Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
94
1
66

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380103 Người hướng dẫn khoa học : Ts. Lê Nguyên Thanh Học viên Lớp : Nguyễn Thị Ánh Tuyết : Cao học Luật, khóa 30 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Ánh Tuyết DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên TAND : Tòa án nhân dân VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ ......................................... 4 1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm tra, đánh giá chứng cứ .............................. 4 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá chứng cứ ............ 4 1.1.2. Mối quan hệ giữa kiểm tra, đánh giá chứng cứ với thu thập và sử dụng chứng cứ ........................................................................................................... 22 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm tra, đánh giá chứng cứ ............................................................................................................................ 22 1.2.1. Nguyên tắc kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự............... 22 1.2.2. Phương pháp kiểm tra, đánh giá chứng cứ ............................................. 32 1.2.3. Nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự .................. 36 1.2.4. Nội dung kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự .................. 40 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 48 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................................................................ 50 2.1. Thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự ................ 50 2.1.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ .... 50 2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ và nguyên nhân ................................................................................................. 53 2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ ............................................................................................ 71 2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ .............. 74 2.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật............................................................... 74 2.2.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ ........................................................................................................... 75 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 77 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 79 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chứng cứ là phương tiện quan trọng dùng để chứng minh tội phạm. Kiểm tra, đánh giá chứng cứ đúng quy định sẽ giúp cho quá trình chứng minh tội phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được khách quan, chính xác, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đạt được những thành quả nhất định trong quá trình giải quyết tội phạm. Tuy nhiên, án oan, sai, bỏ lọt tội phạm vẫn còn, mà một trong những nguyên nhân là do sai sót trong quá trình kiểm tra, đánh giá chứng cứ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Dẫn đến sai lầm trong việc xác định tội danh, nhầm lẫn dấu hiệu định tội, định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xuất phát từ lý do trên, việc nghiên cứu kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam là hết sức cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Do đó, tác giả chọn đề tài “Kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các giáo trình: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Chủ biên Võ Thị Kim Oanh, Nxb Hồng Đức Hội Luật gia Việt Nam; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2008 2009), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nguyễn Duy Hưng, Nguyễn Tấn Duy, Võ Thị Kim Oanh, Lê Tiến Châu, Lương Thị Mỹ Quỳnh, Nxb….; Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Chủ biên Hoàng Thị Minh Sơn, Nxb Công an nhân dân. Các sách bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Võ Thị Kim Oanh, Lê Huỳnh Tấn Duy, Lê Nguyên Thanh, Trịnh Duy Thuyên, Nguyễn Phương Thảo, Phạm Thái, Nguyễn Văn Phú, Phạm Quang Phúc, Lê Thị Thùy Dương, Trần Thảo, Lương Thị Mỹ Quỳnh, Nguyễn Thị Thùy Dung, Đinh Văn Đoàn (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Hồng Đức; Nguyễn Đức Mai, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Vinh Huy, Phạm Thanh Bình, Lê Xuân Lục, Nguyễn Thanh Mai, Nguyễn Mai Bộ, Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2019), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia sự thật. 2 Đây là những tài liệu khoa học cơ bản về luật tố tụng hình sự, trong đó có bàn về chứng cứ, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nói chung. Các sách chuyên khảo tham khảo: Nguyễn Văn Cừ (2005), Chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp; Trần Quang Tiệp (2009), Chế định định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia; Đỗ Văn Đương (2011), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các công trình này có bàn về chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên nghiên cứu theo quy định của Bộ luật tố tụn hình sự năm 2003. Các bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật: Lê Nguyên Thanh (2015), “Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 08; Trần Văn Độ (2013), “Cơ chế đánh giá chứng cứ trong trường hợp các kết luận giám định có kết quả khác nhau”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 3; Phạm Minh Tuyên (2017), “Thu thập, kiểm tra, đánh giá và nguyên tắc sử dụng chứng cứ trong luật Tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 21; Lương Hải Yến (2018), “Một số vấn đề ve72 hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 01; Võ Minh Kỳ (2018), “Một số nguyên tắc đánh giá chứng cứ trong tố tụng tranh tụng và kiến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 03. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu chung nhất về hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của nhiều chủ thể trong một giai đoạn tố tụng cụ thể mà chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo luật tố tụng hình sự Việt Nam với quy mô là một đề tài độc lập. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Việc nghiên cứu kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam nhằm bổ sung thêm vấn đề lý luận, đánh giá lại pháp luật đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiến hành các hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm tra, đánh giá chứng cứ; 3 - Phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm tra, đánh giá chứng cứ; - Đánh giá thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự; - Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quan điểm lý luận, bản chất pháp lý và thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự. - Phạm vi nghiên cứu: + Về nội dung, luận văn nghiên cứu kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. + Về không gian, thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ được nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc. + Về thời gian, thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ được nghiên cứu từ năm 2015 đến năm 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, để làm cơ sở lý luận. Quan điểm của Đảng và nhà nước về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp cũng đóng vai trò phương pháp luận để tiếp cận các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu lý thuyết về kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Phương pháp thống kê, nghiên cứu vụ án điển hình được sử dụng để nghiên cứu thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự. 6. Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận: Luận văn làm rõ bản chất pháp lý và thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đồng thời đề xuất các giải pháp bảo đảm kiểm tra, đánh giá chứng cứ đúng. 4 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ 1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm tra, đánh giá chứng cứ 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá chứng cứ 1.1.1.1. Khái niệm về kiểm tra, đánh giá chứng cứ Để có cơ sở làm rõ khái niệm kiểm tra, đánh giá chứng cứ, trước hết cần khái quát một số vấn đề nhận thức về chứng cứ trong tố tụng hình sự. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì con người có thể nhận thức các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý, nghĩa là đạt đến sự phản ánh đúng đắn những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Người phạm tội khi thực hiện tội phạm đều để lại những dấu hiệu, đặc điểm trong ý thức của con người (thủ phạm, nạn nhân, người biết việc) và trong môi trường xung quanh (hiện trường, nạn nhân…). Nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng là phải nhận thức được đầy đủ các dấu hiệu, đặc điểm mà tội phạm để lại, để có thể dựng lại bức tranh tội phạm đã xảy ra trong quá khứ. Những gì (thông tin) có ý nghĩa chứng minh các vấn đề của vụ án được coi là chứng cứ. Theo nghĩa phổ thông, từ điển Tiếng Việt giải thích: “Chứng cứ là cái được dẫn ra để làm căn cứ xác định điều gì đó là có thật”1. Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm về khái niệm chứng cứ. Theo tác giả Nguyễn Văn Cừ “Chứng cứ là những cái có thật mang những thông tin xác thực về sự kiện thực tế có liên quan đến vụ án hình sự, được thu thập theo trình tự do Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà cơ quan và người có thẩm quyền tố tụng hình sự dùng để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự”2. Tác giả Trần Quang Tiệp thì cho rằng “Chứng cứ trong vụ án hình sự là những thông tin có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng Từ điển Tiếng Việt, http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Ch%E1%BB%A9ng_c%E1%BB%A9, truy cập ngày 03/7/2021. 2 Nguyễn Văn Cừ (2005), Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội, tr.80 - 81. 1 5 đắn vụ án”3. Theo quan điểm của tác giả Đỗ Văn Đương thì “Chứng cứ trong vụ án hình sự là những thông tin xác thực về những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội được ghi nhận hoặc lưu giữ trong các tài liệu thực tế, được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà những người và cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án”4. Các quan điểm trên, tuy cách trình bày có khác nhau nhưng trên cơ sở pháp luật tố tụng hình sự, đều thống nhất chứng cứ có các thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Việc ghi nhận tính khách quan của chứng cứ như BLTTHS năm 2015 (Điều 86) là “những gì có thật”, theo quan điểm của chúng tôi nhà làm luật đã đưa ra khái niệm có ngoại diên vô hạn. Làm cho việc xác định chứng cứ khó khăn và không chính xác, gây nên sự nhận thức không thống nhất khi xác định cái gì là chứng cứ. Ví dụ, con dao dính máu được thu thập tại hiện trường theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định thì cũng được xác định là “có thật”. Tuy nhiên con dao là nguồn chứng cứ chứ không phải chứng cứ, chứng cứ là những thông tin về vết máu lưu lại trên con dao mà phải tiến hành giám định mới có thể khẳng định được những thông tin đó có liên quan hay không liên quan đến vụ án. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 vẫn chưa đưa dấu hiệu nguồn chứng cứ trong khái niệm chứng cứ. Từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Chứng cứ là những thông tin về những gì có thật, được rút ra từ nguồn chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Khái niệm kiểm tra chứng cứ: Lịch sử tố tụng hình sự chưa ghi nhận khái niệm kiểm tra chứng cứ, tuy nhiên nội dung kiểm tra chứng cứ đã được đề cập tại Điều 66 BLTTHS năm 2003 bằng cụm từ “để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan”. BLTTHS năm 2015 chính thức ghi nhận hoạt động kiểm tra chứng cứ tại Điều 108, tuy nhiên không nói rõ là hoạt động nào, mà chỉ đơn giản đặt từ “kiểm tra” bên cạnh từ “đánh giá”. Về nội dung thì vẫn giữ nguyên cụm từ “để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên Trần Quang Tiệp (2009), Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr.30. 4 Đỗ Văn Đương (2011), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr.14. 3 6 quan” đây là các thuộc tính của chứng cứ, vậy có thể hiểu đây là hoạt động kiểm tra chứng cứ. Việc quy định này không như kiểu định nghĩa hay khái niệm, mà chỉ đơn giản là xác định mục đích của việc kiểm tra chứng cứ để xác định tính hợp pháp, tính xác thực và tính liên quan. Khoa học luật tố tụng hình sự thì khái niệm này đã được nghiên cứu rất nhiều. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “kiểm tra là tra xét kỹ lưỡng xem có đúng hay không”5. Theo tác giả Trần Quang Tiệp thì “Kiểm tra chứng cứ được hiểu là việc xác định thông tin thu thập được có đáp ứng đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ hay không, có phải là chứng cứ trong vụ án hình sự không? Kiểm tra chứng cứ xác định mức độ phản ánh chính xác của chứng cứ về những vấn đề phải chứng minh, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”6. Tác giả Lương Hải Yến thì cho rằng “Hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hoạt động tư duy của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thông qua việc đối chiếu, xem xét, xác định tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ đối với vụ án, qua đó làm rõ sự việc phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”7. Theo chúng tôi, các tác giả chưa có sự phân biệt rõ giữa kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Tác giả Trần Quang Tiệp nêu quan điểm chưa thuyết phục khi khẳng định “Kiểm tra chứng cứ xác định mức độ phản ánh chính xác của chứng cứ về những vấn đề phải chứng minh…” tức là xác định giá trị chứng minh của chứng cứ. Đây là nội dung đánh giá chứng cứ chứ không phải kiểm tra chứng cứ. Tác giả Lương Hải Yến tiếp cận khái niệm tương đối đầy đủ khi xác định là hoạt động tư duy của các chủ thể có nghĩa vụ được thực hiện theo quy định của BLTTHS; biện pháp kiểm tra là đối chiếu, xem xét. Tuy nhiên tác giả cũng chưa phân biệt rõ giữa kiểm tra và đánh giá chứng cứ khi khẳng định “qua đó làm rõ sự việc phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội…”, đó cũng là nội dung đánh giá chứng cứ chứ không phải kiểm tra chứng cứ. Ngoài ra, tác giả còn xác định mục đích kiểm tra chứng cứ là “giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”. Như vậy, sẽ trùng với mục đích của quá trình chứng minh, cũng là mục đích chung của quá trình tố Từ điển Tiếng Việt, https://vtudien.com/viet-viet/dichticnary/nghia-cua-tu-ki%BB%83m%20tra, truy cập ngày 03/7/2021. 6 Trần Quang Tiệp (2009), tlđd (3), tr.130. 7 Lương Hải Yến (2018), “Một số vấn đề về hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 (kỳ I tháng 1), tr.37. 5 7 tụng. Theo chúng tôi, mục đích kiểm tra chứng cứ là chỉ nhằm xác định đó có phải chứng cứ hay không. Theo tác giả Nguyễn Văn Cừ thì “Các tài liệu đã thu được qua khâu thu thập chứng cứ chưa thể coi là chứng cứ được. Do đó, mặc dù gọi là kiểm tra chứng cứ nhưng thực chất là kiểm tra các tài liệu thu được xem có thực sự là chứng cứ hay không? Vì vậy, mọi tài liệu thu được đều phải tiến hành kiểm tra. Chỉ sau khi kiểm tra các tài liệu đó và kết quả kiểm tra xác định rằng tài liệu đó thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ, khi đó, các tài liệu thu được mới thực sự trở thành chứng cứ và làm cơ sở cho việc ra quyết định xử lý vụ án hình sự”8. Tác giả Nguyễn Văn Cừ xác định nội hàm của hoạt động kiểm tra quá hẹp khi cho rằng kiểm tra chứng cứ “là kiểm tra các tài liệu” mà bỏ qua các nguồn chứng cứ khác như vật chứng…và vô tình đồng nhất kiểm tra chứng cứ là kiểm tra nguồn chứng cứ. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “Kiểm tra chứng cứ là giai đoạn tiếp theo của quá trình chứng minh. Việc kiểm tra chứng cứ nhằm xác định lại thông tin, tài liệu thu thập được thỏa mãn các thuộc tính của nó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp hay không? Vì vậy, tất cả các chứng cứ thu thập được trong vụ án hình sự phải được chủ thể chứng minh kiểm tra một cách khách quan, toàn diện và kỹ lưỡng”9. Còn theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì “Kiểm tra chứng cứ là hoạt động xem xét, phân tích các tình tiết, tài liệu, đồ vật đã thu thập được có đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ hay không”10. Các quan điểm trên, tuy có sự diễn đạt khác nhau về khái niệm kiểm tra chứng cứ do tiếp cận ở những góc độ khác nhau, nhưng đều có điểm chung: kiểm tra chứng cứ là kiểm tra tính khách quan, liên quan và hợp pháp. Tác giả Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện cho rằng “Kiểm tra chứng cứ là việc xác định một cách thận trọng, toàn diện, khách quan mức độ tin cậy của những tình tiết thực tế đã thu thập được cũng như nguồn của nó để xác lập đúng đắn những tình tiết của vụ án”11. Còn tác giả Nguyễn Thị Thu Phương thì cho rằng “Kiểm tra chứng cứ là hoạt động nhằm xác định một cách thận trọng, toàn diện, khách quan tính chính xác của những thông tin thực tế và tính đáng tin cậy của Nguyễn Văn Cừ (2005), tlđd (2), tr.187. Trường Đại học luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Hoàng Thị Minh Sơn (Chủ biên), Nxb Công an nhân dân, tr.222. 10 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản có sửa đổi bổ sung), Chủ biên Võ Thị Kim Oanh, Nxb. Hồng Đức-Hội luật Gia Việt Nam, tr.269. 11 Hoàng Thị Sơn & Bùi Kiên Điện (1999), Mô hình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tr.24. 8 9 8 những nguồn chứng cứ đã được thu thập để xác lập một cách đúng đắn mọi tình tiết của vụ án hình sự”12. Cả hai quan điểm chỉ tiếp cận ở nguyên tắc kiểm tra một cách thận trọng, toàn diện, khách quan mà không đề cập đến nội dung kiểm tra, tức kiểm tra các thuộc tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ để khẳng định đó có phải là chứng cứ hay không. Ngoài ra, tác giả Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện chưa phân biệt rõ chứng cứ với nguồn chứng cứ, bởi vì những tình tiết thực tế đã thu thập được thực chất là nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu rằng nội dung của vấn đề muốn thể hiện việc kiểm tra chứng cứ và kiểm tra nguồn chứng cứ là hai hoạt động song song nhau, tức kiểm tra chứng cứ thì phải kiểm tra nguồn chứng cứ. Còn tác giả Nguyễn Thị Thu Phương thì đồng nhất việc kiểm tra chứng cứ tức là kiểm tra nguồn chứng cứ. Vấn đề này cũng được tác giả Trần Quang Tiệp đề cập “…Kiểm tra chứng cứ bao gồm những phần việc sau đây: Thứ nhất, phân tích, nghiên cứu nguồn chứng cứ nhằm xác định mức độ tin cậy của nó. Thứ hai, so sánh, đối chiếu nguồn chứng cứ và chứng cứ đang được kiểm tra với các nguồn chứng cứ, chứng cứ khác đã thu thập đã thu thập trong vụ án hình sự…”. Như vậy, khi tiếp cận khái niệm hầu hết các tác giả chưa chú ý phân biệt chứng cứ với nguồn chứng cứ nên cũng chưa phân biệt rõ là kiểm tra chứng cứ hay kiểm tra nguồn chứng cứ hoặc đồng nhất kiểm tra chứng cứ tức là kiểm tra nguồn chứng cứ. Như vậy, vấn đề được đặt ra là khi kiểm tra chứng cứ có bắt buộc phải kiểm tra nguồn chứng cứ hay không? hay chỉ kiểm tra tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp của nguồn chứng cứ là có thể khẳng định các thông tin được rút ra từ nguồn đó là chứng cứ?. Như đã phân tích ở phần khái niệm thì chứng cứ là những thông tin được rút ra từ nguồn chứng cứ. Hơn nữa, từ Điều 89 đến Điều 107 BLTTHS năm 2015 là thu thập nguồn chứng cứ, đồng thời quy định cách thức thu thập chứng cứ từ các nguồn đó lại13. Tức là pháp luật quy định việc thu thập các nguồn này phải đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Nếu nguồn chứng cứ không được thu thập hợp pháp thì những thông tin được rút ra từ nguồn đó cũng không có giá trị chứng minh và không được sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự14. Như vậy, kiểm tra tính hợp pháp của chứng cứ cũng có thể được xem là kiểm tra tính Nguyễn Thị Thu Phương (2015), Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr31. 13 Xem Điều 88 BLTTHS 2015. 14 Xem Khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015. 12 9 hợp pháp của nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, khi kiểm tra tính khách quan và tính liên quan thì không thể kiểm tra nguồn chứng cứ được mà phải trích xuất, chia tách (phân loại) những thông tin chứa đựng trong nguồn đó thành những bộ phận riêng biệt và kết hợp với những bộ phận đã được chia tách của những nguồn khác trong mối quan hệ hữu cơ, có cùng tính chất chứng minh một khía cạnh nào đó của những vấn đề thuộc đối tượng chứng minh để tiến hành kiểm tra. Ví dụ, con dao thu thập ở hiện trường, qua kết luận giám định con dao đó chứa đựng thông tin là dấu vân tay của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và vết máu của nạn nhân. Như vậy, con dao này đã thỏa mãn các thuộc tính khách quan, liên quan và hợp pháp. Nếu chỉ dừng lại ở đây mà chúng ta kết luận những thông tin về vết máu, dấu vân tay là chứng cứ thì chưa đủ và có thể dẫn đến những sai lầm trong việc xử lý vụ án. Bởi vì, con dao này có thể không phải là con dao đã gây ra vết thương cho nạn nhân mà chỉ bị máu của nạn nhân bắn vào. Như vậy, kiểm tra chứng cứ thì không thể không kiểm tra nguồn chứng cứ, nhưng không thể đồng nhất việc kiểm tra chứng cứ là kiểm tra nguồn chứng cứ. Đồng thời, chỉ có chứng cứ mới được dùng làm cơ sở để giải quyết vụ án, nếu không phân biệt rạch ròi giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ sẽ dẫn đến những sai lầm trong việc chứng minh vụ án. Khi tiếp cận khái niệm kiểm tra chứng cứ, đa phần các tác giả chỉ tập trung đến nội dung kiểm tra chứng cứ, tức là kiểm tra tính khách quan, liên quan và hợp pháp. Trên cơ sở những thông tin đó phải có thật, tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào ý thức của con người; có liên quan đến những vấn đề phải chứng minh và được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà ít bàn đến các vấn đề khác như chủ thể, biện pháp cũng như mục đích của việc kiểm tra chứng cứ. Trong một nguồn chứng cứ chứa đựng nhiều thông tin có thể là chứng cứ cũng có thể không phải là chứng cứ. Cho nên, để biết đâu là những thông tin chứa đựng đầy đủ những thuộc tính của chứng cứ cần trích xuất, chia tách (phân loại) những thông tin chứa đựng trong nguồn đó thành những bộ phận riêng biệt để kiểm tra. Việc kiểm tra có thể được tiến hành ngay khi thu thập được chứng cứ nhằm có cơ sở khoa học phán đoán về diễn biến của sự việc, hành động của thủ phạm. Cũng có trường hợp không thể kiểm tra ngay mà cần có thời gian để tiến hành giám định mới có thể kiểm tra hoặc kiểm tra chứng cứ qua đối chiếu với chứng cứ khác được thu thập sau đó. Kiểm tra chứng cứ là hoạt động đòi hỏi tư duy phán đoán và nhận thức cao của chủ thể thực hiện. Bởi vì, quá trình kiểm tra phải dựa vào những tri 10 thức khoa học, kiến thức chuyên môn, quy luật vận động và phát triển của sự vật hiện tượng, những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình hoạt động thực tiễn thì mới có thể tiến hành trích xuất, chia tách (phân loại). Việc kiểm tra chứng cứ được thực hiện bởi chủ thể có nghĩa vụ và chủ thể có quyền. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chủ thể có nghĩa vụ kiểm tra chứng cứ trên cơ sở quy định trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, chúng tôi không nghiên cứu hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Bởi vì, đối với tội phạm ít nghiêm trọng (trong lĩnh vực, địa bàn quản lý của mình) phạm tội quả tang, chứng cứ lý lịch người phạm tội rõ ràng thì Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS có thẩm quyền. Các trường hợp còn lại thì tiến hành điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho CQĐT có thẩm quyền. Cho nên, luận văn chỉ đề cập đến chủ thể có nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ là Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Vì vậy, người bị buộc tội có quyền lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc kiểm tra chứng cứ. Người bị buộc tội kiểm tra chứng cứ thông qua việc trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người tiến hành tố tụng kiểm tra. Người bào chữa không phải là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh tội phạm nên cũng không có nghĩa vụ kiểm tra chứng cứ. Người bào chữa có quyền kiểm tra chứng cứ trên cơ sở quyền của người bị buộc tội, tức là trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người tiến hành tố tụng kiểm tra. Đối với các chủ thể khác có lợi ích trong vụ án hoặc đại diện cho các chủ thể này như: người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì việc kiểm tra chứng cứ cũng là quyền thông qua việc trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người tiến hành tố tụng kiểm tra. Từ những phân tích trên, có thể hiểu kiểm tra chứng cứ là hoạt động tư duy của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, được thực hiện thông qua việc phân tích, so sánh, đối chiếu các thông tin thu 11 thập được từ nguồn chứng cứ để xem xét tính xác thực, liên quan và hợp pháp. Kiểm tra chứng cứ để khẳng định những gì thu thập được là chứng cứ, tạo cơ sở cho việc xác định giá trị chứng minh của chứng cứ trong việc giải quyết vụ án hình sự. Khái niệm đánh giá chứng cứ: Đánh giá chứng cứ là hoạt động nhận thức phức tạp của các chủ thể tiến hành tố tụng, diễn ra liên tục và xuyên suốt trong quá trình chứng minh. Bản chất của hoạt động đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy của những chứng chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các chủ thể tham gia tố tụng khác có quyền chứng minh trong vụ án hình sự. Việc đánh giá chứng cứ là để xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ và của toàn bộ chứng cứ. Tức là xác định chứng cứ thu thập được chứng minh khía cạnh nào của những vấn đề phải chứng minh, đồng thời xác định số lượng chứng cứ cần và đủ để làm sáng tỏ những tình tiết phải chứng minh cũng như sự thật khách quan của vụ án. Điều 50 BLTTHS năm 1988 quy định về đánh giá chứng cứ là “xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm”. Đến BLTTHS năm 2003 cụm từ này vẫn giữ nguyên tại khoản 2 Điều 66, đồng thời bổ sung tại khoản 1 cụm từ “việc xác định chứng cứ thu thập được phải đủ để giải quyết vụ án hình sự”. Khoản 1 Điều 108 BLTTHS năm 2015 chỉ thêm cụm từ “kiểm tra”, các nội dung khác giữ nguyên. Như vậy, qua những lần sửa đổi, bổ sung BLTTHS quy định về đánh giá chứng cứ rất chung chung, mang tính chất mô tả hay nghĩa vụ phải thực hiện chứ không như kiểu khái niệm hay định nghĩa. Theo quan điểm của chúng tôi, việc đưa ra khái niệm đánh giá chứng cứ trong BLTTHS là cần thiết, giúp cho người tiến hành tố tụng dễ dàng nhận định những đặc điểm bản chất của hoạt động đánh giá chứng cứ, tạo điều kiện đánh giá chính xác giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như toàn bộ các chứng cứ đã thu thập được, giúp việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và chính xác. Theo tác giả Trần Quang Tiệp thì “Đánh giá chứng cứ là một quá trình logic xác định giá trị chứng minh của chứng cứ, ý nghĩa và cách thức sử dụng nó nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự”15. Theo tác giả Đỗ Văn Đương thì “Đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự là hoạt động tư duy logic, xử lý và tích 15 Trần Quang Tiệp (2009), tlđd (3), tr.132. 12 tụ thông tin của người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở những hiểu biết của mình về những tài liệu đã thu thập được, dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật, ý thức pháp luật, niềm tin nội tâm để xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như cả hệ thống chứng cứ trong vụ án hình sự, được thực hiện trong suốt quá trình tố tụng nhằm làm sáng tỏ toàn bộ sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”16. Tác giả Nguyễn Văn Cừ cho rằng “Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy của người tiến hành tố tụng nhằm xác định giá trị chứng minh của những chứng cứ đã thu thập được”17. Tác giả Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện cho rằng “Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy của các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân dựa trên cơ sở pháp luật, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm, nhằm xác định mức độ tin cậy, giá trị của từng chứng cứ cũng như tổng thể của nó để rút ra những kết luận phù hợp về vụ án và các tình tiết cụ thể của vụ án”18. Theo tác giả Lương Hải Yến thì “Hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hoạt động tư duy của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thông qua việc đối chiếu, xem xét, xác định tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ đối với vụ án, qua đó làm rõ sự việc phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”19. Tác giả Nguyễn Ngọc Duy quan điểm “Đánh giá chứng cứ (trong tố tụng hình sự) là hoạt động của người tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm xem xét, kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ, tạo cơ sở vững chắc cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự”20. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm, người bào chữa và những người khác có thẩm quyền trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm xác định tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp của từng chứng cứ và giá trị chứng minh của tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được trong vụ hình sự”21. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì “đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic biện chứng của Đỗ Văn Đương (2006), tlđd (4), tr.122. Nguyễn Văn Cừ (2005), tlđd (2), tr.198. 18 Hoàng Thị Sơn & Bùi Kiên Điện (1999), tlđd (11), tr.24. 19 Lương Hải Yến (2018), tlđd (7), tr.37. 20 Nguyễn Ngọc Duy (2013), Phương pháp nghiên cứu đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự và kỹ năng áp dụng pháp luật hình sự, Nxb. Hồng Đức, tr.32. 21 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), tlđd (9), tr.224. 16 17 13 người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đi sâu vào bản chất của các hiện tượng trên cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm nhằm xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh của chứng cứ”22. Như vậy có thể thấy rằng, có rất nhiều quan điểm về đánh giá chứng. Tuy có sự diễn đạt khác nhau, có tác giả nêu chủ thể, cơ sở và phương pháp đánh giá trong khái niệm, tuy nhiên các tác giả đều thống nhất đánh giá chứng cứ là xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ và toàn bộ chứng cứ đã thu thập để giải quyết đúng đắn vụ án. Xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ, tức là xem xét chứng cứ đó chứng minh vấn đề nào của Điều 85 BLTTHS năm 2015. Một chứng cứ có thể chứng minh nhiều vấn đề quy định tại Điều 85 hoặc một vấn đề được quy định tại Điều 85 sẽ do nhiều chứng cứ chứng minh. Cho nên, ngoài việc đánh giá chứng cứ đó chứng minh vấn đề gì của Điều 85, còn phải xem xét tầm quan trọng của chứng cứ đó như thế nào, có phải là chứng cứ duy nhất bắt buộc phải có hay có thể thay thế bằng chứng cứ khác. Bởi vì, trong một vụ án không phải lúc nào cơ quan tiến hành tố tụng cũng thu thập được đầy đủ các chứng cứ chứng minh những vấn đề được quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015. Do đó, khi đánh giá phải xác định tầm quan trọng của chứng cứ đó để xem xét việc có thể thay thế bằng chứng cứ khác nhằm chứng minh những vấn đề mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong trường hợp đó là chứng cứ duy nhất không thể thay thế được thì đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 248 BLTTHS năm 2015, đồng thời các hoạt động tố tụng đối với toàn bộ vụ án cũng như đối với bị can sẽ chấm dứt. Ví dụ, quá trình khám nghiệm hiện trường không thu thập được hung khí gây án. Như vậy, khi đánh giá chứng cứ, cần thiết phải đánh giá xem hung khí gây án có phải là chứng cứ duy nhất mà không có chứng cứ nào khác để thay thế hay không. Bởi vì, khi thiếu chứng cứ chứng minh một trong các trường hợp quy định tại Điều 85 nhưng vẫn truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được chứng cứ đó thì không trả hồ sơ để điều tra bổ sung23. Hoặc trong trường hợp tuổi của bị can, bị cáo có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án và không có tài liệu nào để xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của tài liệu đó thì kết Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (10), tr.272. Xem khoản 5 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP, ngày 22 tháng 12 năm 2017, quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 22 23 14 luận giám định tuổi của bị can, bị cáo là chứng cứ duy nhất mà không có chứng cứ nào có thể thay thế được. Sau đó các chứng cứ sẽ được tổng hợp lại trong mối quan hệ hữu cơ, có cùng tính chất để đánh giá, xem xét đã đủ làm sáng tỏ một vấn đề nào đó của Điều 85 hay chưa. Sau khi các vấn đề phải chứng minh được quy định tại Điều 85 được sáng tỏ, thì tất cả các chứng cứ được tập hợp thành hệ thống chứng cứ để nhận thức về chân lý của vụ án. Hệ thống chứng cứ là một thể thống nhất, trong đó xác định được đầy đủ chứng cứ về sự thật khách quan của vụ án. Sự thống nhất của hệ thống chứng cứ thể hiện ở việc tất cả các chứng cứ phải phù hợp với nhau (trong trường hợp có mâu thuẫn thì sự mâu thuẫn đó phải được lý giải) và cùng phản ánh sự thật khách quan về vụ án. Đánh giá tổng hợp chứng cứ là một vấn đề khó khăn và phức tạp, phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện của từng vụ án cụ thể. Cũng như năng lực, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của người tiến hành tố tụng. Luật của một số nước đưa ra nguyên tắc “vượt qua nghi ngờ hợp lý” để làm tiêu chuẩn xác định có tội hoặc không có tội. Theo đó, khi đánh giá chứng cứ để xác định một người phạm tội và phải chịu hình phạt thì không còn có thể đặt ra một giả thuyết nào về sự vô tội của họ, nếu còn sự nghi ngờ mà không lý giải được thì đồng nghĩa với họ không phạm tội. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam không quy định chứng minh đến đâu và cần bao nhiêu chứng cứ là đủ để làm sáng tỏ sự thật vụ án, mà chỉ quy định nguyên tắc mang tính định hướng là xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Thực tế, việc đánh giá tổng hợp chứng cứ có trường hợp cùng một hồ sơ vụ án, cùng một chứng cứ, nhưng Tòa án cấp sơ đánh giá khác dẫn đến quyết định giải quyết vụ án khác với quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp giám đốc thẩm. Thiết nghĩ, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nên nhấn mạnh, trường hợp có sự nghi ngờ về tội của người bị buộc tội giải quyết theo hướng có lợi cho họ và kết luận họ vô tội. Từ những vấn đề nhận thức trên, có thể hiểu đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic biện chứng của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trên cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm nhằm xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ và của toàn bộ các chứng cứ của vụ án. Chứng cứ thu thập được phải đủ để giải quyết vụ án. Nếu có sự nghi ngờ về tội của người bị buộc tội thì kết luận vô tội và giải quyết theo hướng có lợi cho họ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan