TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------
VỎ VĂN CẦN
MSSV: 1853801013018
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÀNH
CHÍNH VIỆT NAM
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2022
Người hướng dẫn: ThS. Lê Thị Mơ
TP.HCM – Năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Kháng nghị phúc thẩm trong Luật
Tố tụng hành chính Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi
thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Lê Thị Mơ. Những thông tin, tài liệu trong
Khóa luận tốt nghiệp được thu thập một cách khách quan, trung thực, số liệu minh
chứng có nguồn gốc rõ ràng.
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày
Tháng
Tác giả
Vỏ Văn Cần
năm 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHÁNG NGHỊ
PHÚC THẨM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM ............ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố tụng
hành chính Việt Nam ............................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm .................................................................................................. 9
1.1.3. Ý nghĩa ................................................................................................... 13
1.2. Quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị phúc
thẩm
.................................................................................................................. 16
1.2.1. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm ................................................... 16
1.2.2. Chủ thể có quyền kháng nghị phúc thẩm ............................................... 20
1.2.3. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm ............................................................ 22
1.2.4. Trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm ................................................ 25
1.2.5. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phúc thẩm ....................................... 28
1.2.6. Hậu quả của kháng nghị phúc thẩm ...................................................... 35
Kết luận chương 1 ................................................................................................... 38
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH VIỆT NAM VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ......................................................................................................... 39
2.1. Thực tiễn thực hiện quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam về
kháng nghị phúc thẩm ........................................................................................ 39
2.1.1. Những kết quả đã đạt được trong thực tiễn thực hiện quy định của Luật
Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm .................................. 39
2.1.2. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện quy định
của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm .................. 44
2.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện quy định
của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm ............... 51
2.2.1. Nguyên nhân về pháp lý ......................................................................... 52
2.2.2. Nguyên nhân khác .................................................................................. 62
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện về kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố tụng
hành chính Việt Nam .......................................................................................... 64
2.3.1. Kiến nghị về mặt pháp lý ........................................................................ 64
2.3.2. Kiến nghị về mặt thực tiễn ..................................................................... 74
Kết luận chương 2 ................................................................................................... 82
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố tụng hành chính là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong
đó xét xử phúc thẩm được xem là giai đoạn quan trọng trong việc sửa chữa những sai
lầm trong giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm. Cụ thể, Tòa án cấp trên sẽ kiểm tra tính
hợp pháp, tính có căn cứ của các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm nhằm
đảm bảo rằng việc xét xử của Tòa án tuân thủ đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật tố tụng hành chính.
Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý đồng thời đây cũng là nghĩa vụ
của Viện kiểm sát được xác định tại Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
(Luật số 63/2014/QH13) ngày 24/11/2014, Điều 25 và 42 Luật Tố tụng hành chính
2015 (Luật số 93/2015/QH13) ngày 25/11/2015 sửa đổi, bổ sung 2019 ngày
26/11/2019, là một trong những hoạt động chủ yếu của Viện kiểm sát trong hoạt động
kiểm sát tư pháp. Kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát là một trong những hành
vi tố tụng làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm được quy định cụ thể tại Chương
XIII Luật Tố tụng hành chính năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2019 1. Đây là quyền
năng đặc biệt được Nhà nước trao riêng cho Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính. Có thể thấy, khi thực hiện
công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính là cơ sở pháp lý để khắc phục vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động tư pháp của tòa án cấp sơ thẩm, bảo
đảm cho hoạt động tư pháp được thực hiện một cách nghiêm minh, công bằng, dân
chủ và khách quan, đảm bảo pháp luật được thực hiện thống nhất, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, quyền lợi của Nhà nước, góp phần xây dựng
một nền tư pháp vững mạnh và độc lập, thông qua đó nâng cao vai trò, vị thế của
ngành Kiểm sát trong hệ thống tư pháp, tạo niềm tin của nhân dân đối với pháp luật.
Tuy nhiên, qua công tác thực hiện kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính của
Viện kiểm sát vẫn còn những bất cập, và hạn chế. Về mặt quy định pháp luật, việc
chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về căn cứ kháng nghị phúc thẩm là một hạn chế
đáng lưu ý. Bên cạnh đó, cách quy định thời điểm tính thời hạn phúc thẩm thiếu rõ
ràng, thiếu cụ thể cũng đã gây ra không ít khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật...
Những điều này đã phần nào làm giảm tính hiệu quả của hoạt động kháng nghị phúc
thẩm theo thủ tục tố tụng hành chính.Về mặt thực tiễn, nhiều bản án, quyết định chưa
có hiệu lực pháp luật của Tòa án sơ thẩm có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp
1
Xem Điều 203 Luật Tố tụng hành chính.
2
thời để ban hành kháng nghị phúc thẩm, tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm
sát còn thấp, chất lượng của kháng nghị phúc thẩm còn hạn chế nhiều quyết định
kháng nghị thiếu căn cứ nên bị Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng nghị…Thực trạng
này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như việc gửi hồ sơ chậm của Tòa án,
Kiểm sát viên còn thiếu kinh nghiệm, năng lực chuyên môn…
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả cho rằng nghiên cứu về kháng nghị
phúc thẩm là một yêu cầu cấp thiết, mang tính thời sự, phù hợp với nhu cầu cải cách
tư pháp của Việt Nam. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm trong
Luật Tố tụng hành chính Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình, nhằm đánh giá
đầy đủ về những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, từ đó đề ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện
kiểm sát.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm hiểu cho thấy, chế định về kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục tố
tụng hành chính Việt Nam chưa nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu từ các tác
giả. Một vài công trình nghiên cứu có thể kể đến như:
- Lê Thị Mơ, Trần Quốc Văn (2022), “Bàn về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng
nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục phúc thẩm vụ án hành chính”, Tạp chí Kiểm sát,
số 03/2022. Trong bài viết, các tác giả trình bày phân tích các quy định của Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị của Viện kiểm
sát trong quá trình phúc thẩm vụ án hành chính. Trên cơ sở đó, bài viết nêu lên một
số hạn chế, bất cập trong quy định của Luật Tố tụng hành chính về việc thay đổi, bổ
sung, rút kháng nghị của Viện kiểm sát và đề ra một vài giải pháp hoàn thiện.
- Nguyễn Việt Phương (2018), Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố
tụng hành chính, Luận văn Thạc sĩ Luật học. Trong luận văn của mình, tác giả tập
trung vào hai vấn đề chính: Lý do, căn cứ kháng nghị và các yếu tố tác động đến việc
ban hành kháng nghị; Thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Qua kết quả
nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn góp phần giúp Viện kiểm sát khắc phục được
những khó khăn, vướng mắc của quy định pháp luật và giải quyết được các vấn đề
thực tiễn có ảnh hưởng đến quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của
Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao khả năng nhận dạng, phát hiện vi phạm, ban hành kháng
nghị phúc thẩm có căn cứ, chất lượng, hiệu quả.
- Lã Thị Tú An, Nguyễn Thị Thái (2014), “Một số giải pháp nâng cao chất
lượng công tác kháng nghị phúc thẩm án dân sự, hành chính”, Tạp chí Kiểm sát, số
3
22/2014. Những vướng mắc, bất cập của pháp luật ảnh hưởng đến chất lượng kháng
nghị phúc thẩm án dân sự, hành chính được tác giả nêu ra từ đó đề xuất một số giải
pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm án dân sự, hành chính chẳng
hạn như: tăng cường sự phối kết hợp giữa các Viện phúc thẩm và Viện kiểm sát các
địa phương về công tác kháng nghị phúc thẩm án dân sự, hành chính; kiện toàn đội
ngũ cán bộ, Kiểm sát viên đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, có trình độ, năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ …
- Mai Văn Sinh (2014), “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
kháng nghị phúc thẩm dân sự, hành chính ở viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai”,
Tạp chí Kiểm sát, số 22/2014. Qua công tác thực thi Chỉ thị số 04/CT-VKSTC-VPT1,
tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm án dân sự, hành chính.
Qua việc tìm hiểu những công trình trên, trước tiên phải thừa nhận rằng các
tác giả đã có sự tìm hiểu công phu về chế định kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục tố
tụng hành chính. Tuy nhiên, đa số các đề tài trên đều chỉ mới tập trung phân tích một
vài vấn đề của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính. Trong khi đó, việc
tìm hiểu tổng quan chế định kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục tố tụng hành chính là
điều cần thiết, chưa được nghiên cứu nhiều.
Nhận thấy được ý nghĩa quan trọng của chế định kháng nghị phúc thẩm theo
thủ tục tố tụng hành chính, trên cơ sở kế thừa các thành tựu pháp lý của các nhà
nghiên cứu đi trước, tác giả nghiên cứu đề tài “Kháng nghị phúc thẩm trong Luật
tố tụng hành chính Việt Nam” với mong muốn hiểu rõ bản chất của quy định, đưa
quy định của pháp luật đến gần hơn với đời sống.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận là các quy định của pháp luật tố tụng
hành chính Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục thông thường và thực
tiễn áp dụng quy định Luật Tố tụng hành chính. Để có cái nhìn đầy đủ về những vấn
đề này, tác giả đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu cả về quy định pháp luật và thực
tiễn. Những vướng mắc trong quá trình thi hành pháp luật cũng được tác giả phát hiện
và đề xuất kiến nghị.
b. Phạm vi nghiên cứu
4
Khóa luận tập trung vào các quy định của Luật Tố tụng hành chính chính 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2019 về kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục thông thường, đánh
giá thực tiễn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi cả
nước trong 04 năm từ năm 2018 đến năm 2021. Trong khuôn khổ của bài khóa luận,
tác giả tập trung vào nghiên cứu, làm rõ các nội dung: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
của kháng nghị phúc thẩm; căn cứ, đối tượng, thẩm quyền, thời hạn kháng nghị phúc
thẩm; Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác
kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục tố tụng hành chính.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận của học thuyết Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước để đánh giá một
cách khoa học, một cách khách quan, có logic về vấn đề nghiên cứu và sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu khác nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở
Chương 1 “Những vấn đề lý luận và pháp lý về kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố
tụng hành chính Việt Nam”. Bằng phương pháp này, tác giả đã làm rõ được các quy
định pháp luật liên quan đến hoạt động kháng nghị phúc thẩm.
Thứ hai, phương pháp tổng hợp: Tác giả vận dụng phương pháp tổng hợp để
tổng quan lại những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “Kháng nghị phúc
thẩm trong Luật Tố tụng hành chính Việt Nam”.
Tác giả cũng sử dụng phương pháp trên khi trích dẫn các quan điểm của các
nhà nghiên cứu về khái niệm kháng nghị, kháng nghị phúc thẩm. Từ đó, rút ra khái
niệm đầy đủ, chuẩn xác.
Thứ ba, phương pháp thống kê, tổng hợp: Sử dụng những tài liệu đã thu thập
được và tiến hành xử lý số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán và mô tả các đặc trưng
khác nhau để phản ánh một cách tổng quát về thực tiễn thực hiện quy định của Luật
Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm. Sau đó tổng hợp tất cả số
liệu đã được xử lý và tiến hành đánh giá một cách khách quan.
Thứ tư, phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng nhằm tìm ra
những điểm tiến bộ, hạn chế về kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính qua các năm.
Ưu điểm của phương pháp này giúp người đọc có cái nhìn tổng quan, khái quát và rõ
ràng về thực tiễn thực hiện quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng
nghị phúc thẩm qua đó đưa những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật
cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật.
5
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp đối chiếu, phương pháp biện chứng và các phương pháp khoa học khác…
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu
khoa học gồm hai chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về kháng nghị phúc thẩm trong
Luật Tố tụng hành chính Việt Nam.
Chương 2. Thực tiễn thực hiện quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt
Nam về kháng nghị phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện.
6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHÁNG NGHỊ
PHÚC THẨM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố
tụng hành chính Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
Kháng nghị phúc thẩm các vụ án nói chung và vụ án hành chính nói riêng là
một hoạt động thể hiện rõ quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân, là một
trong các cơ sở làm phát sinh thủ tục kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính. Vì thế,
việc hiểu một cách thống nhất và chính xác nhất về khái niệm kháng nghị phúc thẩm
là hết sức cần thiết trong khoa học nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm trong Luật
Tố tụng hành chính Việt Nam.
Theo Từ điển Tiếng việt thì “kháng nghị được hiểu là sự bày tỏ ý kiến phản
đối bằng văn bản chính thức”2 hay “kháng nghị là bày tỏ ý kiến để phản đối một việc
gì”3. Theo từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “kháng nghị có thể được hiểu là sự bày
tỏ quan điểm phản đối, chống đối về một vấn đề, một ý kiến gì đó bất kì mà chủ thể
kháng nghị cho rằng vấn đề đó, ý kiến đó là sai lầm”4. Như vậy, theo các từ điển này
thì có thể hiểu một cách chung nhất kháng nghị là sự phản đối, chống lại hay không
đồng ý với một quyết định nào đó.
Theo từ điển Luật học thì “kháng nghị là việc người có thẩm quyền bằng văn
bản của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực phán quyết của Tòa
án trong bản án, quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm làm cho vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật”5. Với cách
giải thích này, kháng nghị phúc thẩm đã thể hiện một số đặc điểm như chủ thể của
kháng nghị là người có thẩm quyền, đối tượng của kháng nghị là các bản án, quyết
định của Tòa án, hình thức của kháng nghị là bằng văn bản, mục đích của kháng nghị
là làm cho vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm
này chưa nêu bật được tính chất của phúc thẩm vụ án hành chính là xét xử lại bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nên chúng ta không thể
thừa nhận đây là khái niệm chính thức và toàn diện. Có phần tương tự, thuật ngữ pháp
2
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.621.
3
Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng việt, tái bản lần thứ V, Nxb Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh,
tr.345.
4
Nguyễn Lân (1988), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
tr.927.
5
Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.527.
7
lý cũng nêu“Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc
phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án với mục đích bảo
đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm
trong bản án, quyết định của Tòa án”.6 Trong khái niệm này, kháng nghị phúc thẩm
cũng chỉ dừng lại ở một số đặc điểm mà khái niệm trong từ điển Luật học đề cập nên
chúng ta cũng không thể thừa nhận nó là khái niệm chính thức.
Nhìn chung, khái niệm trong các từ điển chỉ một phần thể hiện được các đặc
điểm của kháng nghị nói chung, mà chưa thể hiện rõ ràng và cụ thể về bản chất, đặc
điểm của kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính nói riêng. Bởi lẽ, các khái niệm
trên đều không làm rõ được đối tượng của kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính là
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật hay đã có hiệu
lực pháp luật, chưa đề cập được căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính,
không phân biệt được kháng nghị phúc thẩm với kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính và kháng nghị phúc thẩm theo các thủ tục tố
tụng khác; chủ thể của kháng nghị nêu chung chung là “người có thẩm quyền” mà
không thể hiện rõ chủ thể duy nhất có quyền kháng nghị phúc thẩm là Viện Kiểm sát.
Trên phương diện khoa học pháp lý, cho đến thời điểm hiện tại chưa có công
trình nào nghiên cứu và đề cập trực diện về khái niệm kháng nghị phúc thẩm vụ án
hành chính. Do đó, việc tiếp cận khái niệm này gặp phải những khó khăn nhất định.
Ở khía cạnh chung, tác giả Đinh Văn Quế cho rằng “Kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét
xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử,
nhưng xét thấy không đúng luật”7. Ở quan điểm này, tác giả đã nhìn nhận và nêu rõ
hình thức của kháng nghị phúc thẩm là “một văn bản” và chủ thể của kháng nghị
phúc thẩm vụ án là Viện kiểm sát. Đồng thời, tác giả cũng nêu rõ cơ quan có thẩm
quyền xét xử lại vụ án khi có kháng nghị là Tòa án cấp phúc thẩm. Thế nhưng nhìn
một cách bao quát, khái niệm trên lại chưa thể hiện được đối tượng của kháng nghị
là bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Thêm vào đó, khái niệm
cũng chưa nêu được toàn diện các căn cứ của kháng nghị phúc thẩm, nghĩa là khái
niệm mới chỉ đề cập về căn cứ kháng nghị liên quan đến việc Tòa án cấp sơ thẩm vi
phạm về mặt hình thức “không đúng pháp luật” mà không đề cập đến những vi phạm
về mặt nội dung của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
6
7
https://thuvienphapluat.vn/tnpl/2684/Khang-nghi?tab=1, truy cập ngày 11/4/2022.
Đinh Văn Quế (2018), “Kháng nghị phúc thẩm – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Kiểm sát, (số
5), tr.23.
8
Tác giả Lê Thành Dương có cách tiếp cận kháng nghị phúc thẩm vụ án từ góc
độ quyền năng pháp lý riêng của Viện kiểm sát“Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng
pháp lý được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị những bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới
trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên
trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật,
nghiêm minh và kịp thời”. Hay tác giả Nguyễn Việt Phương lại cho rằng “Kháng nghị
phúc thẩm vụ án hành chính là quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát nhân dân thể
hiện bằng văn bản pháp lý được tiến hành trong thời hạn và theo thủ tục luật định,
yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật đó không đảm bảo tính có căn cứ và
tính hợp pháp”8. Nhìn trên góc độ, đối chiếu, tổng hợp, quan điểm của hai tác giả trên
đều có những tương đồng với nhau về một số nội dung nổi bật của kháng nghị phúc
thẩm như đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật, chủ thể của kháng nghị phúc thẩm là Viện kiểm sát, căn cứ của
kháng nghị là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật đó sai lầm về
căn cứ (về nội dung) hoặc không đúng pháp luật (tính hợp pháp), hình thức của kháng
nghị là một văn bản pháp lý, Tòa án có thẩm quyền xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc
thẩm khi có kháng nghị là Tòa án cấp phúc thẩm. Đây cũng chính là các quan điểm
được đông đảo tác giả ủng hộ và thừa nhận, do tiếp cận kháng nghị từ góc độ là một
nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát.
Tựu chung lại, tuy các quan điểm khoa học nêu trên có những cách tiếp cận
khác nhau nhưng các quan điểm đều đồng nhất thừa nhận một số đặc trưng cơ bản
của kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính gồm chủ thể, đối tượng, thẩm quyền,
hình thức, căn cứ, mục đích của kháng nghị phúc thẩm. Từ việc kết hợp các quan
điểm đó, có thể đưa ra khái niệm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hành chính như
sau:“Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính là quyền năng pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân thể hiện bằng một văn bản pháp lý được tiến hành trong thời hạn
luật định, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm, do bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm đó có vi phạm pháp luật tố tụng hành chính hoặc vi phạm pháp
luật nội dung nhằm bảo đảm việc xét xử của Toà án luôn được đúng pháp luật, nghiêm
minh, khắc phục và sửa chữa kịp thời”.
8
Nguyễn Việt Phương (2017), “Kháng nghị phúc thẩm quá hạn trong tố tụng hành chính”, Tạp chí Kiểm sát,
(Số 05), tr. 17-19.
9
1.1.2. Đặc điểm
Khi tìm hiểu, nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố tụng hành
chính Việt Nam có thể thấy những đặc trưng cơ bản của kháng nghị phúc thẩm gồm
chủ thể kháng nghị, đối tượng kháng nghị, thẩm quyền, hình thức, căn cứ, mục đích
của kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính. Những đặc trưng này thể hiện bản chất,
đặc trưng riêng nhằm phân biệt kháng nghị phúc thẩm với kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm trong tố tụng hành chính, cũng như các chế định khác trong tố tụng hành
chính ở nước ta.
Thứ nhất, chủ thể kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính là Viện
kiểm sát, chỉ có Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất có thẩm quyền kháng nghị, ngoài
ra không còn bất kỳ cơ quan nào khác được thực hiện quyền này
Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng ở Việt Nam nói chung và trong tố tụng
hành chính nói riêng là quyền năng pháp lý duy nhất mà Nhà nước trao cho Viện
kiểm sát. Trong hệ thống cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân dân là cơ
quan có chức năng xét xử và có nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân9. Thế nhưng, trong quá trình
thực hiện chức năng của mình, việc xét xử của Tòa án là hoạt động vừa mang nhận
thức khách quan vừa mang nhận thức chủ quan nên không phải mọi trường hợp các
bản án, quyết định của Tòa án đều được ban hành minh bạch, đúng pháp luật mà có
thể tồn tại những sai lầm, thiếu sót về mặt áp dụng pháp luật nội dung lẫn pháp luật
hình thức, các sai lầm này nếu không được phát hiện để khắc phục, sửa chữa kịp thời
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự và những
người tham gia tố tụng khác, ảnh hưởng không nhỏ đến danh dự, uy tín của Tòa án
nhân dân – cơ quan duy nhất thay mặt nhà nước thực hiện quyền lực tư pháp10. Do
vậy, để có thể khắc chế quyền lực này của Tòa án nhân dân và bảo đảm việc xét xử
của Tòa án hạn chế được những sai sót và luôn được chính xác, khách quan, đúng
pháp luật, Nhà nước đã trao cho Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền kiểm soát hoạt động tư pháp do Tòa án thực hiện. Trong tố tụng hành chính,
Viện kiểm sát được nhà nước trao cho quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính
khi phát hiện bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo trình tự thủ tục phúc thẩm, sửa
9
Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
10
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
10
chữa và khắc phục kịp thời những sai lầm mà Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm. Không
chỉ thế, trong tố tụng hành chính, Viện kiểm sát còn được pháp luật ghi nhận chức
năng kiểm sát, giám sát việc giải quyết vụ án hành chính của Tòa án. Mục đích chính
yếu của chức năng này của Viện kiểm sát cũng không nằm ngoài mục đích bảo đảm
cho hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tòa án được nghiêm minh, công bằng,
dân chủ, khách quan và minh bạch. Do vậy, có thể thấy bằng việc thực hiện chức
năng kháng nghị phúc thẩm và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án đã nhằm thể
hiện trọn vẹn, đầy đủ nhiệm vụ của mình đó là “bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.11
Ngoài ra, đặc điểm trên còn là căn cứ giúp chúng ta nhìn nhận để phân biệt
giữa kháng cáo và kháng nghị trong Luật Tố tụng hành chính ở nước ta. Mặc dù theo
quy định của Luật Tố tụng hành chính, cả kháng cáo và cả kháng nghị đều là một
hoạt động có thể làm phát sinh thủ tục phúc thẩm vụ án hành chính nhưng hai nội
dung này có những điểm khác biệt nhất định. Về vấn đề chủ thể của kháng cáo và
chủ thể của kháng nghị có sự khác nhau rõ ràng. Nếu như chủ thể có quyền kháng
nghị phúc thẩm vụ án hành chính chỉ duy nhất là Viện kiểm sát thì chủ thể có quyền
kháng cáo phúc thẩm vụ án hành chính là đương sự hoặc người đại diện hợp pháp
của đương sự12. Mặt khác, đặc điểm trên cũng giúp chúng ta phân định với chủ thể
của kháng nghị giám đốc thẩm tái thẩm trong tố tụng hành chính. Chủ thể kháng nghị
phúc thẩm vụ án hành chính là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp còn chủ thể kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm thuộc về người có vị trí cao nhất trong Tòa án và Viện kiểm sát
gồm là: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao. Các phân định trên đã cho thấy, việc kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành
chính chỉ thuộc duy nhất về Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân không có quyền hạn này.
Thứ hai, đối tượng kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam
là bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
Bản án, quyết định sơ thẩm là hình thức thể hiện ý chí của Tòa án, là kết quả
giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, được tiến hành công phu và theo thủ tục nghiêm ngặt
11
Khoản 2 Điều 107 Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
12
Điều 204 Luật Tố tụng hành chính.
11
nhưng không loại trừ khả năng có thể có những sai lầm mà do đó, quyền và lợi ích
của các đương sự không được bảo đảm hoặc có những vi phạm pháp luật khác cần
phải khắc phục. Do đó, pháp luật tố tụng hành chính đã quy định bản án, quyết định
sơ thẩm không có hiệu lực ngay mà cần có một khoảng thời gian nhất định để các
đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm. Điều này xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm chế độ xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hành chính tại Điều 11 Luật Tố tụng hành chính. Theo
đó, Tòa án thực hiện hoạt động xét xử hai cấp, đó là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử
phúc thẩm. Bản án, quyết định do tòa án cấp sơ thẩm tuyên, ban hành thì gọi là bản
án, quyết định sơ thẩm. Cấp phúc thẩm không phải là cấp xét xử đương nhiên đối với
mọi vụ án hành chính mà chỉ phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị của chủ thể có
quyền. Khi không đồng tình với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm thì đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền
kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án. Cấp xét xử phúc thẩm
là cấp xét xử cuối cùng, bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau
khi ban hành. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm
vụ án hành chính. Như vậy có thể khẳng định lại, đối tượng của kháng nghị phúc
thẩm trong tố tụng hành chính luôn là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật. Một khi bản án, quyết định sơ thẩm đã phát sinh hiệu lực pháp luật thì
chúng không còn là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm và đương nhiên không làm
phát sinh thủ tục phúc thẩm mà lúc này nếu có kháng nghị thì chỉ kháng nghị được
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Một trong những điểm khác biệt của kháng
nghị phúc thẩm và giám đốc thẩm là đối tượng mà chúng tác động đến. Trong khi đối
tượng của kháng nghị phúc thẩm luôn là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật thì ngược lại đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đó có thể là bản án, quyết định sơ
thẩm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng có, kháng nghị hoặc
bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
Tuy nhiên cần lưu ý, trong pháp luật tố tụng của Việt Nam nói chung và pháp
luật tố tụng hành chính nói riêng, không phải mọi bản án, quyết định sơ thẩm đều là
đối tượng kháng nghị phúc thẩm mà chỉ những bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật và có vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà có thể là vi phạm nghiêm trọng
về pháp luật tố tụng hành chính hoặc vi phạm nghiêm trọng về pháp luật về nội dung
mới là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm. Nội dung này mặc dù không được thể
hiện rõ ràng trong Luật Tố tụng hành chính hiện hành nhưng lại được đề cập khá cụ
12
thể về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tại điểm d khoản 3 Điều 4 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 “kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật…”. Như vậy, đối tượng của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành
chính là bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật. Giới hạn này giúp cho hoạt
động kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát có trọng tâm, chất lượng và hiệu quả.
Thứ ba, căn cứ kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố tụng hành chính Việt
Nam là có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật
Kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính là chức năng chuyên biệt của Viện
kiểm sát song không phải vì thế mà việc kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát
được tiến hành tùy tiện, thiếu căn cứ pháp luật. Khi Viện kiểm sát kháng nghị phúc
thẩm phải căn cứ vào yêu cầu của việc xét xử sơ thẩm, tính đúng đắn của bản án,
quyết định sơ thẩm, từ thực tiễn xét xử và tuyệt đối không thể quyết định kháng nghị
phúc thẩm theo cảm tính chủ quan. Do vậy, theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014, khi tiến hành kiểm sát quyết định, bản án của Tòa án cấp sơ
thẩm, nếu phát hiện có vi phạm thì Viện kiểm sát sẽ ban hành kiến nghị hoặc kháng
nghị phúc thẩm13. Trường hợp các vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm chưa đến mức
“nghiêm trọng” có thể được Viện kiểm sát kiến nghị để yêu cầu Tòa án khắc phục vi
phạm. Kiến nghị trong hoạt động xét xử vụ án hành chính nói riêng và các vụ án khác
nói chung là nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi phát hiện hành vi, quyết định
của Tòa án trong hoạt động xét xử có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc
trường hợp kháng nghị phúc thẩm thì Viện kiểm sát sẽ kiến nghị Tòa án khắc phục
vi phạm pháp luật và Tòa án có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của
Viện kiểm sát theo quy định14. Khi ban hành kiến nghị, Viện kiểm sát thường tập hợp
các dạng vi phạm trong một vụ án hoặc nhiều vụ án khác nhau để ban hành kiến nghị
yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm và chấn chỉnh tình hình xét xử của Tòa án mình.
Việc kiến nghị thường là những dạng vi phạm “không nghiêm trọng” như vi phạm về
thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát; vi phạm về việc gửi các quyết
định tố tụng cho đương sự; chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; viện
dẫn điều luật trong bản án, quyết định chưa đầy đủ…15. Khác với kiến nghị, Viện
kiểm sát kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính khi bản án, quyết định của Tòa án
13
Khoản 7 Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
14
Khoản 2 Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
15
Nguyễn Việt Phương (2020), Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính, Luận văn Thạc
sĩ học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.10.
13
cấp sơ thẩm có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người,
quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và phải có những căn cứ nhất định16. Căn cứ vào thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính, vi phạm pháp luật nghiêm trọng có thể là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng, vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ, sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.
Các vi phạm thường gặp như Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý sai thẩm quyền, xác định sai
đối tượng kháng nghị, sai tư cách đương sự của vụ án, xác định thiếu đương sự, áp
dụng văn bản pháp luật đã hết hiệu lực…17.
Căn cứ của kháng nghị phúc thẩm cũng khác với kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm trong tố tụng hành chính. Kháng nghị phúc thẩm với mục đích là bảo đảm
tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật nên căn cứ kháng nghị phúc thẩm phải bao gồm cả việc xem xét tính hợp pháp
của bản án, quyết định cũng như cả vấn đề về tình tiết, đánh giá chứng cứ. Trong khi
đó, giám đốc thẩm là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên
căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm phải là những vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc xử lý vụ án, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những
tình tiết khách quan, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật gây thiệt hại lợi ích của
NN18. Căn cứ kháng nghị tái thẩm là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có
những tình tiết mới được phát hiện làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết
định mà Tòa án, đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.19
1.1.3. Ý nghĩa
Tìm hiểu và phân tích về ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố
tụng hành chính Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng, góp phần làm
sâu thêm phạm vi nghiên cứu của đề tài. Ở những khía cạnh nhất định, việc kháng
nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính có những ý nghĩa như
sau:
Thứ nhất, kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố tụng hành chính Việt Nam là
cơ sở làm phát sinh thủ tục phúc thẩm và cũng là cơ sở để xác định phạm vi xét xử
của Tòa án cấp phúc thẩm
16
Khoản 1 Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
17
Nguyễn Việt Phương (2020), Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính, Luận văn Thạc
sĩ học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 10.
18
Khoản 1 Điều 255 Luật Tố tụng hành chính.
19
Điều 280 Luật Tố tụng hành chính.
14
Trong tố tụng hành chính, thủ tục xét xử phúc thẩm không phải là thủ tục
đương nhiên đối với mọi vụ án án hành chính. Đây là thủ tục chỉ phát sinh khi có
kháng cáo, kháng nghị hợp pháp. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm là cơ quan có thẩm quyền
kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính khi nhận thấy bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng. Với tính chất là cấp xét xử thứ hai, xét xử phúc thẩm vụ án hành chính có
nhiệm vụ trọng tâm là xét xử lại vụ án về mặt nội dung và kiểm tra, xem xét lại tính
khách quan, tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới, nhằm
kịp thời phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong bản án, quyết định đó bảo đảm việc
xét xử của Tòa án luôn chính xác, khách quan, công bằng và đúng luật.
Mặt khác, dựa vào kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát, Tòa án cấp phúc
thẩm sẽ xác định được chính xác phạm vi xét xử phúc thẩm của mình. Phạm vi xét
xử của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hành chính là giới hạn mà Tòa án cấp
phúc thẩm được quyền xét xử và ra quyết định theo quy định của pháp luật 20. Nếu
Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xem xét xét lại toàn bộ bản án, quyết định
sơ thẩm đó. Nếu Viện kiểm sát chỉ kháng nghị phúc thẩm một phần hoặc một vài
phần của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì Tòa án cấp phúc
thẩm chỉ xem xét lại phần bản án, quyết định có kháng nghị của Viện kiểm sát.
Trường hợp đặc biệt, Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét thêm phần bản án, quyết
định có liên quan đến nội dung kháng nghị21. Như vậy, kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát trong Luật Tố tụng hành chính là cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm xác
định phạm vi xét xử của mình.
Thứ hai, đối với các đương sự trong vụ án hành chính, việc kháng nghị phúc
thẩm trong Luật Tố tụng hành chính là cơ sở quan trọng để góp phần bảo đảm triệt
để các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Về cơ bản, trong tố tụng hành chính, hầu hết các bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm là chính xác, đúng luật, bảo đảm quyền lợi cho các đương sự. Thế
nhưng, việc giải quyết vụ án hành chính là một quá trình phức tạp, gồm nhiều trình
tự, thủ tục khác nhau, các văn bản pháp luật chuyên ngành áp dụng vào giải quyết vụ
án hành chính cũng đa dạng với nhiều nội dung khác nhau. Do vậy, khi đưa ra phán
20
Lê Thị Mơ (2020), “Bàn về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính”, Tạp chí Kiểm sát, (số 8), tr.24.
21
Điều 220 Luật Tố tụng hành chính.
15
quyết mà cụ thể là bản án hoặc quyết định, Tòa án cấp sơ thẩm không khó tránh khỏi
những sai lầm, thiếu sót nên vẫn còn tồn tại một số bản án, quyết định chưa chính
xác, có vi phạm pháp luật. Những vi phạm, sai lầm này trong bản án, quyết định sơ
thẩm có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
mà nếu không có kháng nghị phúc thẩm thì chúng vẫn được đưa ra thi hành, các
quyền và lợi ích chính đáng của đương sự không được bảo đảm. Chính vì thế, việc
Viện kiểm sát phát hiện các vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm để ban hành kháng nghị
phúc thẩm vụ án hành chính yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án đã kịp
thời ngăn chặn những phán quyết làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án. Khi thủ tục phúc thẩm phát sinh, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ nhân
danh nhà nước giải quyết lại vụ án một cách thận trọng, kỹ lưỡng hơn để đưa ra phán
quyết đúng đắn, công bằng hơn. Bên cạnh đó, nhìn nhận một cách gián tiếp, việc
kháng nghị phúc thẩm vụ án hành chính cũng chính là cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm
có cơ hội giải quyết phúc thẩm vụ án, từ đó nhìn nhận, đánh giá được chất lượng giải
quyết vụ án hành chính của Tòa án cấp dưới và kịp thời có hướng dẫn sát sao, thường
xuyên hơn về kỹ năng và nghiệp vụ, chuyên môn xét xử cho Tòa án cấp dưới, bảo
đảm thống nhất trong áp dụng pháp luật, tạo được sự đồng đều về chất lượng của tất
cả bản án, quyết định sơ thẩm hành chính, củng cố niềm tin của nhân dân vào công
lý xét xử của Tòa án, bảo đảm triệt để pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính góp phần bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc mà Nhà nước pháp quyền ghi
nhận và quy định rất rõ ràng. Theo đó, tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức và xã hội
đều phải tuân Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm minh, triệt để, chính xác. Pháp
luật được ban hành có giá trị bắt buộc mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ và
thi hành, trong đó có pháp luật tố tụng hành chính và các văn bản khác có liên quan.
Khi Tòa án cấp sơ thẩm có sai lầm trong việc sử dụng, đánh giá chứng cứ, vi phạm
về thủ tục tố tụng hành chính, vi phạm trong việc áp dụng pháp luật thì đã vi phạm
nội dung, tinh thần của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi phát hiện ra những
vi phạm này của Tòa án cấp sơ thẩm, Viện kiểm sát đã kịp thời kháng nghị phúc thẩm,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm phải xét xử lại vụ án hành chính, xét lại các quyết định
sơ thẩm, kịp thời chấn chỉnh, sửa chữa, cải thiện các sai lầm mà Tòa án cấp sơ thẩm
đã vướng phải nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng pháp
luật. Hơn nữa, việc Viện kiểm sát kháng nghị các bản án, quyết định sơ thẩm theo
trình tự phúc thẩm cũng là cơ sở quan trọng để các chủ thể tiến hành tố tụng trong
16
quá trình giải quyết vụ án thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật thủ tục
cũng như pháp luật nội dung, hạn chế và loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật, xâm
phạm đến quyền và lợi ích của các đương sự trong vụ án. Đồng thời, việc kháng nghị
phúc thẩm vụ án hành chính của Viện kiểm sát cũng là cơ sở để các chủ thể tham gia
tố tụng hành chính, nhất là các đương sự của vụ án chấp hành, tuân thủ pháp luật triệt
để, thiện chí hợp tác với Tòa án trong việc thực hiện các nghĩa vụ tố tụng của mình,
bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án được thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời, loại trừ
trường hợp người tham gia tố tụng cố tình vi phạm pháp luật, góp phần nâng cao hiệu
quả của nguyên tắc pháp chế trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.2. Quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị phúc
thẩm
Hiện nay, Luật Tố tụng hành chính hiện hành không dùng một chương riêng
biệt hay cụ thể để quy định về kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân. Do
vậy, việc nghiên cứu các quy định của Luật Tố tụng hành chính về nội dung này cần
dựa trên sự chắt lọc, liên kết các điều luật có ghi nhận, quy định về kháng nghị phúc
thẩm. Từ sự tìm hiểu đó, tác giả nhận thấy, kháng nghị phúc thẩm trong Luật Tố tụng
hành chính ở nước ta cần được nghiên cứu qua các tiêu chí như sau:
1.2.1. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm
Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm không được Luật Tố tụng hành chính đề
cập trực tiếp tại một điều khoản riêng trong chương XIII quy định về phúc thẩm vụ
án hành chính song lại được cập nhật gián tiếp tại Điều 203 quy định về tính chất
phúc thẩm và Điều 211 quy định về quyền kháng nghị của Viện kiểm sát. Theo đó,
đối tượng của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính là bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình
chỉ giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Để hiểu rõ hơn về
các đối tượng kháng nghị phúc thẩm này, tác giả lần lượt trình bày, phân tích về chúng
như sau:
Thứ nhất, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật: Trong
hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta, chỉ có Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền sơ thẩm các vụ án nói chung và sơ thẩm vụ án
hành chính nói riêng22. Nên bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là bản án sơ thẩm của Tòa
án nhân dân cấp huyện và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Về góc độ
22
Xem Điều 37, Điều 44 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
- Xem thêm -