Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính việt nam...

Tài liệu Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính việt nam

.PDF
99
1
125

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC -----------***------------ ĐẶNG TẤN LỘC MSSV:1853801013106 KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khóa: 2018 - 2022 Người hướng dẫn: ThS. LÊ THỊ MƠ TP.HCM – Năm 2022 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC -----------***------------ ĐẶNG TẤN LỘC MSSV:1853801013106 KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khóa: 2018 - 2022 Người hướng dẫn: ThS. LÊ THỊ MƠ TP.HCM – Năm 2022 LỜI CAM ĐOAN Em tên Đặng Tấn Lộc, sinh viên lớp HS43A.2, được sự cho phép của lãnh đạo khoa Luật Hành chính – Nhà nước, em được vinh dự thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp “Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam”. Em xin cam đoan với Nhà trường đây là công trình khoa học do em trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của Cô Lê Thị Mơ. Mọi vi phạm nếu vi bị phát hiện em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 6 năm 2022 Người cam đoan Đặng Tấn Lộc LỜI CẢM ƠN Quá trình học tập tại Trường Đại học Luật TP.HCM, ngoài sự nỗ lực cố gắng học tập của bản thân, tác giả may mắn được Thầy, Cô nhiệt tình truyền đạt kiến thức về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Sau một thời gian tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện và chỉnh sửa khóa luận, tác giả đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam”. Trước hết, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Cô Lê Thị Mơ – Thạc sĩ Luật Học, giảng viên Khoa Luật Hành chính. Để hoàn thành khóa luận này, Cô đã giúp tác giả rất nhiều, đã cho tác giả những lời khuyên quý giá, những kinh nghiệm, những định hướng và những sửa chữa, đánh giá vô cùng bổ ích. Chính sự tận tình hướng dẫn, giúp đỡ ấy đã giúp tác giả hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tác giả hoàn thành khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ hoàn chỉnh Luật tố tụng hành chính 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2019 Từ viết tắt Luật TTHC Luật tố tụng hình sự 2015 Luật TTHS Luật tố tụng dân sự 2015 Luật TTDS Xã hội chủ nghĩa XHCN Hội đồng xét xử HĐXX Viện kiểm sát nhân dân VKSND Tố tụng hành chính TTHC Vụ án hành chính VAHC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu ..........................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ......................................................3 3.1. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 3 3.3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 3 4. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................4 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ...............................................................5 6.1. Ý nghĩa khoa học ............................................................................................ 5 6.2. Ý nghĩa thực tiễn .............................................................................................5 7. Bố cục của khóa luận .......................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM ............................................................................................................................ 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam ..................................................................................6 1.1.1. Khái niệm .....................................................................................................6 1.1.2. Đặc điểm ......................................................................................................8 1.1.3. Ý nghĩa ....................................................................................................... 12 1.2. Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính của một số quốc gia trên thế giới ............................................................................................. 15 1.2.1. Liên bang Nga ........................................................................................... 16 1.2.2. Pháp ........................................................................................................... 20 1.2.3. Trung Quốc ................................................................................................23 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm .................................................................................................. 25 1.3.1. Chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ............................... 25 1.3.2. Đối tượng kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ...........................................27 1.3.3. Thời hạn kháng cáo ................................................................................... 31 1.3.4. Hình thức; trình tự; thủ tục và phương thức kháng cáo ...........................33 1.3.4.1. Hình thức kháng cáo ............................................................................33 1.3.4.2. Trình tự, thủ tục kháng cáo ................................................................. 36 1.3.4.3. Phương thức kháng cáo ....................................................................... 38 1.3.5. Trả lại đơn kháng cáo và kháng cáo quá hạn, xem xét kháng cáo quá hạn ..............................................................................................................................39 1.3.5.1. Trả lại đơn kháng cáo ..........................................................................39 1.3.5.2. Kháng cáo quá hạn và xem xét kháng cáo quá hạn ............................ 41 1.3.6. Hậu quả của kháng cáo .............................................................................42 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 44 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM VỀ KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ................................................. 45 2.1. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ...................................................................45 2.1.1. Những kết quả đã đạt được trong thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật TTHC Việt Nam về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ............................... 45 2.1.2. Những hạn chế, tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật TTHC Việt Nam về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm .......................................49 2.2. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ..................................................56 2.2.1. Nguyên nhân về pháp lý ............................................................................ 57 2.2.2. Nguyên nhân khác ..................................................................................... 63 2.3. Kiến nghị hoàn thiện về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam ............................................................................................ 65 2.3.1. Kiến nghị về pháp luật ...............................................................................65 2.3.2. Kiến nghị khác ........................................................................................... 71 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 75 KẾT LUẬN CHUNG ...............................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC, BIỂU ĐỒ, BẢNG 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Việc quy định và thực hiện nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử” trong tố tụng hành chính góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là của đương sự trong vụ án. Việc xét xử lại vụ án một lần nữa tại cấp phúc thẩm giúp Tòa án cấp trên thực hiện tốt công tác giám đốc xét xử của Tòa án cấp dưới, kịp thời phát hiện và sửa chữa sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dưới. Việc đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cũng như đảm bảo tính đúng đắn của bản án, quyết định của tòa án là những đòi hỏi tất yếu của nhà nước pháp quyền. Trong những năm qua, công tác tư pháp nói chung và công tác giải quyết án hành chính đã đạt được những thành tích đáng kể, được tiến hành một cách minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền lợi của người tham gia tố tụng cũng được quan tâm hơn, xu thế mở rộng tranh tụng tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, vẫn còn một số bản án, quyết định sơ thẩm chưa đảm bảo được tính có căn cứ, tính hợp pháp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để người tham gia tố tụng bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước những phán quyết không hợp pháp, không có căn cứ của Tòa án cấp sơ thẩm, pháp luật tố tụng hành chính đã quy định cho họ quyền kháng cáo Bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Trong tố tụng hành chính Việt Nam, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là chế định quan trọng, thể hiện quyền năng pháp lý của đương sự bằng sự phản đối Bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật về hình thức, thủ tục, thời hạn theo quy định của pháp luật đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Trải qua những lần pháp điển hóa, vấn đề về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm không ngừng được hoàn thiện. Về cơ bản, các quy định về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong Luật tố tụng hành chính hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện quyền này trên thực tế, đảm bảo được ý nghĩa thực sự của nó. Tuy nhiên một số quy định về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm đã bộc lộ vướng mắc, hạn chế cũng như bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng. Chẳng hạn như việc quy định đối tượng và chủ thể của kháng cáo còn chưa rõ ràng, quy định về thời hạn kháng cáo còn chưa phù hợp,...Mặc dù đã có một số công trình, báo viết về kháng cáo nhưng chưa có công trình nào đề cập sâu đến thực tiễn kháng cáo. Do đó việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực 2 hiện kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là một nhu cầu tất yếu khách quan trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Vì vậy, việc chọn đề tài “Kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam” để nghiên cứu có tính cấp bách và cần thiết trong thời điểm hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua chế định về kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng hành chính là vấn đề khá được quan tâm, tuy nhiên có khá ít các đề tài nghiên cứu. Một số đề tài nghiên cứu, bài viết có đề cập đến thủ tục phúc thẩm có thể đề cập đến như: Thứ nhất, bài viết “Quy định của Luật TTHC về thời hạn kháng cáo phúc thẩm”, Tạp chí Tòa án nhân dân của tác giả Lê Thị Mơ (2022). Trong bài viết này, các tác giả đã tập trung làm rõ các quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo phúc thẩm tại Điều 206 Luật TTHC. Thứ hai, bài “Giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính” trong sách Giải thích và bình luận Luật Tố tụng hành chính 2015 của tác giả Nguyễn Hoàng Yến, Lê Thị Mơ (2017). Trong bài này, các tác giả tập trung làm rõ các quy định của pháp luật TTHC về trình tự, thủ tục giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính. Mở rộng tìm hiểu sang những lĩnh vực khác như tố tụng dân sự đặc biệt là tố tụng hình sự có thể nhận thấy rằng vấn đề về kháng cáo phúc thẩm được nhiều nhà khoa học, cán bộ chuyên môn làm công tác thực tiễn nghiên cứu, bình luận khoa học ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể: Ở lĩnh vực tố tụng dân sự có các công trình nghiên cứu liên quan như: Một số bài tạp chí khoa học pháp lý có liên quan đến kháng cáo phúc thẩm như "Về đơn kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng dân sự" của đồng tác giả Đỗ Văn Đại và Phan Nguyễn Bảo Ngọc trình bày về quy định của pháp luật về nội dung và hình thức của đơn kháng cáo phúc thẩm vụ án dân sự; "Những sửa đổi, bổ sung về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015" của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà; “Thủ tục khoáng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” của tác giả Vũ Hoàng Anh (2022). Ở lĩnh vực tố tụng hình sự có những công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Dương Mai Anh với đề tài "Kháng cáo, Kháng nghị phúc thẩm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam", năm 2017; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Mai Thanh Hiếu với đề tài "Hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam", năm 2015. Bên cạnh đó còn có một số bài tạp chí khoa học pháp lý có liên quan đến kháng cáo phúc thẩm như "Một số điểm mới về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015" của đồng tác giả Võ Thị Kim Oanh và Lê Thị Thùy Dương 3 (2016); “Khái niệm hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự” của tác giả Bùi Thanh Hiếu (2015). Nhìn chung, trong TTHC, cũng có một số rất ít tác giả đề cập về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm nhưng hầu hết các tác giả chỉ đề cập một phần nhỏ về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm mà không có công trình nào đề cập một cách toàn diện, chuyên sâu về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính. Do vậy, việc tác giả lựa chọn đề tài “Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong TTHC Việt Nam” là cần thiết và có giá trị cao. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu nhằm mục đích: Thứ nhất, tìm hiểu và làm rõ hơn những vấn đề lý luận, pháp lý về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong TTHC Việt Nam và từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật TTHC về kháng cáo phúc thẩm. Thứ hai, đề xuất các giải pháp về mặt pháp lý và thực tiễn một cách khoa học, phù hợp nhằm đảm bảo việc thực hiện thủ tục kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam một cách hoàn thiện hơn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận tập trung giải quyết những vấn đề như sau: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kháng cáo phúc thẩm. - Phân tích các quy định của Luật TTHC về kháng cáo phúc thẩm, liên hệ với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Nga, Trung Quốc để đưa ra sự tương đồng và khác biệt. - Đánh giá toàn diện về thực tiễn kháng cáo phúc thẩm trong những năm gần đây. Đưa ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế đó. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định của Luật TTHC về kháng cáo phúc thẩm 3.3. Phạm vi nghiên cứu Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam là vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. Dựa trên mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra và trong điều kiện cho phép, tác giả tiếp cận, nghiên cứu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ở những phạm vi sau: - Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp lý dựa theo quy định của Luật TTHC Việt Nam về kháng cáo phúc thẩm ở thủ tục thông thường. 4 Theo đó, về mặt pháp lý, tác giả chỉ tập trung các vấn đề xoay quanh về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm về chủ thể kháng cáo; đối tượng kháng cáo; thời hạn kháng cáo; phương thức, hình thức kháng cáo; trình tự, thủ tục kháng cáo; kháng cáo quá hạn; hậu quả của kháng cáo. Khóa luận không nghiên cứu các quy định của Luật TTHC về kháng cáo phúc thẩm theo thủ tục rút gọn. - Khóa luận nghiên cứu về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong Luật TTHC ở một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Nga, Trung Quốc. - Khóa luận nghiên cứu thực tiễn thi hành Luật TTHC Việt Nam về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong những năm gần đây. Phần này, tác giả nghiên cứu các báo cáo tổng kết của TAND tối cao từ năm 2018 đến năm 2021 và các thông báo rút kinh nghiệm ngành TAND tối cao. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề pháp lý, thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hành chính về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin để làm rõ tính khách quan, khoa học những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra và sử dụng chủ yếu các phương pháp sau đây: Thứ nhất, Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng xuyên suốt trong đề tài, nhằm thể hiện được những đặc tính thuộc bản chất của đối tượng nghiên cứu. Trong đó, phương pháp phân tích nhằm bóc tách từng quy phạm pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật để thấy hết được các khía cạnh của vấn đề; cùng với đó, phương pháp tổng hợp được dùng để góp nhặt những đặc điểm, khía cạnh nhỏ lẻ từ đó đi đến kết luận khái quát. Thứ hai, Phương pháp thống kê, tổng hợp: Sử dụng để minh họa về số liệu cho những nhận định, đánh giá về vấn đề nghiên cứu theo từng tiêu chí nhất định. Thứ ba, Phương pháp lịch sử: Nhằm làm rõ những điều kiện, hoàn cảnh khách quan của việc ban hành và sự kế thừa những quy định của pháp luật, quan điểm lập pháp về kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam. Thứ tư, Phương pháp quy nạp, diễn dịch: Để phân tích, giải thích và đánh giá nội dung quy định của pháp luật, những quan điểm khoa học pháp lý, quan điểm áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và thực trạng của thủ tục kháng cáo phúc thẩm, cơ chế bảo đảm việc thực hiện thủ tục kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam; đồng thời hệ thống hóa những vấn đề đã phân tích, đánh giá thành những tiêu chí nghiên cứu có tính khái quát cao. 5 Thứ năm, Phương pháp so sánh, đối chiếu: Được dùng chủ yếu trong mục quy định pháp luật một số quốc gia về thủ tục kháng cáo phúc thẩm vụ án hành chính, để phát hiện, phân tích những điểm tương đồng và khác biệt về quy định pháp luật và đánh giá chúng dựa trên một hệ thống tiêu chí khách quan, rõ ràng. Thứ sáu, Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Được dùng trong phần thực trạng và kiến nghị của đề tài, nhằm thu thập các thông tin, ý kiến đánh giá của các chuyên gia có kinh nghiệm như: Thẩm phán, Kiểm sát viên… để tìm ra giải pháp hữu ích về mặt pháp luật và cả thực tiễn về thục tục kháng cáo phúc thẩm vụ án hành chính. Bên cạnh đó, tiến hành phỏng vấn đương sự để tìm hiểu những khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện thủ tục kháng cáo phúc thẩm. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện khóa luận, tác giả đã khảo sát thực tiễn giải quyết vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và các tài liệu liên quan của các cơ quan tiến hành tố tụng của một số địa phương để làm cơ sở cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 6.1. Ý nghĩa khoa học Khóa luận là công trình nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống những quy định của Luật tố tụng hành chính 2015 về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Kết quả nghiên cứu của khóa luận, đặc biệt là các luận điểm khoa học về khái niệm, ý nghĩa của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là cơ sở cho việc đánh giá, nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hành chính hiện hành về kháng cáo phúc thẩm, góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học tố tụng hành chính về vấn đề kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của khóa luận, đặc biệt là các luận điểm khoa học trong việc phân tích pháp luật, giải pháp và những kiến nghị hoàn thiện hoàn thiện pháp luật về kháng cáo phúc thẩm đóng góp về mặt thực tiễn trong việc áp dụng xét xử phúc thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm tại Việt Nam. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của khóa luận được chia làm hai chương. Cụ thể: Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam Chương 2: Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện. 6 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Trong pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, trong đó xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất và xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử không bắt buộc đối với mọi vụ án mà chỉ được tiến hành khi có kháng cáo, kháng nghị đúng quy định của pháp luật đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, khi có kháng nghị, kháng cáo hợp pháp thì thủ tục phúc thẩm vụ án hành chính sẽ phát sinh. Vậy kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là gì? Hiện nay khái niệm này chưa được đề cập trực tiếp trong Luật TTHC và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Do đó, việc xây dựng khái niệm này cần tiếp cận dưới các góc độ khác nhau. Ở góc độ ngôn ngữ, theo từ điển Tiếng việt thì “kháng cáo là chống án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử lại”1 và “kháng cáo là chống lại bản án mà tòa án cấp dưới đã xét xử yêu cầu xét xử lại”.2 Theo từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “Kháng cáo là chống lại bản án đã xử và yêu cầu tòa án cấp trên xử lại”.3 Như vậy, theo các Từ điển này thì có thể hiểu một cách chung nhất kháng cáo là sự phản đối, chống lại hay không đồng ý với một bản án của Tòa án cấp dưới nhằm yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại. Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp: “Kháng cáo là hành vi chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật trong trường hợp đương sự không đồng ý với toàn bộ bản án hoặc một phần của bản án, quyết định sơ thẩm”. Cách hiểu này nhìn chung đã đề cập được một số đặc điểm quan trọng của kháng cáo như chủ thể của kháng cáo là đương sự, đối tượng của kháng cáo là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, mục đích của kháng cáo là yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án. Nhìn chung nhất, các khái niệm trong các Từ điển nêu trên mới chỉ thể hiện được một phần đặc điểm của kháng cáo nói chung, mà chưa thể hiện rõ bản chất của kháng cáo phúc thẩm hành chính nói riêng, bởi lẽ không thể hiện được đối tượng Thái Xuân Đệ (2010), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.394. Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.345. 3 Nguyễn Lân (1988), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.927. 1 2 7 của kháng cáo phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; chưa đề cập được chủ thể có quyền kháng cáo là người đại diện hợp pháp của đương sự, không phân biệt rõ được kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng hành chính với các kháng cáo phúc thẩm theo thủ tục tố tụng khác. Trong khoa học pháp lý ở Việt Nam cũng có một số tác giả đề cập về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Kháng cáo là biểu thị sự không đồng ý của mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và đề nghị (yêu cầu) Tòa án cấp trên xét xử lại”.4 Khái niệm này tuy đã đưa ra được những vấn đề có liên quan như chủ thể, đối tượng của kháng cáo nhưng vẫn còn một số điểm chưa hợp lý như: Tác giả cho rằng đối tượng của kháng cáo là bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là chưa đầy đủ mà phải là bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; chủ thể có quyền kháng cáo trong khái niệm này chưa xác định cụ thể là ai; thẩm quyền xét xử phúc thẩm thuộc về “Tòa án cấp trên” là chưa chính xác bởi chỉ Tòa án cấp trên trực tiếp mới có thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Theo giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam của Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì “Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là hành vi tố tụng của đương sự hoặc người đại diện của họ yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật”.5 Nhận thấy, khái niệm này đã đề cập và khẳng định tương đối rõ nét về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong TTHC Việt Nam, cụ thể giáo trình đã lột tả được bản chất của kháng cáo là hành vi tố tụng của đương sự, người đại diện của đương sự; mục đích của kháng cáo là yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, về khía cạnh pháp lý, cách hiểu đó chỉ mới nêu chung chung về đối tượng của kháng cáo là quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà không nêu trực diện đó là quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực như tại Điều 204 đã quy định. Do đó, việc thừa nhận cách hiểu trên là chính thống và toàn diện nhất trong việc nghiên cứu, tìm hiểu lý luận về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm cũng chưa thật sự phù hợp và chuẩn xác. Có phần tương tự, tuy không phản ánh trực tiếp nhưng giáo trình Luật TTHC Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội cũng đề cập “kháng cáo, kháng nghị là việc yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm”. Tuy đã nêu được đối tượng của kháng Đinh Văn Quế (2004), Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình sự, hành chính, dân sự, Nxb Hải Phòng. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Hồng Đức, tr.573. 4 5 8 cáo là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhưng cách hiểu này lại mắc lỗi trong việc khẳng định bản chất của thủ tục phúc thẩm là xét lại đối tượng bị kháng cáo mà không phải là xét xử lại vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử rồi. Điều này là không phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử và cũng không hợp lý theo ghi nhận tại Điều 203 Luật TTHC. Vì thế, tác giả cho rằng nếu thừa nhận cách hiểu trên là khái niệm chính thống cũng không thể toàn diện và chính xác. Từ các góc độ tiếp cận trên đây chúng ta thấy, mỗi cách hiểu đều có những lý lẽ riêng của mình song chung quy lại đều phản ánh được các đặc điểm cơ bản của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm như: Kháng cáo là hành vi tố tụng của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, đối tượng của kháng cáo là bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chủ thể giải quyết kháng cáo đó là Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm, mục đích của kháng cáo là yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án. Trên cơ sở này, có thể đưa ra khái niệm kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính việt nam như sau: “Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam là hành vi tố tụng của đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự thể hiện bằng một văn bản pháp lý được tiến hành trong thời hạn luật định nhằm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật”. 1.1.2. Đặc điểm Khi nghiên cứu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm có thể thấy những đặc trưng cơ bản của kháng cáo phúc thẩm gồm chủ thể kháng cáo, đối tượng kháng cáo, trình tự, thủ tục, mục đích và hậu quả của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính. Những đặc điểm này thể hiện bản chất, đặc trưng riêng nhằm phân biệt kháng cáo phúc thẩm với kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính của nước ta, cũng như các chế định khác trong tố tụng hành chính. Theo đó, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam có những đặc điểm sau: Thứ nhất, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính là hành vi tố tụng của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự Về cơ bản trong tố tụng hành chính, hầu hết các bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng đắn, hợp pháp. Tuy nhiên, quá trình giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính là một quá trình phức tạp, gồm nhiều các trình tự, thủ tục khác nhau, các văn bản pháp luật vận dụng đưa ra phán quyết cũng ở mức độ phức tạp, đa dạng nên vẫn còn tồn tại trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm ban hành bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án còn 9 thiếu chuẩn xác, không đúng pháp luật, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án. Chính vì vậy, từ góc độ bảo đảm dân chủ trong xét xử, bảo vệ quyền lợi ích cơ bản của công dân, pháp luật tố tụng hành chính ở nước ta đã ghi nhận quyền “chống án” hay gọi là quyền “kháng cáo” của đương sự, người đại diện hợp pháp của các đương sự6. Khi đặt trên khía cạnh là quyền thì đó là quyền tuyệt đối, thuộc về phạm trù quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự. Khi đặt dưới khía cạnh đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự thực hiện việc kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm thì chúng ta sẽ nhìn nhận chúng dưới dạng là hành động, xác lập bằng một hàng động, hành vi cụ thể nhằm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, đánh giá về tính chính xác, đúng luật của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Hành vi, hành động kháng cáo đó không thể tiến hành tùy tiện mà phải nằm trong khuôn mẫu nhất định, phải tuân thủ, chấp hành về hình thức, nội dung và thủ tục, trình tự của kháng cáo theo phạm vi điều chỉnh của pháp luật tố tụng hành chính. Khi kháng cáo đáp ứng tất cả các điều kiện luật định thì thủ tục phúc thẩm sẽ phát sinh. Tòa án cấp phúc thẩm dù muốn hay không muốn vẫn phải có trách nhiệm xét xử lại vụ án theo yêu cầu và phạm vi kháng cáo mà đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự đã định đoạt. Ngược lại, khi kháng cáo không đáp ứng đúng điều kiện luật định thì đương nhiên không làm phát sinh trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, phạm vi của kháng cáo. Nói chung lại, xét dưới khía cạnh kháng cáo là hành động thì nó được hiểu là hành vi tố tụng của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự trong vụ án hành chính. Thứ hai, đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính chỉ là bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tương tự như đối tượng của kháng nghị phúc thẩm, đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong TTHC ở Việt Nam cũng là bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm.7 Có thể thấy, đây là ba đối tượng duy nhất của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính. Các đối tượng này đều có đặc điểm chung là sản phẩm do Tòa án cấp sơ thẩm ban hành và đều phải chưa phát sinh hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm được hình thành khác với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án. Theo đó, bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là bản án Điều 204 Luật TTHC quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu TA cấp phúc thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm”. 7 Xem Điều 203 Luật TTHC. 6 10 đã được tuyên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính và đang trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm8 còn quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật là quyết định được Tòa án cấp sơ thẩm ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm hoặc giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án và đang trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm9. Như vậy, theo tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thì chỉ các bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm mới là đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Đây là ghi nhận thuộc nội dung của nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm tại Điều 11 Luật TTHC. Nếu bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật thì chúng không thể được xem lại theo thủ tục phúc thẩm mà chỉ có thể được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, khi nghiên cứu về đặc điểm trên của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong TTHC Việt Nam, chúng ta cũng cần lưu ý, tuy đối tượng của kháng cáo và kháng nghị phúc thẩm đều là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhưng nếu như đối tượng của kháng cáo chỉ là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật (không cần bàn đến bản án, quyết định sơ thẩm này có vi phạm pháp luật hay không) thì đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong TTHC phải là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Mặc dù điểm khác biệt này không thể hiện rõ trong quy định của Luật TTHC Việt Nam song lại được đề cập trực tiếp và rõ ràng trong Khoản 1 Điều 5, khoản 7 Điều 37 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Thứ ba, việc kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHC Việt Nam quy định Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là quyền của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự nhưng khi thực hiện quyền kháng cáo thì họ phải tuân thủ về các điều kiện, trình tự, thủ tục của kháng cáo. Cụ thể, họ phải tuân thủ về các điều kiện về mặt nội dung như đối tượng kháng cáo, chủ thể kháng cáo, thời hạn kháng cáo và tuân thủ về hình thức của kháng cáo như cách viết đơn, ký đơn kháng cáo, nộp đơn kháng cáo và đóng tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật TTHC. Đây là một trong các đặc điểm khá quan trọng bảo đảm cho việc xem xét đơn kháng cáo và thụ lý phúc thẩm của các Tòa án cấp phúc thẩm được thống nhất. Thêm vào đó, cũng là căn cứ quan trọng để các đương sự kháng cáo nắm và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Hồng Đức, tr.573. 9 Trường Đại học luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Công An Nhân dân, tr 357. 8 11 vận dụng chính xác các quy định về kháng cáo, bảo đảm chất lượng của các kháng cáo, sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật khi thực hiện kháng cáo phúc thẩm. Bên cạnh đó, đặc điểm trên cũng giúp chúng ta phân biệt được giữa kháng cáo và kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hành chính. Khác với thủ tục, trình tự kháng cáo, tuy việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKSND cùng cấp hoặc VKSND cấp trên trực tiếp cũng được tiến hành theo những điều kiện luật định cụ thể về đối tượng kháng nghị, thời hạn kháng nghị, thủ tục kháng nghị nhưng trình tự, thủ tục kháng nghị đơn giản, khác biệt hơn so với kháng cáo. Bởi vì, thể thức của kháng nghị phúc thẩm xuất phát từ quyền lực của cơ quan nhà nước, được nhà nước trao quyền với tên gọi là quyết định kháng nghị còn thể thức của kháng cáo xuất phát từ chính đương sự của vụ án không xuất phát từ quyền lực nhà nước mà xuất phát từ quyền mà luật định, cho phép kháng cáo với tên gọi là đơn kháng cáo. Đồng thời, trong khi VKSND có kháng nghị phải gửi quyết định kháng nghị phúc thẩm cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị và cho cả đương sự có liên quan đến kháng nghị thì đơn kháng cáo chỉ gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm. Ngoài ra còn một số khác biệt khác, tác giả sẽ phân tích trong phần phân tích các quy định của pháp luật TTHC Việt Nam về kháng cáo. Thứ tư, mục đích của việc kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính các đương sự có kháng cáo Trong tố tụng hành chính, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là những chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm quyền và lợi ích cho các đương sự trong vụ án; bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng trong xét xử hành chính, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, việc bảo đảm của các chủ thể này có thể chuẩn chỉnh, đúng luật hoặc có thể chưa toàn diện đã vô tình hoặc cố ý xâm phạm đến quyền và lợi ích của các đương sự. Do vậy, bản thân các đương sự là nhân vật trung tâm của vụ án hành chính cũng được pháp luật ghi nhận nhiều quyền, nghĩa vụ khác nhau để họ chủ động tự bảo vệ lợi ích hợp pháp cho chính họ. Trong tất cả các quyền luật định thì quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là quyền quan trọng, thể hiện sự phản đối, không đồng tình của đương sự đối với các phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm trong bản án sơ thẩm, đối với các quyết định của Tòa án trong việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Đương nhiên khi đương sự kháng cáo phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án là nhằm mục đích duy nhất để bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của họ. 12 1.1.3. Ý nghĩa Căn cứ vào khái niệm, đặc điểm của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm nêu trên chúng ta thấy, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong TTHC Việt Nam có các ý nghĩa cơ bản, điển hình và quan trọng như sau: Thứ nhất, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính là phương tiện hữu hiệu, cần thiết để đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những mục tiêu quan trọng bậc nhất trong tất cả các hoạt động xét xử hành chính của Tòa án nhân dân. Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thường được nhìn nhận ở hai phương diện khác nhau: Quyền của đương sự và nghĩa vụ của các cơ quan, người tiến hành tố tụng hành chính. Về quyền của đương sự, Luật TTHC đã quy định nhiều quyền tố tụng giúp cho đương sự thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giai đoạn xét xử. Để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có thể sử dụng và thực hiện nhiều quyền khác nhau theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Tất nhiên, những quyền tố tụng đó sẽ được đương sự thực hiện trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm, điển hình như: cung cấp tài liệu, chứng cứ, tham gia đối thoại, đối chất, đề xuất thay đổi người tiến hành tố tụng; tại phiên tòa sơ thẩm đương sự trình bày ý kiến, phát biểu, hỏi và tranh luận với các đương sự đối lập…để làm cơ sở cho những người tiến hành tố tụng, Hội đồng xét xử xem xét. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, không phải lúc nào đương sự cũng có thể thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện có hiệu quả các quyền đó. Do đó, khi Tòa án cấp sơ thẩm ban hành bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thiếu chính xác, không được sự đồng thuận của đương sự thì các đương sự sẽ có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án để từ đó Toàn án cấp phúc thẩm đưa ra phán quyết chính xác về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm đó, bảo đảm triệt để và chuẩn xác nhất các lợi ích chính đáng của đương sự trong vụ án. Nói cách khác, trong tất cả các quyền đương sự có được trong TTHC thì quyền kháng cáo hay thường gọi là quyền “chống án sơ thẩm” được xem là quyền quan trọng bậc nhất của đương sự nhằm phản ánh thái độ không đồng tình về phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, là phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bên cạnh đó, dưới góc độ lý luận, một bản án hoặc quyết định sơ thẩm có thiếu sót, không đúng pháp luật nhưng nếu không được phát hiện để kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong thời hạn luật định thì sẽ được đưa ra thi hành và đương 13 nhiên sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cá nhân và tổ chức. Bởi thế, với ý nghĩa này thì kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính cũng được hiểu là một trong những công cụ đảm bảo việc không đưa ra thi hành các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật nhằm bảo vệ cho các đương sự, bảo đảm hiệu quả trong hoạt động tư pháp ở nước ta. Thứ hai, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là cơ sở để Tòa án cấp sơ thẩm thận trọng, kỹ lưỡng, chỉnh chu hơn khi giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính Xét ở góc độ thực tế, một bản án, quyết định sơ thẩm do mình ban hành bị đương sự kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoàn toàn là điều không hề mong muốn của thẩm phán giải quyết vụ án đó. Tuy nhiên, kháng cáo là quyền của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, dù thẩm phán của vụ án đó muốn hay không muốn thì đương sự vẫn có toàn quyền quyết định và tự định đoạt trong việc kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại vụ án. Và một khi đương sự thực hiện quyền kháng cáo hợp pháp sẽ làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết lại vụ án đó, đánh giá toàn bộ quá trình áp dụng, thực thi Luật TTHC và các luật nội dung trong bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Nếu nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm không sai, không vi phạm pháp luật, hoàn toàn chính xác về mọi vấn đề thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ bác kháng cáo và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo đó. Ngược lại nếu thấy Tòa án cấp sơ thẩm sai, vi phạm pháp luật thì Toàn cấp phúc thẩm sẽ hủy hoăc sửa bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật đó. Nhìn nhận các phán quyết này của Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm nói chung mà cụ thể là thẩm phán được phân công giải quyết đó sẽ phải có những suy nghĩ, xem xét về hoạt động, trình tự, thủ tục giải quyết vụ án của mình. Từ đó, họ sẽ rút kinh nghiệm cho bản thân, thận trọng, tỉ mỉ và kỹ lưỡng hơn khi tiến hành thụ lý, giải quyết và đưa ra bản án giải quyết vụ án. Đây chính là giá trị của việc kháng cáo, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm ở hình thức rút kinh nghiệm, chỉnh chu hơn trong xét xử. Thứ ba, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính là cơ sở để Tòa án cấp trên có cơ sở để kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới Luật TTHC của nước ta đã có các quy định cụ thể nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử hành chính được chính xác, khách quan, công bằng và dân chủ. Tuy nhiên, thực tế xét xử khó tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau dẫn đến việc Tòa án cấp sơ thẩm có thể ban hành những bản án, quyết định thiếu căn cứ, không phù hợp pháp luật, ảnh hưởng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan