Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự...

Tài liệu Kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự

.PDF
122
1
87

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH TẠ THỊ PHI YẾN KHÁNG CÁO QUÁ HẠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 - NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG Phụ lục 2: ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH Mẫu trang phụ bìa (Khổ 210 x 297 mm) TẠ THỊ PHI YẾN KHÁNG CÁO QUÁ HẠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ NGUYỄN THỊ HOÀI TRÂM TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 6 - NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi là Tạ Thị Phi Yến, xin cam đoan rằng Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học tận tình của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoài Trâm, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Những phân tích, so sánh, bình luận và kiến nghị trong công trình là kết quả của quá trình tiếp cận, học hỏi, đầu tư nghiên cứu một cách nghiêm túc của tác giả. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả khóa luận Tạ Thị Phi Yến DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT BLDS Bộ Luật Dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUY ĐỊNH KHÁNG CÁO QUÁ HẠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...........................................................................6 1.1. Khái niệm kháng cáo quá hạn ...........................................................................6 1.1.1. Kháng cáo ...................................................................................................6 1.1.2. Kháng cáo quá hạn.....................................................................................8 1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay ..............................................................................................10 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 .....................................................10 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 .....................................................11 1.2.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay ...............................................................11 1.3. Chủ thể kháng cáo quá hạn .............................................................................12 1.4. Thời hạn kháng cáo quá hạn ...........................................................................15 1.5. Phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn............................................................21 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................27 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUY ĐỊNH KHÁNG CÁO QUÁ HẠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM .........................................................................................................29 2.1. Về thời hạn kháng cáo quá hạn .......................................................................29 2.2. Về căn cứ xem xét chấp nhận kháng cáo quá hạn ..........................................33 2.3. Về thời hạn mở phiên họp xét kháng cáo quá hạn..........................................46 2.4. Về hệ quả khi người kháng cáo quá hạn rút đơn kháng cáo quá hạn .............49 2.5. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định không chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn..................................................................................................52 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................55 KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................56 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của Đảng và Nhà nước, chất lượng hoạt động tư pháp không ngừng được nâng lên, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên tình trạng án oan sai vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đòi hỏi những biện pháp căn cơ, quyết liệt hơn nữa để hạn chế tình trạng này, nhất là đối với giai đoạn xét xử vụ án. “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo” là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của tòa án Việt Nam. Cùng với việc quy định cụ thể trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong rất nhiều văn bản pháp luật ở nước ta, đặc biệt là trong quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Một trong những biểu hiện của nguyên tắc này là “bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo” và “bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng cáo thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm”. Có thể thấy kháng cáo không chỉ là quyền của các đương sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn là một thủ tục quan trọng để giúp khắc phục những sai lầm trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, góp phần “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao”1. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực thi pháp luật về quyền kháng cáo trên thực tế vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định như thiếu quy định cụ thể, quy định pháp luật chưa bao quát hết những vấn đề xảy ra trên thực tế dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến thời hạn kháng cáo, ủy quyền kháng cáo… làm cho quyền kháng cáo của đương sự chưa được bảo đảm trọn vẹn. Trong đó, phải kể đến nguyên nhân là do Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và văn bản hướng dẫn thi hành về thủ tục kháng cáo đặc biệt là những vấn đề về kháng cáo quá hạn chưa cụ thể, còn tồn đọng nhiều bất cập và chưa gắn liền với việc bảo đảm quyền kháng cáo của đương sự trong tố tụng dân sự như không quy định cụ thể về thời hạn kháng cáo quá hạn, thiếu cơ sở pháp lý làm căn cứ để xem xét kháng cáo quá hạn, thời hạn mở phiên họp kháng cáo quá hạn quá ngắn và mâu thuẫn với quy định về thời hạn niêm yết văn bản tố tụng, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 1 2 chưa quy định cụ thể trường hợp rút kháng cáo quá hạn và khiếu nại quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn… Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định pháp luật về kháng cáo nói chung và kháng cáo quá hạn nói riêng trong tố tụng dân sự dưới cả góc độ pháp lý lẫn thực tiễn áp dụng luôn là vấn đề cần thiết. Thông qua đó, góp phần nêu ra những bất cập còn tồn đọng cũng như xây dựng giải pháp pháp lý hoàn thiện, bảo đảm tốt hơn quyền kháng cáo của đương sự trong tố tụng dân sự nói riêng và trong hoạt động tư pháp nói chung. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp “Kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự” để nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận, những vướng mắc và thực tiễn áp dụng các quy định về kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất kiến nghị mang tính hoàn thiện cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp luật hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về kháng cáo trong tố tụng dân sự được nhiều tác giả quan tâm, đặc biệt là dưới góc độ thực tiễn. Tuy nhiên phần lớn các tác giả nghiên cứu sâu về thủ tục kháng cáo còn kháng cáo quá hạn thì ít được đề cập và chủ yếu được tập trung nghiên cứu dưới góc độ thực tiễn. Các bài viết, tạp chí: Đào Thị Ngọc Thuận (2017), “Vướng mắc khi giải quyết việc xét kháng cáo quá hạn theo quy định của BLTTDS 2015”, Tin hoạt động ngành, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Qua bài viết, tác giả nêu ra vướng mắc trong việc thiếu các quy định cụ thể về một số loại đơn liên quan đến kháng cáo quá hạn, đồng thời đề xuất bổ sung các quy định pháp luật về trường hợp người kháng cáo quá hạn rút đơn kháng cáo quá hạn. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2019), “Hoàn thiện quy định về thủ tục khởi kiện, thủ tục kháng cáo của đương sự trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 08 (384), tr. 52 – 55. Tác giả đã phân tích các quy định pháp luật về thủ tục khởi kiện và thủ tục kháng cáo. Qua những phân tích, đánh giá đó, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục tố tụng và thủ tục kháng cáo nhằm đảm bảo quyền khởi kiện, quyền kháng cáo của đương sự. 3 Trương Thị Diễm My (2021), “Vướng mắc trong việc xét kháng cáo quá hạn theo Điều 275 của BLTTDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân Điện tử. Thông qua việc phân tích một tình huống thực tế về kháng cáo quá hạn tác giả đã nêu ra những vướng mắc trong việc xét kháng cáo quá hạn. Từ đó, tác giả đã đưa ra đề xuất sửa đổi quy định pháp luật liên quan để phù hợp với thực tiễn. Luận văn: Lưu Nguyễn Huy Hoàng (2018), Kháng cáo trong pháp luật tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận văn của mình, tác giả đã tập trung nghiên cứu các tình huống thực tiễn liên quan đến kháng cáo và kháng cáo quá hạn để làm rõ những bất cập, vướng mắc trong các quy định pháp luật có liên quan. Thông qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kháng cáo và kháng cáo quá hạn. Nguyễn Trí Tuyển (2014), Thời hạn tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn của tác giả là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về các loại thời hạn trong tố tụng dân sự. Trong đó, tác giả có đề cập và nghiên cứu về thời hạn kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích nhiều vấn đề bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về các loại thời hạn tố tụng dân sự nói chung và thời hạn kháng cáo nói riêng. Qua đó, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thời hạn tố tụng dân sự và đặc biệt là thời hạn kháng cáo theo pháp luật tố tụng dân sự. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Khóa luận tốt nghiệp “Kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự” của tác giả được thực hiện với mục đích làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy định về kháng cáo quá hạn cũng như phân tích các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định này. Thông qua việc phân tích, đánh giá các vấn đề lý luận giúp tác giả phát hiện ra những mâu thuẫn giữa thực tiễn và quy định pháp luật cũng như những điểm còn hạn chế, chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về kháng cáo quá hạn. Từ đó, tạo cơ sở để tác giả đưa ra những đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về kháng cáo nói chung và kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn về vấn đề kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự. Trong đó nghiên cứu xoay quanh các vấn đề lý luận cơ bản về kháng cáo quá hạn như trình tự, thủ tục kháng cáo quá hạn và quy trình xử lý thực tế đơn kháng cáo quá hạn, việc áp dụng quy định pháp luật trong thực tế của Tòa án đối với kháng cáo quá hạn. Về phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu đối tượng theo các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, cụ thể là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định pháp luật tố tụng hành chính, pháp luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật tố tụng dân sự của một số quốc gia khác như Bộ luật Tố tụng Dân sự Cộng hòa Pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Đạo luật Sức khỏe và An toàn nghề nghiệp của bang Michigan - Hoa Kỳ để làm rõ đối tượng nghiên cứu của đề tài và đưa ra các kiến nghị dựa trên sự tham khảo có chọn lọc. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tác giả vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng làm phương pháp luận. Các phương pháp cụ thể được sử dụng để thu thập, phân tích và xử lý thông tin gồm: - Phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu và nhất là ở Chương 1. Phân tích hướng đến chia nhỏ, xem xét đối tượng cần nghiên cứu dưới các góc độ văn bản, quan điểm tác giả, kinh nghiệm nước ngoài. Sau khi phân tích các tài liệu thông tin, tác giả đưa ra quan điểm của mình, kiến nghị và đề xuất hoàn thiện. - Phương pháp bình luận được áp dụng chủ yếu tại Chương 2 khi nghiên cứu các vấn đề thực tiễn đặc biệt là các quyết định của Tòa án khi áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến đối tượng nghiên cứu. - Ngoài ra, phương pháp so sánh, cụ thể là so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam và nước ngoài như pháp luật Cộng hòa Pháp, pháp luật bang Michigan (Hoa Kỳ), pháp luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại mục 4 Chương 1 và các mục 1 và 2 của Chương 2 để từ đó rút ra những điểm mới, tiến bộ, là cơ sở để Việt Nam học tập, tiếp thu, hoàn thiện. 6. Bố cục tổng quát của đề tài Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục thì nội 5 dung nghiên cứu khóa luận chia làm hai chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quy định kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự 6 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUY ĐỊNH KHÁNG CÁO QUÁ HẠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm kháng cáo quá hạn 1.1.1. Kháng cáo Kháng cáo (appeal) là một thuật ngữ đã có từ lâu trong xã hội và luật pháp Việt Nam. Tại Điều thứ 11 sắc lệnh số 51 của chủ tịch chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 17/4/1946 về việc ấn định thẩm quyền các tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong tòa án có nhắc đến thuật ngữ kháng cáo như sau: “về dân sự và thương sự, toà án đệ nhị cấp có quyền xử chung thẩm những án của toà sơ cấp bị kháng cáo”. Mặc dù đã xuất hiện và tồn tại trong thời gian dài theo sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự nhưng Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) Việt Nam qua các thời kỳ lại không có định nghĩa rõ ràng về khái niệm này. Dưới góc độ ngôn ngữ, “kháng” có nghĩa là “chống lại”, “kháng cáo” được hiểu là “chống án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử lại”2. Theo từ điển Tiếng Việt, kháng cáo là “chống án lên Tòa án cấp trên, yêu cầu xét xử lại”3. Định nghĩa này còn mang tính chung chung, chưa nêu cụ thể đối tượng kháng cáo, phạm vi kháng cáo, thời hạn kháng cáo, cấp Tòa án có thẩm quyền. Còn theo từ điển Luật học, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là “việc những người tham gia tố tụng không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, trong thời hạn mà pháp luật quy định gửi đơn đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại toàn bộ hoặc một phần bản án chưa có hiệu lực pháp luật”4. Nhìn chung, định nghĩa này đã hoàn thiện hơn so với định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt. Tuy nhiên, chủ thể có quyền kháng cáo trong định nghĩa này lại rất rộng (những người tham gia tố tụng). Không phải mọi người tham gia tố tụng đều có quyền kháng cáo và tùy theo ngành luật mà phạm vi được kháng cáo của mỗi người tham gia tố tụng cũng khác nhau. Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012 đưa ra khái niệm kháng cáo như sau: “Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của đương sự và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật Thái Xuân Đệ (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa -Thông tin, Hà Nội, tr. 394. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr. 492. 4 Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp, tr. 416. 2 3 7 trong việc chống lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án dân sự”5. Đến giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2017 định nghĩa kháng cáo được sửa đổi như sau: “Kháng cáo là hoạt động tố tụng của đương sự và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong việc yêu cầu tòa án cấp trên xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm”6. Với giáo trình mới nhất, cụm từ “chống án” được thay thế bằng “yêu cầu tòa án cấp trên xét xử lại”. Nhìn chung, về mặt nội dung, cả hai định nghĩa đều khẳng định kháng cáo là một hoạt động tố tụng của các chủ thể nhất định trong tố tụng nhằm yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án mà bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm này chưa thực sự đầy đủ vì kháng cáo ngoài là một hoạt động tố tụng thì nó còn là một quyền tố tụng quan trọng của người có quyền kháng cáo. Tại giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam của trường Đại học Kiểm sát Hà Nội có định nghĩa về kháng cáo như sau: “Kháng cáo là một quyền tố tụng quan trọng của đương sự và của những chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong việc bày tỏ quan điểm, thái độ không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết lại vụ án.”7. Với định nghĩa này, kháng cáo được nhìn nhận dưới góc độ là một quyền trong tố tụng. Quyền này là của đương sự và những chủ thể khác. Nội dung của quyền này là bày tỏ quan điểm, thái độ không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Kháng cáo ngoài là quyền thì còn là một hoạt động tố tụng quan trọng trong tiến trình tố tụng, vì lẽ đó mà tác giả cho rằng, định nghĩa này chưa thực sự bao quát. Theo tác giả, đối với đương sự và những người có quyền kháng cáo khác, kháng cáo phúc thẩm vừa là một hoạt động tố tụng và là một quyền tố tụng quan trọng trong tiến trình tố tụng dân sự. Kháng cáo là hoạt động tố tụng của đương sự và các chủ thể khác (gửi hoặc nộp đơn kháng cáo) theo quy định của pháp luật trong việc yêu cầu tòa án cấp trên xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp sơ thẩm. Dưới góc độ là một quyền tố tụng, quyền kháng cáo được ghi Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr 305. 6 Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, tr. 309. 7 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 397. 5 8 nhận một cách minh thị tại Điều 271 BLTTDS năm 2015, theo đó “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy, kháng cáo vừa được hiểu dưới dạng danh từ là một quyền tố tụng cũng có thể được hiểu dưới dạng động từ là hành vi thực hiện những thủ tục luật định để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Từ đó, tác giả đưa ra khái niệm kháng cáo như sau: “Kháng cáo là hoạt động tố tụng và là quyền của đương sự và các chủ thể khác theo quy định pháp luật trong việc yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết lại các vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm.” 1.1.2. Kháng cáo quá hạn Thứ nhất, xét xử phúc thẩm có mục đích là: “nhằm thực hiện nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong tố tụng dân sự, để Tòa án cấp trên có thẩm quyền phúc thẩm sẽ xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm việc xét xử giải quyết vụ việc dân sự đúng pháp luật”8. Như vậy, việc chấp nhận kháng cáo của các chủ thể theo luật định là một trong những căn cứ quan trọng để mở ra giai đoạn xét xử phúc thẩm. Vì lẽ đó mà quyền kháng cáo là một trong những quyền có tầm quan trọng đặc biệt của đương sự trong thủ tục tố tụng dân sự. Quyền kháng cáo của đương sự có được đảm bảo hay không phụ thuộc một phần vào thủ tục kháng cáo. Do đó, việc xem xét những kháng cáo quá hạn sẽ góp phần đảm bảo quyền kháng cáo của đương sự nói riêng và quyền tố tụng dân sự nói chung, bảo đảm việc xét xử giải quyết vụ việc dân sự đúng pháp luật. Thứ hai, việc mất quyền kháng cáo do hết thời hạn kháng cáo khiến cho những bản án, quyết định sai sót được thi hành. Điều này không chỉ gây ra những hậu quả to lớn cho đương sự, xã hội mà còn làm mất niềm tin vào công lý, vào hệ thống tư pháp, vào Nhà nước. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, nguyên nhân dẫn đến người có quyền kháng cáo thực hiện kháng cáo quá hạn là do cơ quan tiến hành tố Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 389 - 390. 8 9 tụng thực hiện không đúng quy định pháp luật, vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng như thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng. Vấn đề này được nhiều quyết định chấp nhận, không chấp nhận kháng cáo quá hạn ghi nhận như: Quyết định số 02/2019/QĐ-PT ngày 24/04/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum9, quyết định số 11/2020/QĐ –PT của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ10, quyết định số 01/2021/QĐPT ngày 04/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận11. Cũng không ít trường hợp, cấp sơ thẩm xác định thời hạn kháng cáo quá hạn chưa đúng nên vẫn còn trong trường hợp kháng cáo nhưng cấp sơ thẩm lại cho rằng đã hết thời hạn kháng cáo, đơn cử trường hợp được ghi nhận tại quyết định số 35/2019/QĐ-PT ngày 21/3/2019 của Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp12. Do đó, việc xem xét các kháng cáo quá hạn và chấp nhận kháng cáo quá hạn thỏa mãn các điều kiện luật định còn góp phần khắc phục những sai lầm trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao, nâng cao niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp nói riêng và vào nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung. Theo Đoàn Tấn Minh và Nguyễn Ngọc Điệp, kháng cáo quá hạn “được hiểu là việc kháng cáo được thực hiện sau khi thời hạn kháng cáo (quy định tại Điều 273) đã hết. Nói một cách khác là người kháng cáo đã nộp hoặc gửi đơn kháng cáo đến Tòa án cấp sơ thẩm nhưng đã hết thời hạn kháng cáo vì bất kể lý do gì”13. Theo quy định tại khoản 1 Điều 275 BLTTDS năm 2015, “kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 273 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn”. Như vậy, có thể hiểu kháng cáo quá hạn (overdue appeals)14 là việc kháng cáo được thực hiện sau khi thời hạn kháng cáo đã hết: Đối với các trường hợp thông thường thì sau 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc sau 07 ngày kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của BLTTDS năm 2015; đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta272800t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 31/5/2022. https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta575050t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 02/6/2022. 11 https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta744318t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 02/6/2022. 12 https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta574541t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 02/6/2022. 13 Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Nhà xuất bản Lao động, tr. 242. 14 Khoản 1 Điều 247 BLTTDS năm 2004: “Appeals that are not made within the time limit stipulated in Article 245 of this Code shall be the overdue appeals”, https://vbpl.vn/tw/Pages/vbpqen-toanvan.aspx?dvid=13&ItemID=7853, truy cập ngày 14/6/2022. 9 10 10 quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì sau 15 ngày kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì sau 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Có thể kết luận: “Kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự là kháng cáo quá thời hạn mà pháp luật tố tụng dân sự quy định cho phép người có quyền kháng cáo thực hiện việc kháng cáo.” 1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 Cách mạng tháng Tám thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên vì tình hình chính trị, xã hội đặc biệt, trong một số giai đoạn, việc áp dụng pháp luật giữa hai miền Nam, Bắc vẫn chưa thống nhất, các quy phạm pháp luật về tố tụng dân sự được quy định tản mạn trong nhiều văn bản. Sắc lệnh của chủ tịch chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946 về việc ấn định thẩm quyền các tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong tòa án có quy định tại Điều thứ 11 như sau: “về dân sự và thương sự, toà án đệ nhị cấp có quyền xử chung thẩm những án của toà sơ cấp bị kháng cáo”. Từ thẩm quyền tòa án, có thể suy ra rằng, quyền kháng cáo trong tố tụng dân sự đã được ghi nhận. Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch nước ban hành ngày 22 tháng 5 năm 1950 ngoài quy định về quyền kháng cáo, còn quy định thời hạn kháng cáo nhưng chưa quy định về kháng cáo quá hạn. Với Hiến pháp 1959, luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 14 tháng 7 năm 1960, kèm theo đó là pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương số 18/LCT ngày 30 tháng 3 năm 1961. Trong các văn bản này, thuật ngữ “kháng cáo” cũng không còn được sử dụng mà thay vào đó là thuật ngữ “chống án” và vẫn chưa có quy định về kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự. Năm 1980, Hiến pháp mới được ban hành, tiếp theo đó hàng loạt các văn bản cụ thể hóa Hiến pháp được ban hành, trong đó có Luật tổ chức Tòa án nhân dân (Luật 11 số 3-LCT/HĐNN7) ngày 03 tháng 7 năm 1981. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 cho phép đương sự có quyền kháng cáo. Song pháp luật tố tụng dân sự thời kỳ này vẫn chưa quy định cụ thể về thủ tục kháng cáo cũng như chưa có quy định về kháng cáo quá hạn. Như vậy pháp luật tố tụng dân sự giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 mặc dù đã ghi nhận quyền kháng cáo của đương sự, song vẫn chưa quy định về kháng cáo quá hạn. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 Ngày 7 tháng 12 năm 1989 Hội đồng Nhà nước đã ban hành pháp lệnh số 27LCT/HĐNN8 về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1990. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên pháp điển hóa và phát triển toàn bộ các quy định về tố tụng dân sự trong các văn bản tản mạn của giai đoạn trước đó. Giai đoạn này, pháp luật tố tụng dân sự vẫn chưa có định nghĩa kháng cáo quá hạn. Mặc dù, các quy định về kháng cáo quá hạn chưa thực sự đầy đủ nhưng đã được chú ý, xem trọng. Cụ thể, khoản 3 Điều 59 pháp lệnh số 27LCT/HĐNN8 ngày 07 tháng 12 năm 1989 của Hội đồng nhà nước quy định: “nếu kháng cáo quá hạn mà có lý do chính đáng thì thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày trở ngại cho việc kháng cáo, kháng nghị không còn nữa”. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 66 pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 năm 1989 còn quy định: “Tòa án cấp phúc thẩm chỉ cần ra quyết định về việc xét kháng cáo quá hạn mà không mở phiên tòa”. Như vậy, có thể thấy pháp luật tố tụng dân sự giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 đã quan tâm, quy định về kháng cáo quá hạn. Tuy chưa được quy định một cách tập trung, chi tiết nhưng đã tạo cơ sở để phát triển và hoàn thiện các quy định về kháng cáo quá hạn trong pháp luật tố tụng dân sự. 1.2.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay Ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, pháp điển hóa các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, khắc phục những hạn chế về nguyên tắc và cơ chế giải quyết trong tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, khắc phục được sự tản mạn, chồng chéo, mâu thuẫn trùng lặp, thiếu đồng bộ trong các văn bản pháp luật tố tụng.15 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn về kháng cáo quá 15 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (8), tr. 16. 12 hạn. Kháng cáo quá hạn được quy định chủ yếu tại Điều 247 BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 và được hướng dẫn bởi nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 3 ngày 12 tháng 2012 về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp Phúc thẩm” của bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự. Bộ luật Tố tụng Dân sự được Quốc hội Khóa XIII thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 (BLTTDS năm 2015) đã có nhiều quy định mới, tiến bộ đặc biệt là các quy định về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nói chung và các quy định về kháng cáo quá hạn nói riêng. Có thể nói đến BLTTDS năm 2015, vấn đề kháng cáo quá hạn đã được quan tâm điều chỉnh, quy định cụ thể hơn so với các BLTTDS trước đây. BLTTDS năm 2015 đã dành ba điều luật là Điều 274, Điều 275 và Điều 276 để quy định các vấn đề liên quan đến kháng cáo quá hạn. Tuy nhiên bên cạnh những quy phạm chi tiết, cụ thể cũng còn nhiều quy phạm chưa thực sự rõ ràng, thiếu chi tiết, gây khó khăn cho các chủ thể liên quan trong trường hợp có phát sinh kháng cáo quá hạn. Nhìn chung, pháp luật tố tụng dân sự giai đoạn từ năm 2005 đến nay đã có nhiều quy định tiến bộ về kháng cáo quá hạn, góp phần bảo vệ quyền kháng cáo, quyền tố tụng trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh đó, pháp luật về kháng cáo quá hạn chưa thực sự bao quát thực tế, một số quy phạm pháp luật về kháng cáo quá hạn thiếu chi tiết, cụ thể, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. 1.3. Chủ thể kháng cáo quá hạn Theo quy định tại khoản 1 Điều 275 BLTTDS năm 2015 thì kháng cáo quá thời hạn luật định là kháng cáo quá hạn. Như vậy, kháng cáo quá hạn có bản chất là kháng cáo. Do đó, chủ thể có quyền kháng cáo quá hạn cũng là những chủ thể có quyền kháng cáo. Nếu như trong tố tụng hình sự, chủ thể có quyền kháng cáo là những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan đến bản án, quyết định sơ thẩm và phạm vi kháng cáo của từng chủ thể sẽ phụ thuộc vào tư cách của từng chủ thể đó16. Thì trong pháp luật tố tụng dân sự, chủ thể có quyền kháng cáo quá hạn là cũng là Lê Thị Thùy Dương (2015), “Bàn về một số vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo”, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, số 03 (88), https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=eadbafe4-6765-4571-af5f-5532038f4c5, truy cập ngày 19/6/2022. 16 13 chủ thể có quyền, lợi ích liên quan tới bản án, quyết định sơ thẩm, căn cứ vào Điều 271 BLTTDS năm 2015 thì bao gồm: (i) Đương sự, (ii) Người đại diện hợp pháp của đương sự, (iii) Cơ quan tổ chức, cá nhân đã khởi kiện vụ án bảo vệ lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của pháp luật. So với quy định tại BLTTDS năm 2004 người có quyền kháng cáo là đương sự, đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức, thì BLTTDS năm 2015 đã hoàn thiện hơn, khi quy định cụ thể, rõ ràng về các đối tượng có quyền kháng cáo. Vì chủ thể có quyền kháng cáo quá hạn cũng là những chủ thể có quyền kháng cáo nên người kháng cáo quá hạn cũng phải thỏa mãn những điều kiện luật định đối với người kháng cáo. Theo quy định tại Điều 272 BLTTDS năm 2015, cá nhân có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ có thể tự mình làm đơn kháng cáo hoặc ủy quyền cho người khác đại diện cho mình thực hiện việc kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của đương sự kháng cáo. Ở phần cuối đơn kháng cáo, đương sự kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp đương sự không tự mình làm đơn kháng cáo thì có thể uỷ quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo, trừ kháng cáo bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Trong trường hợp này, tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền có kháng cáo; họ, tên, địa chỉ của đương sự uỷ quyền kháng cáo và văn bản uỷ quyền cho người đại diện của mình kháng cáo. Đồng thời, ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ. Ngoài ra, đương sự là người từ đủ 15 tuổi đến đủ 18 tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình là đương sự trong vụ án tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Trong trường hợp người kháng cáo là cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện việc kháng cáo. Nếu người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức tự mình làm đơn kháng cáo thì ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó, trường hợp doanh nghiệp kháng cáo thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp. Nếu người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không tự mình làm đơn kháng cáo mà 14 ủy quyền cho người khác thực hiện hiện việc kháng cáo thì việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong đơn kháng cáo, tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền, của đương sự là cơ quan, tổ chức ủy quyền; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của đương sự là cơ quan, tổ chức ủy quyền; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó và văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ. Ngoài ra, trong trường hợp người kháng cáo, người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức và người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo thì việc ủy quyền này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Trên thực tế, còn nhiều sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 201517. Nếu đương sự ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án Nhân dân các cấp; được thay mặt mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án thì có được thực hiện kháng cáo, kháng cáo quá hạn hay không? Về vấn đề trên, hiện nay tồn tại hai quan điểm khác nhau như sau18: “Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc ủy quyền giữa các bên là ủy quyền toàn quyền quyết định việc giải quyết vụ án ở Tòa án nhân dân các cấp với thời hạn thỏa Lê Thị Hồng Hạnh (2020), “Bàn về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015”, https://vksndtc.gov.vn/cong-tac-kiem-sat/ban-ve-uy-quyen-khang-cao-theo-quy-dinh-tai-khoan--d10t8306.html?Page=2#new-related, truy cập ngày 17/5/2022. 18 Kim Quỳnh (2018), “Ủy quyền kháng cáo trong BLTTDS 2015”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phapluat/uy-quyen-khang-cao-trong-blttds-2015, truy cập ngày 06/6/2022. 17 15 thuận là cho đến khi giải quyết xong vụ án. Do đó, giữa các bên không phải làm lại văn bản ủy quyền kháng cáo. Quan điểm thứ hai cho rằng: Với quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS 2015 thì đương sự muốn ủy quyền kháng cáo phải làm văn bản ủy quyền kháng cáo vì người được ủy quyền chỉ được quyền kháng cáo khi trong văn bản ủy quyền ghi rõ nội dung người ủy quyền ủy quyền cho người được ủy quyền kháng cáo”. Tương tự, với trường hợp kháng cáo quá hạn thì các bên phải lập văn bản về việc ủy quyền kháng cáo quá hạn. Như vậy, từ những phân tích trên có thể kết luận rằng, chủ thể có quyền kháng cáo quá hạn bao gồm: Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự và cơ quan tổ chức, cá nhân đã khởi kiện vụ án bảo vệ lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của pháp luật. Nhìn chung pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã hoàn thiện hơn trong việc quy định các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng cáo quá hạn. 1.4. Thời hạn kháng cáo quá hạn Thời hạn nói chung là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 182 của BLTTDS năm 2015, thời hạn tố tụng là: “một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện hành vi tố tụng do Bộ luật này quy định”. Đồng thời, thời hạn tố tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra. Trong khi thời hạn dân sự có thể do pháp luật quy định hoặc được xác lập trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên liên quan thì đối với thời hạn tố tụng dân sự các đương sự và các bên liên quan khác không có quyền thỏa thuận thời hạn tố tụng mà thời hạn này chỉ do pháp luật quy định hoặc do người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng ấn định căn cứ vào các quy định của pháp luật.19 Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành lại không quy định thời hạn kháng cáo quá hạn: không xác định khoảng thời gian mà có phát sinh kháng cáo quá hạn thì sẽ được xem xét hoặc ngoài khoảng thời gian đó thì không được xem xét nữa. Việc chấp nhận hay không chấp nhận căn cứ vào lý do chứ không căn cứ vào thời điểm. Hay nói cách Nguyễn Trí Tuyển (2014), Thời hạn tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 16. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan