CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1.
Khái quát về tài chính doanh nghiệp
Khi nhắc đến tài chính trong doanh nghiệp, người ta thường liên hệ nó với công
việc kế toán, tức là ghi sổ sách, tính toán sổ sách và lập các biểu bảng báo cáo tài
chính. Đó là nhận thức sai lầm về khái niệm tài chính.
Tài chính hiểu theo nghĩa thông thường thì đó là những hoạt động huy động vốn,
sử dụng, phát triển và quản lý tiền vốn. Có nghĩa là doanh nghiệp cần tích luỹ vốn, sau
đó đầu tư vào hoạt động sản xuất và kinh doanh làm số tiền đó tăng lên – tức là tiền
sinh lời. Từ đó, doanh nghiệp có được lợi nhuận thông qua sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, nhà doanh nghiệp không được hưởng toàn bộ lợi nhuận này mà phải phân phối
một phần cho ngân sách Nhà nước, nhân viên và cả nội bộ doanh nghiệp. Những hoạt
động nói trên đã hình thành nên tài chính doanh nghiệp.
Dưới góc độ quản lý thì tài chính là hoạt động huy động, sử dụng, sắp xếp phân
phối vốn và là các mối quan hệ kinh tế mà nó thể hiện. Vốn có nghĩa là giá trị tạm ứng
và giá trị quay vòng trong tái sản xuất xã hội. Bản chất của vốn là yêu cầu không
ngừng tăng trưởng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình đầu
tư nguồn nhân lực, vật lực và quá trình sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ. Trong
quá trình luân chuyển hàng hoá tuần hoàn lặp đi lặp lại của doanh nghiệp thì vận động
có vai trò thúc đẩy đó là vận động của tiền vốn. Tài chính tức là vận động vốn doanh
nghiệp và là toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
phản ánh dưới hình thức giá trị.
1.2.
Tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm về tài sản ngắn hạn
Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi doanh nghiệp được coi là một tế bào của nền
kinh tế với nhiệm vụ chính là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra
các sản phẩm hàng hóa, lao động, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Để tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố đó là: đối tượng lao động,
tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp
các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hóa lao vụ, dịch vụ. Khác với tư liệu lao động,
đối tượng lao động (nhiên nguyên vật liệu, thành phẩm…) chỉ tham gia vào một chu
1
kỳ sản xuất kinh doanh và luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được
chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm
được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động gọi là tài sản
ngắn hạn.
Mặc dù có nhiều khái niệm khái niệm khác nhau về tài sản ngắn hạn, tuy nhiên
trong khóa luận thì tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp được hiểu là: “Những tài sản
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp có thời gian thu hồi vốn hoặc thanh toán trong
vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.” Trong
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản ngắn hạn được thể hiện ở các bộ phận
tiền mặt, các chứng khoán có tính thanh khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ tồn
kho. Giá trị các loại tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thương mại thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý sử dụng hợp lý các loại tài sản
ngắn hạn có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của
doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải biết rõ số lượng, giá trị
mỗi loại tài sản ngắn hạn là bao nhiêu cho hợp lý và đạt hiệu quả sử dụng cao.
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp được phân bố đủ trong các khâu, các công
đoạn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, ổn định,
tránh sự lãng phí và tổn thất vốn do ngừng sản xuất, không làm ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán và đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản. Do đó, tài sản ngắn hạn
trong doanh nghiệp có đặc điểm như sau:
Thứ nhất, tài sản ngắn hạn thường luân chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ
kinh doanh. TSNH như tiền mặt, hàng tồn kho thường được sử dụng trong một chu kỳ
kinh doanh, khác với TSDH như máy móc, thiết bị, nhà xưởng thường sử dụng trong
nhiều năm. Chính đặc điểm này đòi hỏi doanh nghiệp phải duy trì một lượng vốn ngắn
hạn nhất định để đầu tư, mua sắm TSNH.
Thứ hai, tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng được khả năng
thanh toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên TSNH chuyển hoá từ dạng vật chất sang tiền
tệ dễ dàng mà không chịu chi phí lớn sẽ gây khó khăn cho quản lý chống thất thoát.
Thứ ba, tài sản ngắn hạn là một bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và
luân chuyển không ngừng trong mọi giai đoạn, quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra thường xuyên và liên tục.
Thứ tư, tài sản ngắn hạn chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và thay đổi hình
thái vật chất ban đầu để tạo thành thực thể sản phẩm. Điều này có nghĩa là mọi chi phí
phát sinh trong quá trình biến đổi tài sản ngắn hạn thành thành phẩm đã được tính vào
giá thành của thành phẩm trước khi đưa ra thị trường.
2
Thang Long University Library
Thứ năm, không như đầu tư vào tài sản cố định, các khoản đầu tư cho tài sản
ngắn hạn thường có thể hủy bỏ bất cứ thời điểm nào mà không phải chịu chi phí tốn
kém. Điều đó có được là vì tài sản ngắn hạn phải đáp ứng nhanh chóng sự biến động
của doanh số và sản xuất. Đổi lại, tài sản ngắn hạn thường phụ thuộc nhiều vào những
dao động mang tính mùa vụ và chu kỳ trong kinh doanh.
Thứ sáu, lợi nhuận đầu tư vào TSNH là lợi nhuận gián tiếp.
1.2.2. Phân loại tài sản ngắn hạn
TSNH trong doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú. Mỗi loại có tính chất và
công dụng khác nhau, vì thế nó được phân loại khác nhau tuỳ theo mục đích và tiêu
chí áp dụng. Ta có thể phân loại theo một số cách sau:
1.2.2.1. Phân loại dựa vào vai trò trong quá trình sản xuất kinh doanh:
Căn cứ vào vai trò của tài sản ngắn hạn theo cách phân loại này TSNH bao gồm:
Tài sản ngắn hạn dự trữ:
Nguyên vật liệu chính hay bán thành phẩm mua ngoài: là những loại nguyên vật
liệu khi tham gia vào sản xuất sẽ cấu tạo nên thực thể sản phẩm.
Nguyên vật liệu phụ: là những loại vật liệu giúp cho việc hình thành sản phẩm
làm cho sản phẩm bền đẹp hơn.
Nhiên liệu: là những loại dự trữ cho sản xuất có tác dụng cung cấp nhiệt lượng
cho quá trình sản xuất như than, củi, xăng dầu…
Phụ tùng thay thế: là giá trị của những chi tiết, phụ tùng, linh kiện máy móc thiết
bị dự trữ phục vụ cho việc sửa chữa hoạc thay thế những bộ phận của máy móc thiết bị
sản xuất, phương tiện vận tải…
Vật liệu đóng gói: là những vật liệu dùng để đóng gói trong quá trình sản xuất
như giấy gói, hộp…
Công cụ lao động nhỏ có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và
giữ nguyên hình thái vật chất nhưng giá trị nhỏ, không đủ tiêu chuẩn tài sản cố định.
Tài sản ngắn hạn sản xuất:
Tài sản sản xuất đang chế tạo (bán thành phẩm) là khối lượng sản phẩm đang còn
trong quá trình chế tạo, đang nằm trên dây chuyền công nghệ hoặc đã kết thúc một vài
quy trình chế biến nhưng còn phải chế biến tiếp mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh
(thành phẩm). Giá trị phần tài sản ngắn hạn trong quá trình sản xuất có bao gồm những
chi phí thực tế đã phát sinh trong kỳ được phân bổ dần vào giá thành sản phẩm như:
chi phí sửa chữa lớn, nghiên cứu thử sản phẩm…
3
Tài sản ngắn hạn lƣu thông:
Bao gồm: thành phẩm sản xuất xong nhập kho được dự trữ cho quá trình tiêu thụ;
hàng hóa phải mua từ bên ngoài; hàng gửi bán, thành phẩm đơn vị đã xuất gửi cho
khách hàng mà khách hàng chưa chấp nhận, tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển, khoản phải thu, đầu tư chúng khoán.
1.2.2.2. Tài sản ngắn hạn phân loại theo hình thái biểu hiện
Theo cách phân tích này TSNH đƣợc chia thành:
-
Tiền và các khoản tương đương tiền
Vốn bằng tiền là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, được hình thành
trong quá trình bán hàng và trong các mối quan hệ thanh toán. Vốn bằng tiền bao gồm:
Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển và đá quý, vàng bạc... Hoạt
động kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định. Tiền là loại
tài sản có tính thanh khoản cao nhất, có thể dễ dàng chuyển đổi thành các tài sản khác
hoặc thanh toán các nghĩa vụ tài chính cho doanh nghiệp, vì vậy nó cho phép doanh
nghiệp duy trì khả năng chi trả và phòng tránh rủi ro thanh toán. Đây cũng là loại tài
sản không hoặc gần như không sinh lợi nên việc nắm giữ tiền mặt ở mức độ nào đó để
vừa đảm bảo an toàn, vừa tiết kiệm vốn là một câu hỏi quan trọng cần nhà quản trị tài
chính doanh nghiệp giải quyết, không quá nhỏ để đảm bảo khả năng thanh toán nhưng
cũng không quá lớn dẫn đến lãng phí, ứ đọng vốn của doanh nghiệp.
Các khoản tương đương tiền gồm các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn có thời
hạn thu hồi hoặc đáo hạn không quá ba tháng có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành
một lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền kể từ
ngày mua khoản đầu tư đó tại thời điểm báo cáo.
-
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng giá trị các khoản đầu tư ngắn hạn (sau khi trừ
đi dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư ngắn hạn), bao gồm đầu tư chứng khoán
ngắn hạn, cho vay ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn khác. Các khoản đầu tư ngắn hạn
trong khoản mục này có thời hạn thu hồi vốn dưới một năm hoặc một chu kì kinh
doanh, không bao gồm các khoản đầu tư ngắn hạn có thời hạn thu hồi hoặc đáo hạn
không quá ba tháng, kể từ ngày mua khoản đầu tư đó tại thời điểm báo cáo đã được
tính vào “các khoản tương đương tiền”. Khi có nhu cầu thanh toán mà tiền không đáp
ứng đủ thì doanh nghiệp sẽ bán các chứng khoán này.
-
Các khoản phải thu ngắn hạn
Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc không thể thiếu. Các
doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay tiền hàng lúc bán mà nhận
4
Thang Long University Library
sau một thời gian xác định mà hai bên thoả thuận hình thành nên các khoản phải thu
của doanh nghiệp.
Việc cho các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng thương
mại. Với hình thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở
nên giàu có nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Khoản phải thu giữ một vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý không cân đối
giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn thậm chí dễ dẫn
đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
-
Hàng tồn kho
Hàng tồn kho trong khái niệm này không có nghĩa là hàng hóa bị ứ đọng, không
bán được mà nó bao gồm toàn bộ hàng hóa vật liệu, nguyên liệu đang tồn tại ở các
kho, quầy hàng hoặc trong xưởng. Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến
đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Trên thực tế, hàng tồn
kho bao gồm hàng trăm loại khác nhau, tuy nhiên, có thể phân thành các nhóm chính
sau: nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, vật liệu bổ trợ, nhiên liệu, thành
phẩm, sản phẩm dở dang và bán thành phẩm, công cụ dụng cụ.
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất, kinh doanh
thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá
trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất
lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bình thường. Tuy nhiên nếu
doanh nghiệp dự trữ quá nhiều sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn thậm chí nếu sản phẩm
khó bảo quản có thể bị hư hỏng, ngược lại nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản
xuất kinh doanh bị gián đoạn, các khâu tiếp theo sẽ không thể tiếp tục được nữa đồng
thời với việc không hoàn thành được kế hoạch sản xuất. Do đó để đảm bảo cho sự ổn
định sản xuất, doanh nghiệp phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ
thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà mức dự trữ an toàn khác nhau.
-
Tài sản ngắn hạn khác
Bao gồm các khoản tạm ứng chưa thanh toán, chi phí trả trước, chi phí chờ kết
chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý và các khoản thế chấp, kí cược, kí quỹ ngắn hạn khác
tại thời điểm báo cáo.
Trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ các khoản mục trên trong
bảng cân đối kế toán. Thường thì trong doanh nghiệp chỉ có các khoản chính như: tiền,
khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác... Vậy nếu doanh nghiệp xác
5
định được cách phân loại phù hợp với mình thì sẽ có ưu thế hơn trong việc bảo tồn,
quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn.
Tóm lại, tài sản ngắn hạn là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. TSNH tồn tại ở tất cả các khâu, các lĩnh vực trong
quá trình sản xuất kinh doanh, đóng vai trò không thể thiếu đối với các doanh nghiệp
dù đó là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ. Tài sản ngắn hạn là điều kiện để doanh nghiệp đi vào hoạt động. Do đó, việc
quản lý và sử dụng hiệu quả các TSNH là rất quan trọng đối với việc hoàn thành
mục tiêu chung của doanh nghiệp.
1.3.
Nội dung quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.3.1. Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Quản lý tài sản ngắn hạn là nhiệm vụ tất yếu để duy trì tình hình kinh doanh ổn
định của doanh nghiệp. Các cách thức quản lý tài sản gồm: chính sách quản lý cấp tiến
(mạo hiểm), chính sách quản lý thận trọng và chính sách dung hòa.
Chính sách quản lý cấp tiến (mạo hiểm)
Hình 1.1 Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn cấp tiến
TSngắn hạn
NVngắn hạn
TSdài hạn
NVdài hạn
Chính sách quản lý cấp tiến là chính sách quản lý tài sản theo phương thức lấy ngắn nuôi
dài. Khi doanh nghiệp theo đuổi chính sách quản lý cấp tiến tức là dùng một phần nguồn vốn
ngắn hạn để đầu tư vào tài sản dài hạn, dùng nguồn vốn huy động với chi phí thấp, thời gian
ngắn để đầu tư vào những tài sản có giá trị lớn và thời gian thu hồi dài. Doanh nghiệp duy trì
TSNH ở mức thấp. Cụ thể tiền dự trữ ở mức nhỏ, hàng tồn kho dự trữ ở mức thấp, thắt chặt
chính sách tín dụng thương mại.
Nhược điểm của chính sách này là sẽ ảnh hưởng đến cân bằng tài chính của doanh
nghiệp, nó làm cho cân bằng tài chính kém bền vững và mất an toàn do tài sản dài hạn dùng
cho mục đích lâu dài lại được đầu tư từ nguồn vốn ngắn hạn chỉ dùng cho mục đích tạm thời
trong thời gian ngắn. Với chính sách này, DN cân bằng rủi ro theo chính sách nợ thận trọng.
6
Thang Long University Library
Nhưng ưu điểm của chính sách cấp tiến là giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm các chi phí sử dụng
vốn vì nguồn vốn ngắn hạn tốn ít chi phí huy động hơn so với nguồn vốn dài hạn. Chính sách
này có khả năng sinh lời cao nhất.
Chính sách thận trọng
Hình 1.2. Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn thận trọng
TSngắn hạn
NVngắn hạn
TSdài hạn
NVdài hạn
Ngược lại với chính sách cấp tiến là chính sách thận trọng, chính sách này buộc
doanh nghiệp duy trì TSNH ở mức cao bao gồm hàng tồn kho dự trữ ở mức lớn, mở
rộng chính sách tín dụng thương mại, tiền dự trữ ở mức lớn. Khi doanh nghiệp theo
đuổi chính sách thận trọng tức là DN đã sử dụng một phần nguồn vốn dài hạn để tài
trợ cho TSNH.
Ưu điểm của chính sách này an toàn hơn chính sách cấp tiến nhờ vào sự tài trợ
lâu dài và ổn định của nguồn vốn dài hạn, khả năng thanh toán và bán hàng cho khách
hàng luôn được đảm bảo trước những biến động bất thường. Tuy nhiên nhược điểm
của chính sách là nguồn vốn dài hạn là những nguồn có chi phí cao hơn nguồn vốn
ngắn hạn mà doanh nghiệp lại dùng đầu tư cho tài sản ngắn hạn. Điều này sẽ làm giảm
khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn, thời gian quay vòng tiền dài.
Chính sách quản lý dung hòa
Hình 1.3. Chính sách quản lý dung hòa
TSngắn hạn
NVngắn hạn
TSdài hạn
NVdài hạn
7
Với chính sách quản lý dung hòa thì toàn bộ các tài sản ngắn hạn sẽ được tài trợ
bằng nguồn vốn ngắn hạn và tất cả các tài sản dài hạn sẽ được tài trợ bởi nguồn vốn
dài hạn.
Với chính sách quản lý này vốn lưu động ròng = 0 và gần như doanh nghiệp sẽ
không gặp phải rủi ro nào, do đó sự cân bằng về thời gian giữa tài sản và nguồn vốn.
Tuy nhiên, hầu như không một doanh nghiệp nào có thể áp dụng được chính sách này.
1.3.2. Quản lý các bộ phận của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.3.2.1. Quản lý tiền và các khoản tương đương tiền trong doanh nghiệp
Quản lý tiền mặt và các khoản tương đương tiền chính là quản lý tiền mặt, tiền
gửi ngân hàng và các loại chứng khoán khả thị, tài sản có tính thanh khoản cao, dự
phòng... Việc xác định lượng tiền mặt dự trữ chính xác giúp cho doanh nghiệp đảm
bảo khả năng thanh toán, đối phó với các biến cố bất thường xảy ra, đầu tư sinh lời, tận
dụng được những cơ hội đặc biệt, cải thiện vị thế của doanh nghiệp. Dựa vào thực
trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp, cùng với khả năng phân tích và phán đoán
những biến động cũng như xu thế của thị trường tài chính thì từ đó ta có thể tóm tắt hệ
thống quản trị tiền mặt qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.4. Hệ thống quản trị tiền mặt
Thu tiền
Đầu tư các khoản
ngắn hạn
Tiền mặt
Kiểm soát
thông qua
báo cáo
thông tin
Chi tiền
Nhìn sơ đồ trên, ta thấy được tổng quát trong hệ thống quản trị tiền mặt bởi cũng
như các tài sản khác, tiền mặt là một hàng hóa nhưng đây là hàng hóa đặc biệt-một
hàng hóa có tính lỏng nhất định. Bất kì doanh nghiệp nào cũng gặp phải rủi ro của việc
giữ tiền: dự trữ quá ít hoặc dự trữ quá nhiều.
- Quản lý hoạt động thu – chi tiền mặt
Một nguyên tắc tất yếu trong quản lý thu chi tiền mặt là “tăng thu – giảm chi”,
tức là đẩy nhanh tốc độ thu hồi những khoản tiền nhận được và giảm tốc độ chi, kéo
dài thời gian chi những khoản tiền cần trả. Nguyên tắc này cho phép doanh nghiệp duy
8
Thang Long University Library
trì mức chi tiêu tiền mặt trong nhiều giao dịch kinh doanh ở mức thấp để có nhiều tiền
cho đầu tư.
Tăng thu là doanh nghiệp tích cực thu hồi được các khoản nợ từ khách hàng để
sớm có vốn quay vòng đầu tư vào các hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo thông
suốt quá trình giao dịch kinh doanh. Có nhiều cách để làm tăng tốc độ thu hồi tiền
nhưng để chọn được phương thức hiệu quả, trước tiên nhà quản lý cần so sánh giữa lợi
ích và chi phí tăng thêm của các phương thức thu – chi sao cho lợi ích đem lại là lớn
nhất đối với doanh nghiệp. Ta có thể đánh giá dựa trên công thức:
B = t *TS *I *(1-T)
C = (C2 – C1) * (1-T)
Trong đó:
B : lợi ích tăng thêm khi áp dụng phương thức đề xuất (luôn luôn tính theo năm)
C : phần chi phí tăng thêm khi áp dụng phương thức đề xuất
t : thời gian thay đổi khi áp dụng phương thức đề xuất (theo ngày)
Đối với phương thức thu tiền: là số ngày được rút ngắn
Đối với phương thức chi tiền: là số ngày tăng thêm
TS: quy mô chuyển tiền theo năm
I: lãi suất đầu tư theo ngày
T: Thuế suất thuế TNDN
C1 : Chi phí của phương thức đang sử dụng
C2 : Chi phí của phương thức đề xuất
Theo mô hình trên nhà quản lý có thể đưa ra quyết định như sau:
>
: chuyển sang phương thức đề xuất vì lợi ích ròng thu được cao hơn chi
phí tăng thêm
<
: giữ nguyên phương thức hiện tại do phương thức mới không đem lại
lợi ích lớn hơn mà doanh nghiệp còn phải bỏ ra chi phí để bù đắp cho hình thức này
=
: bàng quan với cả hai phương thức do áp dụng phương thức đề xuất
không mang lại lợi ích tăng thêm cho doanh nghiệp.
Cùng với việc tăng thu, doanh nghiệp còn có thể thu được lợi nhuận bằng cách
giảm chi để có càng nhiều tiền nhàn rỗi để đầu tư sinh lời càng tốt. Thay vì dùng tiền
thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng, nhà quản lý tài chính nên hoãn việc thanh toán
nhưng chỉ trong phạm vi thời gian mà các chi phí tài chính, tiền phạt thấp hơn những
lợi nhuận do việc chậm thanh toán mang lại. Hình thức thông dụng nhất được các
9
doanh nghiệp sử dụng phổ biến rộng rãi đó chính là chậm trả lương. Cụ thể hơn, doanh
nghiệp sẽ thiết lập một mô hình chi trả lương dựa trên những thông tin thống kê về
thời gian biểu lĩnh lương của nhân viên trong công ty. Đây là một trong những khoản
tiền mà doanh nghiệp có thể mang đi đầu tư mà không hề mất chi phí.
- Mô hình xác định mức dự trữ tối ưu Baumol
William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quyết định số dư tiền mặt kết
hợp giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Mô hình này được thiết lập nhằm xác
định số dư tiền mặt mục tiêu với các giả dịnh là nhu cầu về tiền của doanh nghiệp là
ổn định, không có dự trữ tiền mặt cho mục đích an toàn, doanh nghiệp chỉ có 2 hình
thức dự trữ: tiền mặt và chứng khoán khả thị, không có rủi ro trong đầu tư chứng
khoán.
Đồ thị 1.5. Mô hình xác định mức dự trữ tối ƣu
Chi phí giữ tiền mặt
TC
OC
TrC
Tiền mặt
C*
+ Chi phí giao dịch (TrC) = số lần bán chứng khoán * chi phí giao dịch 1 lần
TrC = (T/C) * F
T : nhu cầu dữ trữ tiền trong năm = CFout – CFin
+ Chi phí cơ hội (OC) = tồn quỹ trung bình * lãi suất chứng khoán
OC = (C/2) * k
C : mức dự trữ tiền
k : lãi suất đầu tư chứng khoán/năm
Tổng chi phí = Chi phí giao dịch + chi phí cơ hội = TrC + OC
Tại mức dự trữ tiền mặt tối ưu (C*) chi phí giao dịch và chi phí cơ hội đạt giá
trị nhỏ nhất: C*= √
10
Thang Long University Library
Mô hình quản lý tiền mặt Miller Orr
Trong mô hình Baumol, các dòng thu chi tiền mặt được xác định là cố định. Điều
này không phù hợp với thực tế hiện nay, các dòng thu chi tiền mặt thay đổi thường
xuyên. Vì vậy, mô hình Miller Orr được chọn để khắc phục những hạn chế đó. Merton
Miller và Daniel Orr phát triển mô hình tồn quỹ với luồng thu và chi phí biến động
hàng ngày. Lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất đến giới hạn cao nhất. Nếu
lượng tiền mặt ở dưới mức thấp thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng
tiền mặt ở mức dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt
quá mức giới hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến.
Đồ thị 1.6. Đồ thị biểu diễn các mức biến động tiền mặt theo thời gian
Nhìn vào sơ đồ trên, mức tồn quỹ dao động lên xuống và không thể dự toán
được cho đến khi đạt được giới hạn trên. Doanh nghiệp sẽ can thiệp bằng cách sử dụng
số tiền vượt quá mức so với mức tồn quỹ thiết kế để đầu tư vào các chứng khoán hay
đầu tư ngắn hạn khác và lúc đó, cân đối tiền trở về mức thiết kế.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cân đối tiền lại
tiếp tục dao động cho đến khi tụt xuống dưới giới hạn dưới là lúc doanh nghiệp phải có
sự bổ sung tiền để đáp ứng cho những hoạt động cần thiết, chẳng hạn việc bán một
lượng chứng khoán để đáp ứng nhu cầu tiền của mình.
Mô hình này cho phép quản lý ngân quỹ ở mức độ hoàn toàn tự do. Khi mức tồn
quỹ thực tế lớn hơn mức tồn quỹ thiết kế nhưng khi nó chưa đạt được giới hạn trên thì
doanh nghiệp chưa cần mua chứng khoán. Ngược lại, khi mức tồn quỹ thực tế nhỏ hơn
so với mức tồn quỹ theo thiết kế nhưng chưa đạt đến giới hạn dưới thì doanh nghiệp
cũng chưa cần phải bán chứng khoán để bổ sung ngân quỹ .
Theo mô hình Miller-orr, khoảng dao động của mức cân đối tiền phụ thuộc vào
ba yếu tố được chỉ ra trong công thức sau:
11
Khoảng dao động tiền mặt được xác định bằng công thức sau:
Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau:
Mức tiền mặt theo
thiết kế
=
Mức giới hạn
dưới
+
Khoảng dao
động tiền mặt
Như vậy, nếu doanh nghiệp duy trì được mức cân đối tiền theo thiết kế, doanh
nghiệp luôn tối thiểu hoá được tổng chi phí liên quan đến tiền trong ngân quỹ là chi
phí cơ hội (lãi suất) và chi phí giao dịch.
Trên thực tế, việc sử dụng mô hình Miller-Orr rất dễ dàng, gồm các bước sau:
+ Bước 1: Doanh nghiệp phải xác định cho mình mức tồn quỹ tối thiểu (giới hạn
dưới).
+ Bước 2: Doanh nghiệp phải ước tính được phương sai của thu chi ngân quỹ (được
xác định bằng cách dựa vào số liệu thực tế của một quý trước đó để tính toán).
+ Bước 3: Xác định lãi suất và chi phí giao dịch của một lần mua bán chứng khoán.
+ Bước 4: Tính giới hạn trên và mức tồn quỹ theo thiết kế. Và đưa ra các quyết định
quản lý.
Sau khi đã dự toán được nhu cầu tiền và xác định được mức tồn quỹ tối ưu hay
với khoảng biến động mức tồn quỹ (theo mô hình Miller-Orr). Từ đó, lập ra kế hoạch
quản lý ngân quỹ cho tháng tới. Đây là mô hình được rất nhiều doanh nghiệp áp dụng.
1.3.2.2. Quản lý hàng tồn kho trong doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thì dự trữ hàng tồn kho
là yếu tố quan trọng. Hàng tồn kho giúp cho chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được hoạt động liên tục, không bị gián đoạn. Hơn nữa những biến động ngày
một gia tăng của thị trường thì hàng hóa dự trữ, tồn kho giúp cho doanh nghiệp giảm
thiệt hại một cách đáng kể. Tuy nhiên, nếu dự trữ quá nhiều sẽ làm tăng chi phí lưu
kho, chi phí bảo quản và gây ra ứ đọng vốn. Lợi ích của việc dự trữ hàng tồn kho giúp
cho doanh nghiệp chủ động trong sản xuất và năng động trong mua nguyên vật liệu dự
trữ, chủ động trong hoạch định sản xuất và tiếp thị, hưởng chiết khấu thương mại,
hưởng lợi khi giá tăng. Vì vậy, doanh nghiệp cần xác định một mức tồn kho hợp lý
12
Thang Long University Library
trong từng thời điểm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cho doanh
nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Các quyết định đầu tư vào hàng tồn kho: xác định nhu cầu dự trữ hàng tồn kho,
quyết định tăng giá trị lưu kho, quyết định giảm giá trị lưu kho.
Trong rất nhiều hàng tồn kho, không phải loại nào cũng có vai trò như nhau. Để
quản lý hàng tồn kho hiệu quả người ta phải phân loại hàng hoá dự trự thành các
nhóm theo mức độ quan trọng của chúng trong dự trữ bảo quản. Kĩ thuật phân tích AB-C sẽ giúp doanh nghiệp phân loại và đầu tư có hiệu quả hơn cho việc quản lý hàng
tồn kho. Giá trị hàng tồn kho trong năm được xác định bằng cách lấy nhu cầu của từng
loại hàng tồn kho nhân với chi phí tồn kho đơn vị. Tiêu chuẩn để xếp các loại hàng tồn
kho vào các nhóm là:
Nhóm A: Bao gồm các loại hàng hóa có giá trị hằng năm từ 60-80% tổng giá trị tồn
kho nhưng về số lượng chỉ chiếm 15-20% tổng số hàng tồn kho.
Nhóm B: Bao gồm các loại hành hóa có giá trị hằng năm từ 25-30% tổng giá trị tồn
kho nhưng về sản lượng chúng chiếm 30-50% tổng số hàng tồn kho.
Nhóm C: Gồm những loại hàng có giá trị hằng năm nhỏ, giá trị hàng năm chỉ chiếm 510% tổng giá trị hàng tồn kho. Tuy nhiên về số lượng chúng lại chiếm 30-55% tổng số
hàng tồn kho.
Đồ thị 1.7. Các nhóm hàng tồn kho theo phân loại ABC
Mô hình phân tích theo A-B-C giúp doanh nghiệp đầu tư có trọng tâm khi mua
hàng, chẳng hạn ta phải dành nhiều tiềm lực để mua hàng hóa nhóm A hơn so với
nhóm C. Ngoài ra doanh nghiệp có thể xác định các chu kì kiểm toán khác nhau. Đối
với hàng tồn kho thuộc nhóm A, việc tính toán phải được thực hiện thường xuyên,
thường là mỗi tháng 1 lần. Đối với hàng hóa thuộc nhóm B, sẽ tính toán trong chu kì
13
dài hơn thường là 1 quý 1 lần. Đối với hàng hóa thuộc nhóm C thường tính toán 6
tháng 1 lần
Doanh nghiệp cũng có thể áp dụng mô hình EOQ trong quản lý hàng tồn kho
(The Economic Order Quantity Model): mô hình xác định lượng hàng hóa tối ưu (Q*)
sao cho tổng chi phí lưu kho là nhỏ nhất.
Giả định của mô hình:
+ Nhu cầu về hàng tồn kho là ổn định
+ Không có biến động về giá, không có mất mát trong khâu dự trữ
+ Chỉ phát sinh 2 loại chi phí: chi phí dự trữ và chi phí đặt hàng
+ Thời gian từ khi đặt hàng đến khi nhận hàng là cố định
+ Không có thiếu hụt xảy ra nếu đơn hàng đúng hẹn
Xây dựng mô hình:
+ Lượng hàng tồn kho bình quân = Q/2
+ Chi phí đặt hàng = Số lần đặt hàng * Chi phí cho một lần đặt hàng =
*O
+ Chi phí dự trữ = Mức lưu kho trung bình * Chi phí lưu kho đơn vị =
*C
+ Tổng chi phí = Chi phí đặt hàng + Chi phí dự trữ
Đồ thị 1.8. Mô hình EOQ
+ Mức dự trự tối ưu (Q*) = √
Khoảng thời gian dự trữ tối ưu (T*): Là khoảng thời gian kể từ khi có mức dự trữ
tối ưu Q* cho đến khi số lượng này hết và được đáp ứng bởi số lượng Q* của đơn đặt
hàng mới. Ta có: T* =
với S là lượng hàng cần đặt.
14
Thang Long University Library
Về mặt lý thuyết ta giả định khi nào lượng hàng kỳ trước hết mới nhập kho lượng
hàng mới nhưng trên thực tế hầu như không bao giờ như vậy. Nhưng nếu đặt hàng quá
sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho. Sẽ có rủi ro nếu hàng không về kịp kho,
doanh nghiệp sẽ dự trữ thêm để hạn chế rủi ro tức là đặt hàng khi trong kho vẫn còn
hàng. Do vậy các doanh nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt hàng mới hợp lý
Điểm đặt hàng = Thời gian chờ đặt hàng * Số lượng sử dụng trong ngày
Có dự trữ an toàn : Điểm đặt hàng = t *
+ Qan toàn
1.3.2.3. Quản lý khoản phải thu ngắn hạn trong doanh nghiệp
Khoản phải thu là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa
hoặc dịch vụ. Trong kinh doanh hầu hết các doanh nghiệp đều có các khoản phải thu
nhưng với mức độ khác nhau, từ mức không đáng kể đến mức không thể kiểm soát
nổi, gây ảnh hưởng xấu cho hoạt động kinh doanh của doanh ngiệp. Vì thế quản lý
KPT là một nội dung quan trọng trong quản lý TSNH của doanh nghiệp. Quản lý KPT
liên quan đến đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Nếu không bán chịu hàng hóa, dịch vụ
doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội bán hàng, làm giảm lợi nhuận. Song nếu bán chịu hay
bán chịu quá nhiều sẽ kéo theo chi phí quản lý KPT tăng lên, làm tăng nguy cơ nợ phải
thu khó đòi và rủi ro không thu được nợ.
Mặt khác, quản lý khoản phải thu liên quan chặt chẽ đến việc tổ chức và bảo tồn
TSNH của doanh nghiệp. Việc tăng khoản phải thu từ khách hàng kéo theo việc gia
tăng các khoản chi phí quản lý nợ, chi phí thu hồi nợ, chi phí trả tiền vay để đáp ứng
nhu cầu TSNH thiếu do khoản bị khách hàng chiếm dụng. Tăng khoản phải thu làm
tăng rủi ro đối với doanh nghiệp dẫn đến tình trạng nợ quá hạn khó đòi hoặc không thu
hồi được do khách hàng vỡ nợ gây mất khoản phải thu của doanh nghiệp, ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần quản lý
các KPT một cách hợp lý và linh hoạt.
Nội dung chính sách tín dụng thƣơng mại của doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp quyết định cấp tín dụng thương mại cho một khách hàng, nó
phải thực hiện một số thủ tục đối với việc cấp tín dụng thương mại này và thu hồi các
khoản nợ. Như vậy chính sách tín dụng thương mại của một doanh nghiệp là tập hợp
các nguyên tắc quy định việc cấp tín dụng thương mại cho khách hàng của doanh
nghiệp đó. Cụ thể là doanh nghiệp cần quan tâm tới các điều kiện tín dụng, phân tích
tín dụng và chính sách thu hồi các khoản nợ.
15
Các điều kiện tín dụng
Các điều kiện tín dụng là những điều kiện quy định doanh nghiệp bán hàng hoá
và dịch vụ bằng cách thu tiền ngay hay cho khách hàng chịu. Các điều kiện tín
dụng bao gồm ba yếu tố: thời kỳ tín dụng thương mại, chiết khấu tiền mặt và
công cụ tín dụng thương mại. Đối với mỗi ngành nghề nhất định, các điều kiện tín
dụng thường được chuẩn hoá, tuy nhiên ở các ngành nghề khác nhau các điều kiện tín
dụng cũng khác nhau. Khi quy định điều kiện tín dụng là “2/10 net 30” có nghĩa là sau
30 ngày, khách hàng sẽ phải trả toàn bộ số tiền mua hàng nhưng nếu người
này trả trong vòng 10 ngày đầu, họ sẽ được hưởng một khoản chiết khấu là 2% giá trị
hàng hoá.
Phân tích tín dụng
Khi xem xét việc cấp tín dụng cho khách hàng, doanh nghiệp phải cố gắng phân
biệt giữa khách hàng nào sẽ trả tiền và khách hàng nào sẽ không trả tiền (vỡ nợ).
Doanh nghiệp thường sử dụng một số thủ tục để xác định được khả năng khách hàng
không trả tiền. Quá trình này gọi là phân tích tín dụng.
Quyết định bán chịu
-
Mô hình nền tảng
NPV =
- CFo
Với: CFo = VC * S * ( ACP/365 ngày)
Và CFt = (S * (1- VC) – S * BD – CD) * (1 – t)
Trong đó:
CFt : dòng tiền sau thuế mỗi giai đoạn
k : tỷ lệ thu nhập yêu cầu
CFo : giá trị doanh nghiệp đầu tư vào khoản phải thu khách hàng
VC : chi phí biến đổi tính theo tỷ lệ % dòng tiền vào
S/365 : dòng tiền vào (doanh thu) dự kiến mỗi ngày
ACP: thời gian quay vòng khoản phai thu TB
BD: Tỷ lệ nợ xấu/ Doanh thu
CD: Dòng tiền ra tăng thêm của bộ phận tín dụng
t: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Quyết định: NPV > 0 : cấp tín dụng
NPV = 0 : bàng quan
NPV < 0 : không cấp tín dụng
16
Thang Long University Library
Lựa chọn phương pháp bán trả ngay và bán trả chậm
-
Chỉ tiêu
Không cấp tín dụng
Cấp tín dụng
Số lượng bán (Q)
Qo
Q1
Giá bán (S)
Po
P1
ACo
AC1
100%
h1
Thời gian nợ
0
t
Tỷ lệ chiết khấu theo kỳ
0
Rt
Chi phí sản xuất bình quân (AC)
Xác suất thanh toán
Ta có: NPVo = Po * Qo – ACo * Qo
NPV1 =
- AC1 * Q1
Quyết định: NPVo > NPV1 => Không cấp tín dụng
NPVo < NPV1 => Cấp tín dụng
NPVo = NPV1=> Bàng quan
-
Quyết định cấp tín dụng và thông tin rủi ro
Chỉ tiêu
Không sử dụng
Có sử dụng
Số lượng bán (Q)
Q1
Q2 = Q1 * h
Giá bán (P)
P1
P1
AC1
AC2
Chi phí thông tin rủi ro
0
C ( CV, FV)
Xác suất thanh toán
H
100%
Thời gian nợ
T
t
Tỷ suất chiết khấu (theo kỳ)
Rt
Rt
AC (Chi phí chưa có thông tin rủi ro)
Ta có: NPV1 =
NPV2 =
– AC1 * Q1
– AC1 * Q1 * h – C
Quyết định: NPV1 > NPV2 => Không sử dụng thông tin rủi ro
NPV1 < NPV2 => Sử dụng thông tin rủi ro
17
NPV1 = NPV2=> Bàng quan
1.4.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.4.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Theo các chuyên gia và các nhà kinh tế đánh giá thì hiệu quả được coi là một
thuật ngữ để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu của chủ thể và chi
phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong điều kiện nhất định. Như vậy, hiệu quả
phản ánh kết quả thực hiện các mục tiêu hành động trong quan hệ với chi phí bỏ ra và
hiệu quả được xem xét trong bối cảnh hay điều kiện nhất định, đồng thời cũng được
xem xét dưới quan điểm đánh giá của chủ thể nghiên cứu.
Sử dụng tài sản hiệu quả có nghĩa là với một số lượng tài sản nhất định đầu tư
vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ mang lại lợi nhuận cao nhất với chi phí thấp
nhất. Điều này được hiểu trên hai khía cạnh:
- Với số tài sản hiện có, doanh nghiệp có thể sản xuất ra số lượng sản phẩm lớn
hơn với chất lượng tốt hơn, giá thành hạ để tăng lợi nhuận.
- Đầu tư thêm tài sản một cách thích hợp nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng
doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng
của tài sản.
Như vậy, có thể hiểu: "Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản ngắn hạn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và mục tiêu
tăng trưởng với chi phí tối thiểu trong một khoảng thời gian nhất định".
Hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp được lượng hóa thông qua hệ thống
các chỉ tiêu về lợi nhuận, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển, khả năng hoạt động.
Thông qua các chỉ tiêu đó có thể phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được và chi
phí bỏ ra ban đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí bỏ ra càng ít so với kết
quả đạt được thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao.
1.4.2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong
doanh nghiệp
Quá trình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp là quá trình hình thành
và sử dụng vốn kinh doanh. Ngày nay các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế
thị trường yêu cầu về tài sản ngắn hạn là rất lớn, có thể coi TSNH là nhựa sống tuần
hoàn của doanh nghiệp. Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ là hiệu
18
Thang Long University Library
quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
là yêu cầu mang tính bắt buộc và thường xuyên đối với doanh nghiệp.
1.4.2.1. Xuất phát từ mục đích của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu xuyên
suốt là tối đa giá trị doanh nghiệp. Để đảm bảo mục tiêu này, doanh nghiệp thường
xuyên phải đưa ra và giải quyết tập hợp các quyết định tài chính ngắn hạn và dài hạn.
Quản lý và sử dụng hiệu quả TSNH là một nội dung trọng tâm trong các quyết định tài
chính ngắn hạn và là nội dung có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh
nghiệp. Với bản chất và định hướng mục tiêu như trên, doanh nghiệp luôn luôn tìm
mọi biện pháp để tồn tại và phát triển. Xuất phát từ vai trò to lớn đó khiến cho yêu cầu
doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và tài sản ngắn hạn nói
riêng là một yêu cầu khách quan, gắn liền với bản chất của doanh nghiệp.
1.4.2.2. Xuất phát từ vai trò quan trọng của tài sản ngắn hạn
Đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động kinh
doanh thì cần phải có vốn để hình thành tài sản phục vụ hoạt động sản xuất kinh
doanh. TSNH là một thành phần quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh. Trong khâu dự trữ và sản xuất, TSNH đảm bảo cho sản xuất của
doanh nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản
xuất. Trong lưu thông, TSNH đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
được liên tục, nhịp nhàng và thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển
TSNH lớn khiến cho công việc quản lý và sử dụng TSNH luôn diễn ra thường xuyên,
hàng ngày. Với vai trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển TSNH, nâng cao
hiệu quả sử dụng TSNH trong doanh nghiệp là một yếu tố tất yếu.
1.4.2.3. Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH tức là có thể tăng tốc độ luân chuyển TSNH,
rút ngắn thời gian TSNH nằm trong lĩnh vực dự trữ, sản xuất và lưu thông, từ đó giảm
bớt số lượng TSNH chiếm dụng, tiết kiệm TSNH trong luân chuyển. Tăng tốc độ luân
chuyển TSNH còn có ảnh hưởng tích cực đến việc hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có đủ vốn thoả mãn nhu cầu sản xuất và hoàn thành nghĩa
vụ nộp thuế cho Nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước.
1.4.2.4. Xuất phát từ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ở doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân khiến một doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu
quả thậm chí thất bại trên thương trường. Có thể có các nguyên nhân chủ quan, nguyên
nhân khách quan. Tuy nhiên một nguyên nhân phổ biến vẫn là việc sử dụng vốn không
19
hiệu quả trong việc mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Điều này dẫn đến
việc sử dụng lãng phí TSNH, tốc độ luân chuyển TSNH thấp, mức sinh lợi kém và
thậm chí có doanh nghiệp còn gây thất thoát, không kiểm soát được TSNH dẫn đến
mất khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán. Trong hệ thống các
doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước do đặc thù chịu ảnh hưởng nặng
nề của cơ chế bao cấp trước đây, có kết quả kinh doanh yếu kém mà nguyên nhân chủ
yếu là do sự yếu kém trong quản lý tài chính nói chung và quản lý tài chính ngắn hạn
nói riêng. Ở nước ta, để hoàn thành đường lối xây dựng một nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo, yêu cầu phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Xét từ góc độ
quản lý tài chính, yêu cầu phải nâng cao năng lực quản lý tài chính trong đó chú trọng
nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH là một nội dung quan trọng không chỉ đảm bảo lợi
ích riêng của doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa chung đối với nền kinh tế nước nhà.
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.4.3.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Do đặc điểm của TSNH có tính thanh khoản cao, cho nên việc sử dụng TSNH là
lựa chọn đánh đổi giữa khả năng sinh lời với tính thanh khoản. Vì thế, để phân tích
khả năng thanh toán của doanh nghiệp thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
Vốn lƣu động ròng:
Vốn lưu động ròng là phần chênh lệch giữa TSNH và nợ ngắn hạn. Đây là một
chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, chỉ
tiêu này cho biết doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
không. VLĐR có thể = 0, > 0, < 0 phụ thuộc vào chính sách quản lý của doanh nghiệp.
Vốn lưu động ròng = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
Ý nghĩa của VLĐR trong doanh nghiệp:
Nếu VLĐR > 0, trường hợp này TSNH > NNH, điều này cho thấy TSNH được
tài trợ bởi NNH và một phần của nguồn vốn dài hạn, do đó đây là trường hợp cân bằng
tài chính an toàn nhất do doanh nghiệp không gặp phải tình trạng khó khăn về khả
năng thanh toán cho các khoản NNH.
Nếu VLĐR = 0, tức là TSNH = NNH. Điều này có nghĩa là toàn bộ TSNH của
DN được tài trợ bởi nguồn NNH. Trường hợp này, DN cũng không gặp phải vấn đề về
khả năng thanh toán trong ngắn hạn nhưng cân bằng tài chính kém bền vững hơn
trường hợp trên.
Nếu VLĐR < 0, nghĩa là TSNH < NNH. Điều này chứng tỏ DN đã sử dụng một
phần NNH để tài trợ cho các TSDH. Đây là một vấn đề hết sức nguy hiểm bởi nó làm
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -