã hội còn gặp nhiều khó khăn. - Môi trường giáo dục ở các trường mầm non đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện đồng đều ở tất cả các trường song một số trường còn nặng tính hình thức mà chưa mang lại hiệu quả thiết thực trong giáo dục. Đặc biệt là khai thác sử dụng môi trường giáo dục chưa linh hoạt, sáng tạo, chưa thực sự phát huy được tính tích cực tham gia hoạt động của trẻ. - Hiện nay việc giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ cũng được giáo viên thực hiện. Song chưa được quan tâm chú trọng nên hiệu quả chưa cao. Giáo viên thực hiện chưa đúng thao tác, chưa đúng quy trình, các nội dung thực hiện thường bị cắt xén, hoặc có thực hiện thì cũng đại khái qua loa. Trong khi đó trẻ mầm non còn rất nhỏ trẻ chưa có ý thức để giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. Trường lớp mầm non là nơi tập trung đông người, nếu cô giáo không giáo dục vệ sinh cho trẻ hoặc giáo dục kém trẻ sẽ không có ý thức giữ gìn vệ sinh. Như vậy ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sinh hoạt của trẻ và có nguy cơ phát sinh, lây lan các dịch bệnh làm ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ. Chính vì thế cô giáo cần có những hiểu biết cơ bản để giáo dục vệ sinh cho trẻ, thông qua hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ hàng ngày ở trường mầm non, cũng như phối hợp với phụ huynh ở nhà. 2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng Kết quả khảo sát thực trạng vào thời điểm tháng 9/2018 ở 16 trường mầm non, 48 lớp mẫu giáo; 240 trẻ/48 lớp mẫu giáo và 48 giáo viên như sau: * Môi trường giáo dục trong lớp: Khảo sát 48 lớp mẫu giáo/3 độ tuổi Số lớp đạt TT Nội dung đánh giá yêu cầu 1 Lớp có số lượng góc chơi phù hợp độ tuổi (4-5 góc/lớp). 48 2 Lớp có tên các góc phù hợp, phân chia không gian hợp 22 lý, màu sắc hài hòa, gọn mảng khối, vừa tầm trẻ. có nội dung chơi rõ ràng, thiết kế theo hướng mở, linh hoạt, sáng tạo. 3 Học liệu chơi phong phú, đa dạng, vệ sinh, an toàn. 30 4 Hệ thống giá, hộp học liệu sắp xếp khoa học, đẹp mắt, 22 thuận tiện cho sử dụng và phù hợp với từng góc chơi. 5 Đồ dùng, đồ chơi tự làm từ nguyên vật liệu sẵn có, sản 16 phẩm mang mầu sắc riêng của địa phương. 6 Có đủ đồ dùng, trang thiết bị cho trẻ sử dụng khi chơi. 35 7 Lớp có kho, có khu vệ sinh riêng, hiên trước, hiên sau 40 Tỉ lệ (%) 100 45,8 62,5 45,8 33,3 72,9 83,3 6 đảm bảo yêu cầu Số lớp được đánh giá chung đạt yêu 22 45,8 cầu: * Môi trường giáo dục ngoài lớp: Khảo sát 16 trường mầm non Số trường Tỉ lệ TT Nội dung đánh giá đạt yêu cầu (%) 1 Trường có đủ diện tích sân chơi và các khu vực chơi theo 9 56,2 quy định 1.1 Có sân chơi cứng với ít nhất 5-6 loại đồ chơi ngoài trời 15 93,7 thường xuyên được tu sửa, an toàn cho trẻ hoạt động. 1.2 Có sân chơi mềm đa dạng các loại đồ chơi, thiết bị phát 3 18,7 triển vận động cho trẻ. 1.3 Có vườn cổ tích đảm bảo yêu cầu 9 56,2 1.4 Có vườn rau của bé đảm bảo yêu cầu 12 75,0 2 Trường có các khu vực chơi khác như: trải nghiệm kỹ 8 50,0 năng xã hội, trải nghiệm các giác quan, khu chơi cát nước, trò chơi dân gian... 3 Mỗi khu vực có đủ thiết bị, đồ chơi phù hợp tính chất 8 50,0 hoạt động của trẻ. 4 Có sử dụng học liệu tự nhiên, sẵn có ở địa phương, an 10 62,5 toàn trong quá trình hoạt động. Số trường được đánh giá chung đạt yêu cầu: 8 50,0 * Đối với trẻ: Khảo sát 240 trẻ mẫu giáo/48 lớp qua việc trò chuyện, quan sát khi trẻ tham gia các hoạt động. Số trẻ đạt Tỉ lệ TT Nội dung đánh giá yêu cầu (%) 1 Trẻ mạnh dạn, tự tin, thân thiện và tích cực trong giao 125 52,0 tiếp và trong các hoạt động tập thể. 2 Hiểu nội dung chơi, cách chơi; Có kỹ năng sử dụng đồ 120 50,0 dùng, đồ chơi theo chức năng. 3 Biết chơi theo nhóm, có kỹ năng giao tiếp phối hợp với 85 35,4 bạn chơi, thể hiện sự tôn trọng, hợp tác, chia sẻ … 4 Có tính kỷ luật trong khi chơi và biết tự đánh giá. 95 39,6 Số trẻ được đánh giá chung đạt yêu cầu: 85 35,4 * Năng lực của giáo viên khi hướng dẫn trẻ tham gia các hoạt động: Khảo sát 48 giáo viên trực tiếp đứng lớp thông qua dự giờ, trao đổi phỏng vấn và quan sát môi trường hoạt động trong lớp. TT Nội dung đánh giá 1 Giáo viên nắm vững nguyên tắc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. 2 Giáo viên coi trọng ngôn ngữ giao tiếp, thể hiện mối quan hệ thân thiện đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo. Số GV đạt yêu cầu 48 Tỉ lệ (%) 100 28 58,3 7 3 Giáo viên có ý thức trong việc tận dụng nguyên vật liệu 24 50,0 tự nhiên, sẵn có để tạo nên đồ dùng, đồ chơi và thường xuyên thay đổi cách trang trí, sắp xếp góc chơi tạo hứng thú cho trẻ. 4 Biết tạo những điều kiện, cơ hội, tận dụng hoàn cảnh, 24 50,0 tình huống thật cho trẻ hoạt động trải nghiệm, khám phá trong môi trường an toàn. 5 Giáo viên có phương pháp, ý tưởng sáng tạo khi xây 12 25,0 dựng và tổ chức hoạt động phát huy tính tích cực của trẻ Số giáo viên xếp loại chung đạt yêu 23 47,9 cầu: Nhận xét: Qua khảo sát thực tế môi trường trong và ngoài lớp, chất lượng trẻ và giáo viên ở các lớp, tôi nhận thấy: * Về môi trường giáo dục trong lớp: 100% các lớp có đủ số lượng góc chơi phù hợp độ tuổi. Tuy nhiên số lớp giáo viên biết đặt tên cho các góc, phân chia không gian giữa các góc, bố trí màu sắc, mảng khối, vừa tầm trẻ chưa được giáo viên chú trọng, quan tâm nhiều. Việc thiết kế góc chơi theo hướng mở, linh hoạt, sáng tạo và hệ thống giá, hộp học liệu sắp xếp chưa khoa học, đồ dùng, đồ chơi làm từ nguyên vật liệu sẵn có, sản phẩm mang mầu sắc riêng của địa phương còn hạn chế. -> Số lớp được đánh giá chung đạt yêu cầu là 22/48 lớp mới đạt 45,8%. * Về môi trường giáo dục ngoài lớp học: Sân chơi mềm với các loại đồ chơi, thiết bị phát triển vận động cho trẻ còn hạn chế. Các khu vực chơi khác như: trải nghiệm kỹ năng xã hội, trải nghiệm các giác quan, khu chơi cát nước, trò chơi dân gian… chưa được các trường đầu tư, quan tâm. -> Số trường được đánh giá chung đạt yêu cầu là 8/16 trường mới đạt 50%. * Đánh giá về kỹ năng của trẻ: Đa số trẻ hào hứng tham gia chơi, biết cách chơi với đồ chơi. Song thao tác, kỹ năng chơi còn đơn giản, nghèo nàn. Sự hợp tác chơi theo nhóm chưa bền vững, nhanh chán, nhanh thay đổi do kỹ năng chơi chưa tốt. Tính kỷ luật còn hạn chế, khả năng tự đánh giá, khả năng diễn đạt khi đánh giá chưa lưu loát... -> Số trẻ được đánh giá chung đạt yêu cầu là 85/240 trẻ mới đạt 35,4%. * Về nhận thức và năng lực của giáo viên: 100% giáo viên nắm vững các nguyên tắc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Tuy nhiên giáo viên chưa có ý thức trong việc tận dụng nguyên vật liệu tự nhiên, sẵn có để tạo nên đồ dùng, đồ chơi tạo hứng thú cho trẻ. Số giáo viên có phương pháp, ý tưởng sáng tạo khi xây dựng và tổ chức hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm còn rất hạn chế. Việc tạo những điều kiện, cơ hội, tận dụng hoàn cảnh, tình huống thật cho trẻ hoạt động trải nghiệm, khám phá trong môi trường an toàn chưa được chú ý nhiều. Vì vậy mà góc chơi chưa hấp dẫn trẻ, kỹ năng chơi của trẻ chưa phong phú. -> Số giáo viên xếp loại chung đạt yêu cầu là 23/48 người mới đạt 47,9% 2.2.4. Khảo sát chất lượng đầu năm học Trước thuận lợi và khó khăn trên khi tiến hành áp dụng các biện pháp tôi khảo sát chất lượng đầu năm học như sau. 8 Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học (tháng 9/2018) T T Lớp GV chủ nhiệm Số trẻ Nội dung đánh giá Thói quen VS Thói quen Thói quen thân thể (rửa vệ sinh đi vệ sinh mặt, rửa tay, trong ăn đúng nơi chân, đi giày uống quy định, dép, đánh giữ gìn răng, trải tóc, VSMT mặc quần áo) Đ CĐ Đ CĐ Đ CĐ Qua khảo sát chất lượng đầu năm học tôi thấy kết quả chưa cao. Trẻ có thói quen đi vệ sinh đúng nơi quy định, giữ gìn vệ sinh môi trường mới đạt 60.5% %; trẻ có thói quen vệ sinh trong ăn uống mới đạt 58%; đặc biệt thói quen vệ sinh thân thể rất thấp mới đạt 54.5%. Từ thực trạng trên với vai trò và trách nhiệm là người quản lý, chỉ đạo chuyên môn tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp chỉ đạo, giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe trẻ mẫu giáo ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn đạt hiệu quả tốt hơn. 2.3. Biện pháp thực hiện. 2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo Việc xây dựng kế hoạch có tầm quan trọng đặc biệt, nó được ví như chiếc chìa khóa mở để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đã đề ra, là kim chỉ nam có tác dụng chỉ đạo cho hoạt động thực hiện theo con đường đã định sẵn. Kế hoạch cũng có thể được xem như ngọn đèn dẫn lối cho ta thực hiện công việc một cách khoa học và đi đến thành công. Cho nên kế hoạch tôi xây dựng là những mục tiêu được xác định, những nội dung cụ thể, những phương thức tốt nhất để tôi lựa chọn. Việc xây dựng kế hoạch tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, đánh giá đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, xây dựng kế hoạch phải cụ thể, bám sát vào mục tiêu đề ra và phù hợp với đối tượng trẻ, thì kế hoạch đó mới có thể thực hiện và đạt mục tiêu theo kế hoạch. Tôi chỉ đạo các nhà trường xây dựng kế hoạch lồng ghép giáo dục vệ sinh cho trẻ vào các chủ đề một cách đầy đủ, rõ ràng, đối với giáo viên các lớp 5 tuổi xây dựng kế hoạch phù hợp với lớp mình phụ trách. Ví dụ: Nội dung giáo dục vệ sinh cho trẻ vào các chủ đề. Chủ đề “Trường mầm non” - Dạy trẻ nhận biết được các món ăn tại trường có lợi cho sức khỏe. - Rèn cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân như: Lau mặt, chải răng, súc miệng, rửa tay bằng xà phòng, rửa mặt, rửa chân, mặc quần áo, đi vệ sinh đúng nơi quy định, giữ gìn vệ sinh môi trường. - Dạy trẻ nhận biết được những hành động, đồ vật trong trường lớp có thể gây hại cho sức khỏe, cho răng lợi như: Không dùng tăm nhọn xỉa răng, cầm bút, cắn vật quá nóng, quá lạnh. - Giáo dục trẻ không nghịch đất, cầm nắm chơi những vật bẩn, nguy hiểm. Chủ đề: “Bản thân” 9 - Trẻ biết được một số thức ăn tốt cho sức khỏe và răng lợi, cần ăn uống đầy đủ chất để cơ thể khỏe mạnh. - Vệ sinh thân thể: Tập cho trẻ có thói quen vệ sinh tự phục vụ trong sinh hoạt (rửa mặt sạch sẽ; chải răng sau khi ăn, trước khi đi ngủ; rửa tay trước khi ăn, khi tay bẩn và sau khi đi vệ sinh; rửa chân trước khi đi ngủ, khi chân bẩn, không đi chân đất; đầu tóc luôn sạch sẽ gọn gàng; ăn mặc quần áo phù hợp; mũi dãi chảy biết lấy khăn lau không quệt ra áo, tay áo...) - Vệ sinh ăn uống: Trẻ biết ho ngáp lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng, không ngậm lâu thức ăn trong miệng, không nhai ngồm ngoàm, nhai từ từ, nhai kỹ. - Giáo dục trẻ nhận biết một số thói quen có hại cho sức khỏe và răng miệng (mút tay, chống cằm, cắn vật cứng). - Trẻ biết giữ gìn bảo vệ sức khỏe: Nhận biết một số biểu biện khi ốm. Chủ đề “Gia đình”. - Trẻ biết được các món ăn trong gia đình có lợi cho sức khỏe và răng miệng; làm quen, nhận biết 4 nhóm thực phẩm. - Trẻ biết giúp bố mẹ một số công việc vừa sức khi trong gia đình khi có người ốm. - Dạy trẻ ăn uống sạch sẽ, ăn thức ăn đã nấu chín, uống nước đã được đun sôi, ăn chậm nhai kỹ, không làm rơi vãi thức ăn khi ăn. - Luyện tập cho trẻ một số nề thói quen, hành vi văn minh trong ăn uống, trẻ biết giúp mẹ chuẩn bị bàn ăn và sơ chế một số loại rau, quả. Chủ đề “Nghề nghiệp” - Giới thiệu cho trẻ một số nghề liên quan đến cung cấp thực phẩm, chăm sóc bảo vệ sức khỏe (Bác sỹ, bác sỹ nha khoa, cô y tá; người sản xuất ca cốc, khăn mặt, quần áo, giầy dép, xà phòng kem đánh răng, bàn chải đánh răng...) - Dạy trẻ không khóc “dũng cảm” hợp tác với bác sỹ khi được khám chữa bệnh, khám răng. - Trẻ nhận biết nơi nguy hiểm ở các khu vực sản xuất, xây dựng; mối nguy hiểm khi nghịch kim tiêm, kéo, dụng cụ y tế. - Rèn luyện cho trẻ thói quen tốt trong ăn uống, tư thế ngồi khi ăn. - Dạy trẻ tập chia thức ăn, rót nước uống. - Dạy trẻ ăn uống sạch sẽ ở cửa hàng bán đồ ăn, có hành vi văn minh ăn uống nơi công cộng. Chủ đề “Thế giới động vật” - Trẻ nhận biết được giá trị dinh dưỡng của một số món ăn, thực phẩm có nguốn gốc từ động vật và lợi ích của chúng đối với sức khỏe. - Trẻ biết giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm. - Trẻ biết và không ăn thức ăn ôi thiu và biết bảo quản thực phẩm. - Trẻ nhận biết được nguy hiểm khi trêu, chọc hoặc chơi với chó, mèo. Cẩn thận khi tiếp xúc với con vật. - Trẻ biết gọi tên và phòng trách được một số bệnh lây nhiễm từ động vật. Chủ đề “Thế giới thực vật – Tết và mùa xuân ” - Trẻ nhận biết được giá trị dinh dưỡng của một số món ăn, thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật và lợi ích của chúng đối với sức khỏe. 10 - Trẻ có một số hiểu biết các món ăn ngày tết, giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm ngày tết. - Trẻ biết khi ăn một số loại quả phải rửa sạch, gọt vỏ, bỏ hạt - Trẻ biết giữ gìn sức khỏe trong ngày Tết và khi thay đổi thời tiết. Biết ăn mặc phù hợp với thời tiết. Chủ đề “Giao thông” - Trẻ nhận biết được các phương tiện chuyên trở thực phẩm, xe cứu thương. - Dạy cho trẻ biết một số quy định an toàn cho bản thân khi tham gia giao thông, giữ gìn sức khỏe khi đi trên các phương tiện giao thông. - Trẻ biết ăn những thức ăn, nước uống có lợi cho sức khỏe khi đi tàu, xe Chủ đề “Nước và các hiện tượng tự nhiên ”. - Giáo dục trẻ biết được vai trò của nước đối với sức khỏe con người. - Dạy trẻ biết lựa chọn, ăn mặc trang phục phù hợp với thời tiết và lợi ích việc ăn mặc phù hợp đối với sức khỏe con người. - Dạy trẻ biết bảo vệ bản thân khi gặp thời tiết mưa bão, sấm chớp. Chủ đề “Quê hương, Đất nước, Bác Hồ- Trường Tiểu học” - Dạy trẻ nhận biết một số loại quả, món ăn theo vùng miền, một số món ăn của quê hương tốt cho sức khỏe. - Trẻ biết giữ gìn vệ sinh trong ăn uống; vệ sinh môi trường và những ngày lễ hội taị quê hương. - Trẻ nhận biết được một số bệnh liên quan đến ăn uống không hợp vệ sinh - Trẻ biết sử dụng đồ dùng học tập an toàn, ăn uống đầy đủ chất để có sức khỏe vào lớp 1. - Trẻ biết cách ngồi đọc, viết đúng tư thế, đọc sách ở nơi đủ ánh sáng. Như vậy việc xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ thể, chi tiết cùng với thực hiện nghiêm túc của giáo viên nó đã mang lại kết quả tốt, trong việc giáo dục vệ sinh cho trẻ. Biện pháp 2: Coi trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ CBQL, GV các nhà trường trên địa bàn huyện. Trong công cuộc đổi mới Đảng ta đã nhận định:“Giáo viên là nhân tố quyết định sự nghiệp giáo dục đào tạo và được xã hội tôn vinh” cho nên muốn có chất lượng giáo dục tốt, trước hết phải bồi dưỡng đội ngũ CBQL, giáo viên có chất lượng cao. Trong nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, thì việc bồi dưỡng chuyên môn là một hình thức hoạt động chuyên môn được tiến hành thường xuyên, liên tục của các trường học. Nhằm không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho CBQL, giáo viên, đồng thời cũng chính là nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Việc bồi dưỡng chuyên môn cho CBQL, giáo viên là yêu cầu cần thiết, là yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định chất lượng giáo dục. Nên CBQL, giáo viên phải là người nắm vững chuyên môn, giỏi nghiệp vụ để thực hiện tốt công việc của mình. Chính vì vậy tôi đã tập trung chỉ đạo bồi dưỡng chuyên môn cho CBQL, giáo viên với hình thức sau: a/ Bồi dưỡng kiến thức giáo dục vệ sinh cho trẻ. 11 Để trẻ hiểu và có kỹ năng thực hiện các thao tác vệ sinh cá nhân tốt thì trước tiên giáo viên phải có kiến thức. Vì giáo viên có kiến thức mới giáo dục, rèn kỹ năng cho trẻ một cách có hiệu quả. Vào đầu năm học ngoài kế hoạch chuyên môn được triển khai, tôi chú trọng nhấn mạnh nội dung trọng tâm giáo dục vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ. Trước khi triển khai kế hoạch tôi nghiên cứu xem nội dung nào cần triển khai kỹ, nội dung nào hướng dẫn cho giáo viên nghiên cứu tài liệu, thời gian còn lại tôi hướng dẫn một số kỹ năng thực hành thao tác vệ sinh. Ví dụ 1: Giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân bao gồm: Thói quen rửa mặt buổi sáng sau khi ngủ dậy, buổi tối trước khi đi ngủ; rửa tay bằng xà phòng và nước sạch trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn; rửa chân khi chân bẩn và trước khi đi ngủ; chải răng khi ngủ dậy và trước khi đi ngủ, sau khi ăn; chải tóc; mặc quần áo sạch sẽ gọn gàng và thường xuyên tắm gội sạch sẽ. Giáo dục trẻ khi ho ngáp, hắt hơi dùng khăn hoặc dùng tay che miệng, không khạc nhổ bừa bãi, đi đại tiện, tiểu tiện phải vào nhà vệ sinh và đúng nơi quy định. Giáo dục trẻ thói quen thường xuyên đi giày dép đúng chân, đội mũ khi đi ra ngoài nắng. Giáo dục trẻ cách rót nước vào ca cốc, thói quen uống nước đun sôi để nguội, nước các loại  rau quả. Hạn chế uống các loại nước ngọt có ga. Ví dụ 2: Thói quen vệ sinh môi trường: Giáo dục cho trẻ về tác hại do ô nhiễm môi trường gây ra cho con người như: Không khí và nước bị ô nhiễm, các động vật trung gian truyền bệnh phát triển. Vệ sinh phòng nhóm lớp, đồ dùng, đồ chơi; vệ sinh khuôn viên trong và ngoài nhà trường; giữ sạch nguồn nước và xử lí rác, nước thải; vệ sinh trong học tập, lao động, luyện tập thể dục thể thao phù hợp với lứa tuổi, giới tính để phòng tránh bệnh tật; phòng tránh tai nạn thương tích thường gặp và nâng cao sức khỏe cho trẻ. Bất cứ làm việc gì có rác, bụi ở bàn ghế, sàn nhà như cắt xé giấy, gọt bút chì, chơi trò chơi… tôi đều giáo dục trẻ biết quét dọn đem bỏ vào thùng rác, không vứt bừa bãi; biết dọn dẹp đồ dùng, cất đồ chơi cẩn thận vào nơi qui định sau khi dùng hoặc chơi xong. Giường chiếu, tủ đồ chơi, giá khăn mặt, giá để ca cốc phải luôn giữ gọn gàng, ngăn nắp.  Ví dụ 3: Dinh dưỡng, vệ sinh ăn uống như: Cải tiến bữa ăn, dinh dưỡng hợp lý. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (không kén chọn thức ăn, ăn chín, uống sôi, không ăn thức ăn ôi thiu..), biết phòng tránh ngộ độc thức ăn và các bệnh do rối loạn dinh dưỡng. Ví dụ 4: Chỉ đạo các trường thông qua buổi họp chuyên môn để đánh giá những ưu điểm và hạn chế, đồng thời đưa vào tiêu chí thi đua hàng tháng, cuối kỳ, cuối năm học. Đánh giá việc giáo viên rèn luyện, giáo dục kiến thức, kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ, cách thực hiện như thế nào? Tốt hay chưa tốt? Thực hiện có thường xuyên không? Trẻ đã có kỹ năng thói quen chưa?... Ngoài ra tôi gợi ý, hướng dẫn cho giáo viên truy cập trên mạng Intenet một số tài liệu tham khảo để nâng cao hiểu biết và có thêm kinh nghiệm dạy trẻ. Nội dung bồi dưỡng tôi triển khai vào đầu năm học, hàng tuần, hàng tháng, bồi dưỡng qua các buổi sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên 12 b/ Bồi dưỡng hướng dẫn trẻ thực hành thao tác vệ sinh. Không phải trẻ nào cũng có thói quen biết rửa tay khi bẩn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, chải răng, rửa mặt đúng qui trình. Muốn tạo được thói quen cho trẻ thì công việc này phải được hướng dẫn chính xác và duy trì thường xuyên, chủ yếu là giữ gìn vệ thân thể sạch sẽ (đầu tóc, mặt mũi, chân tay, răng miệng, quần áo…), vệ sinh đồ dùng cá nhân, vệ sinh trong ăn uống.... Ví dụ: Bồi dưỡng cho giáo viên các thao tác thực hành vệ sinh Vệ sinh mặt mũi. Hướng dẫn trẻ tự lau mặt sạch sẽ trước và sau khi ăn, khi mặt bẩn (mùa đông cần chuẩn bị khăn ấm cho trẻ lau). Vệ sinh bàn tay. Hướng dẫn trẻ biết và rửa tay đúng trình, lau tay khô sạch sẽ ( trẻ mới vào lớp, nên hướng dẫn trẻ tỉ mỉ từng thao tác rửa tay và tập cho trẻ làm quen dần với việc tự phục vụ) Vệ sinh răng miệng.Thường xuyên nhắc nhở trẻ uống nước và súc miệng sau khi ăn. Kết hợp với gia đình dạy trẻ tập chải răng ở nhà. Tuyên truyền cho phụ huynh không nên cho trẻ ăn quà vặt nhất là kẹo, bánh ngọt. Khám răng định kì phát hiện sớm răng sâu và chữa trị kịp thời. Hướng dẫn trẻ đi vệ sinh: Hướng dẫn trẻ đi vệ sinh đúng nơi quy định. Dạy trẻ cách giữ vệ sinh cho bản thân, giữ gìn nhà vệ sinh sạch sẽ. Nhắc trẻ dội nước, rửa tay sau khi đi vệ sinh. Giữ gìn quần áo, giày dép sạch sẽ. Không để trẻ mặc quần áo ẩm, ướt. Khi trẻ bị nôn hoặc đại, tiểu tiện ra quần áo hoặc khi mồ hôi ra nhiều, cần thay ngay cho trẻ. Cởi bớt quần áo khi trời nóng hoặc mặc thêm áo khi trời lạnh. Nhắc nhở phụ huynh chuẩn bị đủ tất, quần áo dự trữ để thay cho trẻ khi cần thiết. Cho trẻ mặc quần áo bằng những loại vải mềm, thấm mồ hôi. Nên dùng loại giày, dép vừa chân, mềm, mỏng, nhẹ, có quai sau và dễ cởi, tháo.          Để việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên có hiệu quả. Tôi xây dựng quy chế hoạt động chuyên môn cụ thể, nhằm chấn chỉnh nề nếp, kỹ cương trong nhà trường, đồng thời đưa vào quy chế chuyên môn và tiêu chí đánh giá thi đua hàng tháng, cuối kì, cuối năm học. Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động học và lồng ghép qua hoạt động khác. a/ Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động học. Tổ chức hoạt động học giáo dục vệ sinh chuyên biệt là cách thức, tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của trẻ. Nhằm trang bị cho trẻ những tri thức chủ yếu về vệ sinh, giúp trẻ nắm được các thao tác thực hiện trong từng hành động vệ sinh một cách chính xác, đúng đắn, làm cơ sở để trẻ thực hành luyện tập trong sinh hoạt hàng ngày. Trong quá trình tổ chức tiết học vệ sinh chuyên biệt, giáo viên chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, có thể sử dụng các dụng cụ trực quan như tranh ảnh hoặc các dụng cụ vệ sinh cá nhân (vật thật), giúp trẻ dễ dàng nắm được cách thức, quy trình thực hiện. Ví dụ 1: Thao tác rửa mặt {4}. Trước khi tiến hành cô giáo tạo hứng thú cho trẻ bài thơ: “Bé tập rửa mặt” hoặc bài hát mô phỏng động tác rửa mặt, sau đó trò chuyện giải thích với trẻ tại sao phải giữ cho mặt sạch sẽ, khi nào phải rửa mặt (khi mặt bẩn, lúc ngủ dậy, khi đi chơi về, sau bữa ăn...) 13 Hướng dẫn cách lấy nước từ vòi hoặc từ xô chậu (lấy nước nhẹ nhàng không làm ướt quần áo không té nước ra nền nhà) Hướng dẫn cách rửa mặt: + Bước 1: Xắn cao tay áo ( nếu tay áo dài) + Bước 2: Rửa tay sạch trước khi rửa mặt + Bước 3: Vò khăn trước khi vắt bớt nước. Nếu dùng chậu thì múc nước vào chậu, vò khăn vắt bớt nước. + Bước 4: Giữ khăn, chải lên hai lòng bàn tay, lau 2 mắt trước, di chuyển khăn lau sống mũi, di chuyển khăn cứ như vậy lau miệng, cằm, gấp đôi khăn lau trán từng bên má. + Bước 5: Gấp đôi khăn lần nữa hoặc vò khăn lần hai, vắt bớt nước, lau gáy, cổ lật mặt sau khăn ngoáy hai lỗ tai, vành tai, cuối cùng dùng 2 góc khăn ngoáy hai lỗ mũi. + Bước 6: Vò khăn lần cuối vắt kiệt nước phơi khăn lên giá. (Hình ảnh minh họa - Hình 1 – trang 23: Trẻ lớp mẫu giáo nhỡ thực hành thao tác rửa mặt) Ví dụ 2: Hướng dẫn trẻ rửa tay bằng xà phòng{4}. Cô trò chuyện giúp trẻ hiểu vì sao phải rửa tay sạch sẽ? khi nào cần phải rửa tay? Hướng dẫn cách lấy nước lấy nước từ vòi, hoặc từ trong xô chậu, thùng bể. Hướng dẫn thao tác vệ sinh đúng cách. + Bước 1: Làm ướt hai bàn tay, xoa xà phòng vào lòng bàn tay. Chà xát hai lòng bàn tay vào nhau. + Bước 2: Dùng ngón tay và lòng bàn tay cuốn và xoay từng ngón tay của bàn tay kia và ngược lại. + Bước 3: Dùng bàn tay này chà xát lên cổ tay, mu bàn tay kia và ngược lại. + Bước 4: Dùng ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón tay của bàn tay kia và ngược lại. + Bước 5. Chụm năm đầu ngón tay của bàn tay này cọ vào lòng bàn tay kia, bằng cách xoay đi xoay lại và ngược lại. + Bước 6. Xả tay cho sạch hết xà phòng dưới nguồn nước sạch. + Bước 7. Sau đó lau tay bằng khăn khô. Ví dụ3: Hướng dẫn trẻ chải răng, súc miệng{4}. * Hướng dẫn chải răng. Cô trao đổi trò chuyện với trẻ lợi ích của việc chải răng, khi nào cần chải răng, tại sao phải chải răng đúng cách, giáo dục trẻ không dùng tăm xỉa răng. Hướng dẫn trẻ biết các mặt của răng, sử dụng bàn chải riêng. Hướng dẫn trẻ cách chải răng: Rửa sạch bàn chải dưới vòi nước, sau đó lấy lượng kem đánh răng vừa đủ lên mặt bàn chải. + Chải mặt ngoài răng: Đặt bàn chải nghiêng 45 độ so với mặt ngoài của răng, một phần bàn chải đặt lên nướu và kẻ răng luôn để lông bàn chải tiếp xúc với răng. Chải nhẹ nhàng mặt ngoài với động tác rung và xoay tròn tại chỗ 6-10 lần cho từng đoạn (2-3 răng), sau đó nhích dần bàn chải qua phần răng kế tiếp, tiếp tục chải hết mặt ngoài từ trái qua phải. 14 + Chải mặt trong răng: Sau khi chải xong mặt ngoài thì chải đến mặt trong của răng, giống như khi chải mặt ngoài của răng, đồng thời chải theo thứ tự để không xót đoạn nào. + Chải mặt nhai răng: Đặt lông bàn chải thẳng góc với mặt nhai, hơi ép nhẹ cho lông bàn chải chui vào rãnh trũng của răng, chải từng động tác lui từng đoạn ngắn,. khi chải răng xong cần rửa sạch bàn chải, cầm bàn chải cắm vào cốc theo chiều thẳng đứng, cán ở phía dưới để bàn chải khô ráo. *Hướng dẫn trẻ súc miệng: Ngậm một ngum nước vừa phải, tốt nhất súc miệng nước muối, ngậm 1-2 phút sau đó ngửa cổ để súc sạch cổ họng (Hình ảnh minh họa - Hình 2 – trang 23. Cô giáo hướng dẫn trẻ cách chải răng) Ví dụ 4: Hướng dẫn trẻ trải tóc {4}. Đối với bé gái cầm lược bằng tay phải, chia tóc làm 2 phần, chải tóc cho suôn, rẽ ngôi và chải xang hai bên hoặc chải hất từ dưới ra sau, từ trên xuống dưới (nếu tóc dài chải dần từ ngọn đến gốc để tóc không bị rối và không làm đau đầu trẻ) Đối với trẻ trai: Cầm lược bằng tay phải chải tóc cho suôn, rẽ ngôi và trải sang hai bên hoặc chải hất ra sau, từ trên xuống dưới. Ví dụ 5: Hướng dẫn trẻ mặc quần áo{4}. Đối với áo chui đầu: Cần xác định mặt trước của áo, xỏ từng tay áo, sau đó chui từng tay áo, chui cổ áo qua đầu hoặc chui cổ áo qua đầu, chui từng tay áo. Khi cởi áo cần kéo áo lên phía đầu, rồi lần lượt cởi từng bên tay áo sau đó kéo áo qua đầu. Đối với áo có cúc, mặc lần lượt từng ống tay một, kéo 2 vạt áo bằng nhau và cài cúc, khuy, khóa, bẻ cổ áo, kéo áo phẳng phiu ngay ngắn. Khi cởi áo cởi lần lượt hết hàng cúc, khuy, khóa sau đó cởi tay áo. Mặc quần: Trẻ ngồi xuống ghế, giường để lấy thăng bằng lần lượt mặc từng ống quần sau đó đứng dậy cài móc hoặc khóa, khuy. Ví dụ 6: Hướng dẫn trẻ rửa chân đi giầy dép{4}. + Rửa chân: Hướng dẫn trẻ cách lấy nước rửa chân, lấy nước từ vòi hoặc xô, chậu, thùng. Hướng dẫn cách rửa chân: Trẻ có thể đứng, hoặc ngồi trên ghế thấp, xắn cao ống quần (nếu quần dài). Mở vòi nước hoặc dùng gáo dội nước vào hai chân từ cổ chân xuống làm ướt hai bàn chân. Dùng chân này cọ vào chân kia (tay vịn bạn hoặc vật chắc để giữ thăng bằng) rửa cổ chân, mắt cá, mu bàn chân, ngón chân, kẻ ngón chân. Dội nước sạch lau khô chân và đi dép. + Đi giày dép: Dạy trẻ phân biệt chân trái, chân phải. Đặt đôi giày dép trước mặt hướng dẫn trẻ đi từng chân trái, phải cho đúng chân nào thì xỏ giày dép đó. Hướng dẫn cách buộc dây giày bằng cách làm mẫu 2-3 lần, sau đó để trẻ tự làm và cô giúp đỡ trẻ khi cần thiết. Như vậy thông qua tiết học giáo dục vệ sinh, trẻ có những kiến thức kỹ năng cần thiết về thao tác vệ sinh đúng cách, đúng quy trình từ đó trẻ áp dụng vào hoạt động hàng ngày một cách hiệu quả hơn. b/ Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động khác. Việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục vệ sinh cho trẻ được tiến hành thông qua các hoạt động giáo dục ở trường mầm non với nhiều hoạt động phong phú, 15 đa dạng trẻ được rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thói quen và có cảm xúc tốt đối với quá trình thực hiện các hoạt động dạy học như: Hoạt động văn học, âm nhạc khám phá khoa học, thể dục.... trẻ sẽ lĩnh hội được các biểu tượng đúng về quá trình vệ sinh, hiểu được ý nghĩa của nó. Nội dung giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ thông qua hoạt động học cần phải đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lý từng hoạt động. Nội dung giáo dục phải là một bộ phận không tách rời hoạt động học tập, có tác dụng làm tăng ý nghĩa thực tiễn của hoạt động học tập gắn với cuộc sống, các nội dung lồng ghép không làm biến dạng nội dung học tập. Tránh hiện tượng khai thác hoạt động học tập một cách máy móc, quá sơ sài, mang tính hình thức. Song lưu ý tránh quá đơn giản, nhạt nhẽo làm trẻ chán hoặc quá cao so với nhận thức của trẻ, nội dung đưa ra phải thiết thực, gần gũi với trẻ. Ví dụ 1: Thông qua hoạt động Khám phá khoa học “Tìm hiểu về cơ thể của bé” tôi hướng dẫn giáo viên nội dung lồng ghép: Để cơ thể chúng ta khỏe mạnh, phát triển cân đối thì ngoài ăn uống đủ chất, các con phải làm gì? (cô để trẻ tự nói lên ý hiểu của trẻ) sau đó cô nhấn mạnh cho trẻ hiểu: Cần phải giữ gìn vệ sinh cho cơ thể luôn được sạch sẽ như: Rửa tay, rửa mặt, tắm rửa hàng ngày... hay khi dạy trẻ “Tìm hiểu các giác quan” giáo viên lồng ghép: Để bảo vệ đôi mắt các con phải làm gì? Tại sao phải làm như vậy? Làm thế nào để đôi tay, đôi chân được sạch sẽ? Ví dụ 2: Hoạt động Thơ với bài thơ “Cơ thể nói gì” (Sưu tầm) MG lớn Đôi mắt để nhìn Đừng nên vội vã Đừng nghịch bẩn nhé! Giữ đừng để bụi Tóc xinh đừng xõa Các bạn cười chê Miệng xinh để nói, Bé nhớ gọn gàng Giữ sạch cơ thể  Lễ phép hỏi –Thưa Tay bé để làm Ngày ngày nhớ chăm! Chân bước trên đường, Giúp bà, giúp mẹ Qua bài thơ trò chuyện với trẻ cơ thể các con gồm bộ phận nào? Đôi mắt giúp chúng ta những gì? Nếu mắt bị đau thì điều gì sẽ xảy ra? Để cho đôi mắt trong sáng, không bị đau, các con phải làm gì?  Miệng để làm gì? Để miệng luôn sạch sẽ thơm tho thì các con phải làm sao? Chân để làm gì? Để bảo vệ đôi chân các con phải làm gì? Muốn có mái tóc gọn gàng, sạch sẽ các con phải làm thế nào? Bàn tay mà nghịch bẩn điều gì xảy ra. Ví dụ 3: Thông qua hoạt động Âm nhạc giáo viên dạy các bài hát để cung cấp kiến thức vệ sinh cho trẻ như: Bài hát “Khám tay” giáo dục trẻ hàng ngày các con phải làm gì để tay sạch sẽ? Nếu tay bẩn phải làm gì? Hay bài hát “ Rửa mặt như mèo” giáo dục trẻ bài hát nói về chú mèo rửa mặt như thế nào? Vì sao chú mèo bị đau mắt? (cô nhấn mạnh chú mèo rửa mặt không sạch, không lấy khăn lau nên đã bị đau mắt rồi khóc). Nên hàng ngày các con không giống như chú mèo, mà biết dùng khăn lau mặt sạch sẽ để giữ gìn vệ sinh cơ thể nhé. Ví dụ 4: Thông qua hoạt động Tạo hình bài “ xé dán” giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh, không vứt giấy vụn bừa bãi, thu gom giấy vụn vào thùng rác, rửa tay sạch sẽ khi kết thúc hoạt động... Như vậy việc lồng ghép giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ, thường liên hệ thực tế gợi lại những điều trẻ đã biết, đưa ra tình huống cho trẻ giải quyết sẽ giúp 16 trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, hiểu được cách bảo giữ gìn vệ sinh, bảo vệ cơ thể tốt hơn. Biện pháp 4. Giáo dục thói quen vệ sinh thông qua hoạt động vui chơi. Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, vui chơi có vai trò quan trọng đối với việc hình thành nhân cách trẻ nói chung, giáo dục vệ sinh bảo vệ sức khỏe nói riêng. Bởi vì chơi là quá trình trẻ học cách làm người, được trải nghiệm những cảm xúc, hành vi của con người qua các vai chơi khác nhau. Do vậy những yếu tố đạo đức xuất hiện ngay trong bản thân trẻ một cách tích cực, có tác dụng hình thành động cơ đúng cho trẻ, chứ không phải lời nói trìu tượng. Nội dung giáo dục thói quen vệ sinh phụ thuộc vào chủ đề chơi, dựa vào chủ đề chơi để hình thành thói quen vệ sinh cho trẻ. Ví dụ 1: Trong giờ chơi hoạt động góc tôi gợi ý, hướng dẫn giáo viên cho trẻ chơi các trò chơi: Góc chơi phân vai: Nhóm chơi bế em trẻ chơi (rửa mặt, rửa tay, tắm cho búp bê, cho búp bê ăn, chăm sóc búp bê bị ốm, bị đau mắt, vệ sinh quần áo, mũ dép, giường chiếu cho búp bê). Nhóm chơi bán hàng, nấu ăn: Trẻ biết được những đồ chơi dùng để chơi không được bóc, cắn, ăn ... Góc chơi xây dựng: Nhắc nhở trẻ không ngồi trệt, lê la dưới đất, khi chơi tay bẩn không dụi lên mặt, mắt, mũi. Góc tạo hình: Chơi nặn, vẽ, xé dán tay bẩn không dụi lên mặt mũi, chơi xong biết thu dọn đồ dùng, đồ chơi gọn gàng, rác, giấy vụn biết thu rọn bỏ vào thùng rác. Góc khám phá khoa học: Chơi với cát, nước cô giáo hướng dẫn giáo dục trẻ chơi sạch sẽ, không vầy nước, nghịch nước làm ướt quần áo. Ví dụ 2: Thông quan hoạt động chơi ngoài trời khi cho trẻ lao động nhặt lá rụng, rọn vệ sinh sân trường, quan sát chăm sóc cây, nhổ cỏ, tưới cây. Giáo dục trẻ tay bẩn không dụi lên mắt, mặt mũi, chơi xong trẻ biết rửa tay sạch sẽ, không chơi những nơi bẩn, nơi nguy hiểm, nơi nắng to, gió lạnh. (Kết thúc hoạt động nhắc nhở trẻ xếp đồ chơi gọn gàng, rửa tay sạch sẽ) Như vậy việc lồng ghép giáo dục vệ cá nhân cho trẻ qua hoạt động vui chơi, giúp trẻ có cơ hội chuyển tri thức và kỹ năng đã biết để đạt được mục đích chơi. Cùng với sự hổ trợ của cô giáo trẻ phát triển mối quan hệ trong trò chơi bằng cách mở rộng nội dung chơi, vai chơi. Qua đó giúp trẻ kịp thời điều chỉnh hành động đúng hướng. Từ đó giao nhiệm vụ cho trẻ luyện tập vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày. Biện pháp 5: Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ thông qua mọi lúc, mọi nơi. Giáo dục thói quen vệ sinh, chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho trẻ thông qua hoạt động hàng ngày phụ thuộc vào nội dung sinh hoạt của trẻ. Muốn xác định nội dung cụ thể cần dựa vào hoạt động sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Từ đó để lựa chọn nội dung chăm sóc sức khỏe, giáo dục vệ sinh trẻ cho phù hợp . Các nội dung giáo dục thói quen vệ sinh, kỹ năng thực hành tôi hướng dẫn chỉ đạo giáo viên lồng ghép vào tất cả các hoạt động trong ngày.  17 Ví dụ 1: Trong giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp cô nhắc nhở trẻ để giày dép, đồ dùng cá nhân ngay ngắn đúng nơi quy định, ăn mặc phù hợp với thời tiết, trời lạnh quàng khăn, đi tất, mặc áo ấm, trời nóng mặc áo mỏng, ngắn tay, hay cô trò chuyện với trẻ: Buổi sáng thức dậy các con làm những việc gì phục vụ cho bản thân? + Vì sao phải làm như thế? + Các con chải răng như thế nào? Lau mặt ra sao? + Khi chải răng, lau mặt xong các con thấy thế nào? Cô để trẻ tự nói lên suy nghĩ của trẻ và sau đó cô giáo nhấn mạnh nhắc nhở trẻ làm đúng quy trình, đúng thao tác vệ sinh và vì sao phải chải răng, rửa mặt. Qua đó nhấn mạnh cho trẻ biết về tầm quan trọng của việc chải răng, rửa mặt, vệ sinh cá nhân và không quên dặn dò trẻ cách giữ gìn vệ sinh như: Chải răng, rửa mặt, rửa tay sạch sẽ dưới vòi nước chảy, móng tay, chân luôn được cắt ngắn. Để trẻ có ý thức phấn đấu cuối ngày tôi đưa nội dung giáo dục vệ sinh cá nhân vào tiêu chuẩn bé ngoan hàng ngày. (Hình ảnh minh họa - Hình 3 - trang 24: Trẻ lớp mẫu giáo lớn C sắp xếp giày dép, cô giáo hướng dẫn cất đồ dùng cá nhân). Ví dụ 2: Khi dạo chơi ngoài sân trường cô cho trẻ quan sát, phân biệt, so sánh các loại rau, củ, quả, con vật và lợi ích của chúng đối với sức khỏe con người. Cô giáo dục trẻ không đưa tay bẩn lên mắt, vứt rác ra sân trường, không đựơc chơi với vật sắc nhọn, ngậm vật bẩn, cứng, hột hạt vào mồm, rửa tay sạch sẽ trước khi vào lớp. Đồng thời hướng dẫn trẻ một số nguyên tắc chơi ngoài trời an toàn, không chơi gần nơi nguy hiểm, đồ chơi được phép chơi và không được phép chơi (đồ chơi nguy hiểm, sắc nhọn). Quan sát trò chuyện những hình ảnh tuyên truyền vệ sinh ở góc trao đổi phụ huynh các nhóm lớp, sau đó cho trẻ cùng làm mô phỏng các thao tác thực hành cùng cô, như vậy giúp trẻ ghi nhớ lâu hơn. (Hình ảnh minh họa - Hình 4 – trang 25: Trẻ lớp mẫu giáo nhỡ B vứt rác vào thùng rác) Ví dụ 3: Đối với giờ ăn cô giới thiệu cho trẻ biết thức ăn trong bữa ăn, nhắc trẻ nhai kỹ, ăn uống từ tốn, không nhai ngồm ngoàm nuốt vội, không ngậm lâu thức ăn trong miệng, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng, khi ho ngáp, hắt hơi biết lấy tay che miệng, ăn xong biết chải răng, súc miệng sạch sẽ... Giờ ngủ cô nhắc nhở trẻ đi vệ sinh trước khi ngủ, tự lấy gối, tuyệt đối không được ra ngoài khi không được phép. Hướng dẫn trẻ rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn, không vứt đồ chơi bừa bãi, chơi xong sắp xếp gọn gàng và đúng nơi quy định. Cuối tuần cho trẻ tổng vệ sinh đồ chơi, đồ dùng. (Hình ảnh minh họa - Hình 5 – trang 25: Cô giáo hướng dẫn trẻ lớp MG Nhỡ rửa tay trước khi ăn) (Hình ảnh minh họa - Hình 6 - trang 26: Giờ ăn trưa lớp mẫu giáo Bé) (Hình ảnh minh họa- Hình 7 - trang 26: Trẻ MG Nhỡ chải răng sau khi ăn) Ví dụ 4: Hoạt động chiều sau khi ngủ dậy cô cho trẻ đi vệ sinh, rửa tay, rửa mặt sạch sẽ, ngậm nước muối cho sạch miệng, giúp cô thu dọn chăn, chiếu, gối rồi vận động nhẹ nhàng chuẩn bị ăn chiều. Thời gian hoạt động chiều ngoài 18 việc ôn luyện kiến thức cũ, cô hướng dẫn cho trẻ ôn lại kỹ năng thực hành thao tác vệ sinh. Sau đó cho trẻ chuẩn bị đồ dùng cá nhân, sửa sang quần áo, giày dép chuẩn bị ra về. Giờ trả trẻ cô phối hợp với phụ huynh, lồng ghép giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ và cách phòng tránh một số bệnh thường gặp do vấn đề vệ sinh gây ra. ( Hình ảnh minh họa - Hình 8 – trang 27: Trẻ lớp Lớn C chải đầu, đi giày dép ) ( Hình ảnh minh họa - Hình 9 – trang 28: Trẻ lớp Lớn A mặc áo, cài cúc áo) Có thể nói, thông qua các hoạt động lồng ghép giáo dục vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ mọi lúc, mọi nơi giúp trẻ được luyện tập, ghi nhớ các kỹ năng, thao tác vệ sinh mà cô giáo hướng dẫn. Từ đó trẻ thực hiện đúng quy trình, đúng thao tác,giúp cho trẻ có kỹ năng thói quen vệ sinh tốt trong sinh hoạt hàng ngày. Biện pháp 6: Chỉ đạo các nhà trường làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh. Phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình có vai trò tác động vô cùng quan trọng, gia đình là trọng tâm của hoạt động kết hợp. Gia đình là nơi trẻ được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của mình. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đến với trẻ là sớm nhất. Ý nghĩa của việc phối hợp giáo dục đã được Bác Hồ chỉ ra từ lâu: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” (Trích bài nói của Bác Hồ tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục tháng 6/ 1957){6}. Chính vì vậy tôi chỉ đạo giáo viên phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, nội dung phối hợp ngoài việc phụ huynh quan tâm đến chế độ ăn uống, sinh hoạt, học tập, dạy trẻ cách giao tiếp ứng xử đúng đắn, giáo dục lòng thương yêu đối với con người và sự vật và xung quanh. Tôi nhấn mạnh nội dung phối hợp nề nếp thói quen vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ ở gia đình, trao đổi tuyên truyền cho phụ huynh biết và hiểu được kiến thức cũng như các thao tác, kỹ năng chăm sóc giáo dục vệ sinh cho trẻ, để phụ huynh rèn luyện nhắc nhở giáo dục trẻ ở nhà nhằm giúp trẻ có thói quen vệ sinh tốt. Tuyên truyền cho phụ huynh biết muốn giáo dục trẻ thì người lớn phải là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Sự gương mẫu của người lớn ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ. Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước những hành động, lời nói của người lớn. Vì vậy muốn giáo dục trẻ làm một việc gì, thì người lớn phải làm việc đó. Ví dụ 1: Tuyền truyền với phụ huynh qua giờ đón. trả trẻ, nhắc nhở trẻ đến lớp chào cô giáo, chào bạn, tạm biệt bố mẹ, hướng dẫn nhắc nhở trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định, xắp xếp giày dép gọn gàng, ăn mặc đủ ấm khi trời lạnh, trời nóng trẻ tự cởi bớt quần áo, khi về trẻ biết tự chuẩn bị quần áo, đầu tóc sạch sẽ gọn gàng, tự lấy đồ dùng cá nhân, xin phép cô giáo, chào bố mẹ, tạm biệt bạn ra về. Ví dụ 2: Tuyên truyền thông qua cuộc họp phụ huynh, tôi chỉ đạo cho giáo viên dành thời gian tuyên truyền kiến thức, cách chăm sóc vệ sinh cho trẻ ở gia đình cũng như mọi lúc, mọi nơi. 19 Ví dụ 3: Tuyên truyền qua góc trao đổi với phụ huynh của các nhóm lớp, ngoài những nội dung tuyền truyền chăm sóc giáo dục trẻ, thì nội dung tuyên truyền giáo dục thói quen vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ bằng những hình ảnh, nội dung tuyên truyền phong phú, đa dạng như: Hình ảnh về quy trình rửa tay, rửa mặt, chải răng, chải đầu, gấp quần áo, xắp xếp giày dép. Một số bài hát, bài thơ, câu chuyện giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Các nội dung tuyên truyền thường xuyên được thay đổi để làm mới hình thức tuyên truyền. Ví dụ 4: Tuyên truyền qua đài truyền thanh của trường phát vào các buổi sáng và chiều trong giờ đón, trả trẻ. Nội dung giáo dục vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ, cách phòng trách một số các bệnh thường gặp do vấn đề vệ sinh gây ra. Nội dung tuyên truyền rất thực tế với sinh hoạt cuộc sống hàng ngày nên được phụ huynh quan tâm và chú ý lắng nghe. Việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường nhằm đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như các hoạt động giáo dục của nhà trường và gia đình cùng một hướng, một mục đích, tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ đạt kết quả tốt hơn. Biện pháp 7. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá. Việc kiểm tra - đánh giá kết quả mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Một người quản lý tốt ngoài việc lên kế hoạch chỉ đạo cho giáo viên, thì công tác kiểm tra là rất quanh trọng: Bởi có kiểm tra mới nắm bắt được giáo viên thực hiện như thế nào? tốt hay chưa tốt? để biểu dương những việc làm tốt, điều chỉnh bổ xung những việc làm chưa tốt kịp thời. Nội dung kiểm tra với nhiều hình thức. Kiểm tra thường xuyên: Hàng ngày tôi kiểm tra, giám sát việc giáo viên thực hiện giáo dục, rèn luyện vệ sinh cho trẻ có thường xuyên không, kiểm tra vệ sinh trước, trong và sau khi ăn của trẻ như thế nào. Sắp xếp đồ dùng cá nhân của trẻ có gọn gàng không? Nhà vệ sinh có khô ráo sạch sẽ không? Từ đó biết được giáo viên nào thực hiện tốt, giáo viên nào thực hiện chưa tốt để tôi góp ý, chấn chỉnh ngay. Ví dụ 1: Trước khi ăn trẻ rửa tay không? Việc sắp bàn ăn, xếp chỗ ngồi cho trẻ có thoáng không? Có thuận tiện cho cô chăm sóc bữa ăn cho trẻ chưa? Trên bàn ăn của trẻ có đầy đủ khăn, đĩa đựng khăn lau tay, đựng thức ăn rơi chưa? Trong quá trình ăn trẻ có nhặt thức ăn rơi để ăn không? trẻ có bốc thức ăn trong bát mình hay bát của bạn không?... Chuẩn bị khăn lau miệng cho trẻ ăn xong được gấp vắt trên giá khăn ra sao để cho trẻ nhận được ký hiệu của mình. Trẻ có súc miệng sau khi ăn không?... Dụng cụ cho trẻ ăn uống: Bát, thìa, cốc luôn được rửa sạch, tráng nước sôi để ráo trước khi sử dụng và cuối ngày úp cất vào tủ đóng cửa để trách chuột, côn trùng bò vào. - Kiểm tra đột xuất. Ngoài việc kiểm tra thường xuyên hàng ngày, tôi kiểm tra đột xuất các nhóm lớp có thực hiện theo kế hoạch đề ra không. Kiểm tra bất kỳ ngày nào trong tuần hoặc trong tháng và bất kỳ thời điểm nào trong ngày, việc thực hiện của giáo viên ở các nhóm lớp. - Quan sát đánh giá: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan