Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động của viện kiểm sát nhân dân – qua thực tiễn tỉnh thừa thiên huế...

Tài liệu Hoạt động của viện kiểm sát nhân dân – qua thực tiễn tỉnh thừa thiên huế

.PDF
68
55
145

Mô tả:

Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân – Qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế Đặng Trần Sơn Khoa Luật Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 Người hướng dẫn: GS.TS Phạm Hồng Thái Năm bảo vệ: 2012 Abstract: Nghiên cứu cơ sở pháp lý về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011 (01/01/2007 đến 31/12/2011). Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát nhân dân- qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế Keywords: Viện kiểm sát nhân dân; Thừa Thiên Huế; Lịch sử nhà nước và pháp luật Content MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới đất nước với ưu tiên cốt lõi là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa đất nước ta thoát khỏi sự khủng hoảng kinh tế và từng bước cải thiện được đời sống vật chất cho nhân dân. Những thành tựu của quá trình đổi mới không chỉ dừng lại ở tốc độ phát triển kinh tế, sự ổn định của đời sống xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia, độc lập chủ quyền của dân tộc mà còn được thể hiện trong các thành tựu về văn hóa, xã hội, công tác giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và bảo đảm an sinh xã hội v.v... Tuy nhiên, song song với những thành tựu đạt được thì những biểu hiện của mặt trái của nên kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ rệt và thường xuyên trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng vi phạm pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý nhà nước có chiều hướng gia tăng, tình trạng vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay đang diễn biến phức tạp trong khi đó năng lực kiểm soát lĩnh vực này của Nhà nước tỏ ra kém hiệu quả. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều công trình khoa học, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến năng lực kiểm soát tình trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính của Nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội là do pháp luật trong lĩnh vực này vẫn chưa được điều chỉnh bằng đạo luật có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan Quốc hội đại diện quyền lợi của người dân ban hành, mà vẫn còn nằm rải rác ở các văn bản dưới luật, chủ yếu do cơ quan hành pháp ban hành. Sự chồng chéo, sự mâu thuẫn, cộng với sự cục bộ của các ban ngành trong cơ quan nhà nước ngày càng một gia tăng đã làm tầm trọng thêm vấn đề xử lý các hành vi vi phạm hành chính. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của Đảng về mục tiêu cải cách bộ máy nhà nước nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, năng lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước và xử lý hành vi vi phạm quản lý hành chính nhà nước nói riêng, các tổ chức, cơ quan và cá nhân đã tăng cường việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính nhằm xác định những nguyên nhân tác động tiêu cực đến lĩnh vực này cũng như cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội. Việc nghiên cứu một cách tổng thể các phương diện của các biện pháp xử lý hành chính khác nhằm cung cấp hệ thống cơ sở lý luận cũng như xác định các nguyên nhân trực tiếp tác động tiêu cực đến hiệu quả áp dụng các biện pháp hành chính khác phục vụ cho nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính là hoạt động khoa học có tính cấp bách và có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động xây dựng pháp luật cũng như yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài "Các biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Pháp luật Việt Nam về các biện pháp xử lí hành chính khác là một nội dung của pháp luật về xử lí vi phạm hành chính, khi nghiên cứu cần đặt nó trong tổng thể các quy định pháp luật về xử lí vi phạm hành chính. Liên quan đến lĩnh vực này có thể kể đến một số tác giả cùng với các công trình khoa học của họ như sau: Luận án phó tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thư: "Chế tài hành chính- Lí luận và thực tiễn", bàn về những vấn đề lí luận và thực tiễn của chế tài hành chính nói chung; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Trọng Bình (2002): "Hoàn thiện quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính", đi vào nghiên cứu những quy định pháp luật về riêng nhóm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Ngọc Bích (2003): "Hoàn thiện pháp luật về xử lí hành chính với người chưa thành niên", cũng đã đề cập phần nào đến một số nội dung về các biện pháp xử lí hành chính khác như biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở chữa bệnh nhưng chủ yếu đề tài bàn về khía cạnh xử lí đối với người chưa thành niên và bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên. Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Đình Thảo: "Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội", chủ yếu nói về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cụ thể; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thủy: "Thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính", nhấn mạnh đến vấn đề thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính... những đề tài trên nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chỉ mới dừng lại ở đề cập khái quát hoặc gợi mở vấn đề về các biện pháp xử lí hành chính khác, chưa nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể, toàn diện về nhóm các biện pháp này. Trực tiếp đề cập nội dung các biện pháp xử lí hành chính khác, có thể kể đến một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả. Đầu tiên phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp (2009) "Các biện pháp xử lý hành chính khác và 2 việc bảo đảm quyền con người" do ThS. Đặng Thanh Sơn làm chủ nhiệm đề tài cùng nhóm nghiên cứu. Đây là công trình có tính quy mô và khá chi tiết về các biện pháp pháp xử lí hành chính khác, nhưng chủ yếu nhìn nhận, phân tích quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng dưới góc độ đối chiếu pháp luật quốc tế và bảo đảm quyền con người. Ngoài ra có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như: "Về các biện pháp xử lí hành chính khác: Thực tiễn và giải pháp", của Hoàng Thị Kim Quế, đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội; "Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo Pháp luật Việt Nam", của Lê Ngọc Thạch, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1/2006; "Những vấn đề đổi mới pháp luật về vi phạm hành chính ở nước ta", của Nguyễn Cửu Việt, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2009); "Quyền công dân, quyền con người và chỗ đứng của các biện pháp xử lí hành chính khác trong pháp luật về vi phạm hành chính", của Trần Thanh Hương, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2005… Các công trình này phần nào đã đi vào đề cập đến một số điểm hạn chế, bất cập của pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác song bàn đến với dung lượng không đáng kể và chưa toàn diện, triệt để về cả vấn đề lí luận và thực tiễn áp dụng của nhóm biện pháp này. Đề tài "Các biện pháp xử lí hành chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay" ở cấp độ luận văn thạc sĩ sẽ được nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ và có tính hệ thống. Bên cạnh đó, tác giả có ý thức kế thừa kết quả khoa học của những công trình đã công bố và kinh nghiệm thực tiễn có liên quan. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật hiện hành về các biện pháp xử lý hành chính khác trong mối quan hệ với hệ thống lý luận định hướng hoàn thiện pháp luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, công trình nghiên cứu đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ: - Nghiên cứu những vấn đề lí luận về các biện pháp xử lí hành chính khác nhằm xây dựng khái niệm mang tính khoa học về các biện pháp xử lí hành chính khác, tìm ra các đặc trưng riêng và vai trò các biện pháp xử lí hành chính khác trong việc đấu tranh xử lí hành chính và bảo vệ trật tự xã hội, an ninh đất nước. - Xác định các yêu cầu cơ bản trong việc xây dựng và áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác nhằm đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời bảo đảm quyền tự do, quyền con người, phù hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện qua việc phân tích các số liệu thống kê về thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác trong những năm qua. - Đề xuất được những kiến nghị, những giải pháp xác đáng, khoa học có tính khả thi cho việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về định hướng xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 3 Nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính khác. Nghiên cứu thực trạng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Đây là chủ đề rất rộng và phức tạp, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp xử lý hành chính khác - những biện pháp ngoài biện pháp xử phạt hành chính được quy định tại Điều 22 Pháp lệnh Xử lí vi phạm hành chính năm 2002; phân tích, đánh giá một cách toàn diện về quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về các biện pháp xử lý hành chính khác để từ đó tìm ra những điểm tích cực, hạn chế, đề xuất phương hướng và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về nhóm các biện pháp này. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để thấy sự hình thành, phát triển của pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính ở Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu, suy luận lôgic được sử dụng nhằm lí giải các vấn đề lí luận, giúp cho mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp lí và chưa hợp lí của các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó đưa ra được kết luận có tính khoa học và nổi bật về vấn đề. Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được có thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác, đó là cơ sở chính xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lí, khả thi. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là một đề tài nghiên cứu trực tiếp và tương đối toàn diện về các biện pháp xử lý hành chính khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luận văn xác định được những yếu tố cơ bản tác động đến quy định pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác, đồng thời cũng đưa ra được những yêu cầu cụ thể trong việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật nhóm biện pháp xử lí hành chính khác. Luận văn đã đưa ra bức tranh toàn cảnh dưới nhiều góc nhìn khác nhau về thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác, chỉ ra những điểm chưa hợp lí trong quy định pháp luật, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các biện pháp. Từ đó, tác giả đã xác định được một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về các biện pháp xử lý hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về các biện pháp xử lý hành chính khác trong pháp luật Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. 4 Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH KHÁC TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Quan niệm về các biện pháp xử lý hành chính 1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lí hành chính Theo quy định của pháp luật hiện hành, khái niệm "xử phạt vi phạm hành chính" cùng với các biện pháp xử lý hành chính khác được gọi chung là "xử lý vi phạm hành chính". Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: "Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác". Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và năm 2002 đều không đưa ra định nghĩa mang tính khoa học về xử phạt hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác mà chỉ quy định trực tiếp những hình thức, biện pháp thuộc nội hàm của các chế định này. Xét về phương diện lí luận, "cưỡng chế hành chính là tổng hợp các biện pháp do luật hành chính quy định mà Nhà nước áp dụng để tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm lí, tư tưởng và hành vi của cá nhân hoặc tổ chức, buộc các chủ thể đó phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lí nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lí những hành vi trái pháp luật, đảm bảo trật tự và kỉ luật trong quản lí nhà nước". 1.1.2. Khái niệm biện pháp xử lí hành chính khác Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định "Các biện pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 của Pháp lệnh này". Để hiểu rõ hơn về bản chất của nhóm biện pháp này, cần làm rõ các đặc trưng của các biện pháp xử lí hành chính khác, làm cơ sở lí luận đối chiếu pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng tìm ra những điểm hạn chế và phát huy những ưu điểm tiến tới hoàn thiện hệ thống các biện pháp này. Các đặc điểm của biện pháp xử lí hành chính khác - Các biện pháp xử lí hành chính khác có các đặc điểm chung của biện pháp cưỡng chế hành chính Nhà nước: + Tính pháp lí: Các biện pháp xử lí hành chính khác cũng như các biện pháp cưỡng chế hành chính được pháp luật hành chính quy định cụ thể về loại biện pháp, thẩm quyền, trường hợp, đối tượng, thủ tục và phạm vi áp dụng. + Các biện pháp xử lí hành chính do các cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng. Nghĩa là, không phải bất kì cơ quan quản lí nhà nước nào cũng có thẩm quyền áp dụng mà chỉ những chủ thể nhất định được Nhà nước trao quyền. + Các biện pháp xử lí hành chính áp dụng trong cả trường hợp có vi phạm hành chính hoặc chưa đủ dấu hiệu cấu thành vi phạm hành chính nhưng vì mục đích ngăn chặn, phòng ngừa, giáo dục. + Các biện pháp xử lí hành chính khác được áp dụng theo thủ tục hành chính chặt chẽ, công khai, minh bạch do các quy phạm thủ tục hành chính quy định. - Các biện pháp xử lí hành chính khác có các đặc điểm riêng: 5 Thứ nhất: Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác là cá nhân - công dân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh trật tự, an toàn xã hội trên lãnh thổ Việt Nam nhưng chưa đến mức phải xử lí hình sự. Thứ hai: Các biện pháp xử lí hành chính khác do chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền quyết định. Thứ ba: Các biện pháp xử lí hành chính khác được áp dụng theo thủ tục hành chính. Khác với các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính được pháp luật quy định đơn giản, nhanh chóng, biện pháp xử lí hành chính khác tiến hành một cách chặt chẽ, qua nhiều khâu xét duyệt với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác nhau. Thứ tư: Kết quả áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác được thể hiện bằng quyết định áp dụng các biện pháp xử lí và đối tượng bị áp dụng chịu sự quản lí và hạn chế trực tiếp một số quyền tự do nhất định. Xuất phát từ lập luận trên, có thể định nghĩa về các biện pháp xử lí hành chính khác như sau: Biện pháp xử lí hành chính khác là một loại biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt được áp dụng đối với công dân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức phải xử lí hình sự, theo thẩm quyền, thủ tục được pháp luật hành chính quy định. 1.1.3. Cơ sở áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác Nếu như các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính chỉ được áp dụng khi có vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính, do đó chỉ cần xác định được chính xác cấu thành các hành vi vi phạm cụ thể, đánh giá đúng tính chất, mức độ xâm hại của nó để lựa chọn các biện pháp xử phạt một cách đúng đắn, phù hợp, đúng pháp luật. Cơ sở áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác là hành vi vi phạm pháp luật nói chung về an ninh trật tự, an toàn xă hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. 1.1.4. Yếu tố cơ bản tác động đến pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác * Yếu tố chính trị Các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng luôn có sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Pháp luật về các biện pháp cưỡng chế hành chính cũng bị chi phối và phụ thuộc nhiều vào yếu tố chính trị. * Yếu tố kinh tế- văn hóa- xã hội Pháp luật là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng phải luôn thay đổi để phù hợp với cơ sở hạ tầng, các quan hệ kinh tế trong mỗi thời kì. Ăngghen cũng chỉ ra vấn đề có tính quy luật rằng: Quá trình của sự phát triển pháp luật chủ yếu chỉ là chỗ, ban đầu cần loại bỏ những mâu thuẫn do việc trực tiếp chuyển các quan hệ kinh tế thành các nguyên tắc pháp luật và xác lập một hệ thống pháp luật hài hòa; rồi sau đó, dưới ảnh hưởng và sức tác động của sự phát triển kinh tế tiếp theo lại thường xuyên phá vỡ hệ thống đó và kéo nó vào những mâu thuẫn mới. * Các yếu tố khác từ bên ngoài: + Pháp luật quốc tế Việt Nam ta đã và đang hòa cùng quá trình hội nhập quốc tế, là thành viên của các Công ước quốc tế về quyền con người, nghiêm chỉnh tuân thủ các Điều ước quốc tế đã kí kết. Chính vì vậy, pháp luật quốc tế mà đặc biệt là các quy định của các Điều ước quốc tế có liên quan như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, các Công ước quốc tế về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, công ước về quyền trẻ em… 1.2. Mục đích, vai trò của các biện pháp xử lý hành chính khác Các biện pháp xử lí hành chính khác áp dụng nhằm hướng đến những mục đích sau: 6 Thứ nhất: Các biện pháp xử lí hành chính khác có mục đích giáo dục, chú ý cải tạo tư tưởng, coi trọng các mối quan hệ của người bị áp dụng với cộng đồng, gia đình và xã hội. Thứ hai: Các biện pháp xử lí hành chính khác được áp dụng nhằm mục đích trừng phạt đối với người vi phạm. Thứ ba: Các biện pháp xử lí hành chính khác được áp dụng nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn ngừa khả năng tái phạm ở họ. Thứ tư: Việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác có vai trò to lớn trong việc bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, khôi phục trật tự quản lí nhà nước, trật tự pháp luật. 1.3. Yêu cầu đối với việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính khác Để đáp ứng yêu cầu ngăn ngừa, đấu tranh vi phạm pháp luật, giáo dục người vi phạm và bảo đảm pháp chế, bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền con người và các Điều ước quốc tế có liên quan, việc quy định và áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác phải được thực hiện trên cơ sở một số yêu cầu sau đây. 1.3.1. Yêu cầu đối với việc xây dựng pháp luật các biện pháp xử lý hành chính khác Thứ nhất: Các biện pháp xử lí hành chính khác phải được quy định bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ hai: Việc quy định các biện pháp phải xuất phát từ thực tiễn quản lí hành chính nhà nước và yêu cầu đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp luật trong từng giai đoạn. Thứ ba: Pháp luật cần quy định cụ thể, chặt chẽ về thẩm quyền, thủ tục, các trường hợp và giới hạn áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác. Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng. Thứ tư: Việc quy định các biện pháp xử lí hành chính khác phải đảm bảo dân chủ, quyền công dân, quyền con người, phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan. Thứ năm: Hệ thống các biện pháp xử lí hành chính phải được quy định thống nhất, đồng bộ, mang tính ổn định. Ngoài ra, hệ thống các biện pháp xử lí hành chính mang tính ổn định. Việc bổ sung, sửa đổi, thay thế, hủy bỏ một biện pháp xử phạt nào đó hoặc mối liên hệ giữa các chế tài không phải phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà làm luật mà phải xuất phát từ thực tiễn tình hình biến đổi khách quan của đời sống kinh tế - xã hội, từ thực tiễn đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, từ nhu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. 1.3.2. Yêu cầu đối với việc áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính khác * Yêu cầu hợp pháp - Các biện pháp xử lí hành chính phải được áp dụng đúng, có cơ chế áp dụng phù hợp với từng đối tượng nhằm đạt mục đích răn đe, giáo dục, cảm hóa đối tượng. - Các biện pháp xử lí hành chính khác phải áp dụng đúng thẩm quyền. - Việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính phải được thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. - Áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác phải trong thời hạn, thời hiệu do pháp luật quy định. - Một yêu cầu khác quan trọng khác là kết quả của việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác phải được thực hiện công khai, chính thức cho các đối tượng có liên quan, gia đình, địa phương và được bảo đảm trên thực tế. * Yêu cầu hợp lí 7 Thứ nhất: Cần lựa chọn biện pháp xử lí hành chính phù hợp và có hiệu quả nhất trong số các biện pháp được áp dụng. Thứ hai: Yêu cầu bảo đảm tính dân chủ, minh bạch trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Thứ ba: Quá trình áp dụng và tổ chức thực hiện các biện pháp xử lí hành chính khác phải đảm bảo tính nhân đạo, thực hiện đầy đủ quyền công dân, quyền con người, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của đối tượng bị áp dụng. Thứ tư: Quyết định áp dụng các biện pháp xử lí vi phạm hành chính khác phải có tính khả thi và được tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả trên thực tế. Kết luận chƣơng 1 Các biện pháp xử lí hành chính khác có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Việc hiểu rõ các các vấn đề khái quát chung về các biện pháp xử lí hành chính, làm sáng tỏ khái niệm, đặc trưng các biện pháp, đồng thời làm rõ cơ sở áp dụng, các yếu tố tác động tới việc quy định pháp luật cũng như mục đích, vai trò của loại biện pháp này, từ đó đặt ra những yêu cầu trong việc quy định và áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác có ý nghĩa lớn. Nó sẽ là tiền đề, cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định pháp luật cụ thể, hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác tạo công cụ pháp lí hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định trật tự an ninh xã hội và lộ trình hội nhập quốc tế, bảo đảm dân chủ, quyền công dân, quyền con người. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH KHÁC 2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính khác 2.1.1. Hệ thống các biện pháp xử lí hành chính khác Hiện nay, hệ thống các biện pháp xử lí hành chính khác được quy định trong chương III Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (Sửa đổi, bổ sung 2008) (sau đây gọi là Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002) gồm có bốn biện pháp bao gồm: Giáo dục tại xã, phường thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh. Các biện pháp xử lí hành chính khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và do hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Hiện nay hệ thống các biện pháp xử lí hành chính qua một thời gian thực hiện đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn. Các biện pháp xử lí hành chính được quy định trong hệ thống văn bản khá đồ sộ từ Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến các Nghị định của Chính phủ, các thông tư hướng dẫn nhưng nhiều vấn đề vẫn chưa rõ ràng, minh bạch, phức tạp và khó khăn cho việc hiểu và vận dụng các quy định trong thực tiễn. Một trong những hạn chế, bất cập chủ yếu trong các quy định hiện hành về các biện pháp xử lí hành chính khác là sự chưa phù hợp giữa một số quy định của văn bản hướng dẫn Pháp lệnh với các quy định của bản thân Pháp lệnh. Đây là một trong những nguyên nhân của sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác. Và cũng là nguyên nhân của hiệu quả thấp trong việc áp dụng, tổ chức thực hiện các biện pháp xử lí hành chính khác trên thực tế. 2.1.2. Đối tượng áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác 8 Quy định về đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác cũng còn nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc cần phải nghiên cứu sửa đổi hoàn thiện hơn, phù hợp với pháp luật quốc tế và đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch, đảm bảo pháp chế, tính nghiêm minh của pháp luật và thuận tiện trong quá trình áp dụng. Thứ nhất, về độ tuổi chịu trách nhiệm hành chính, pháp luật xử lí vi phạm hành chính quy định độ tuổi tối thiểu bị áp dụng các biện pháp xử lí vi phạm hành chính là "người từ đủ 12 tuổi…". Việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hành chính từ đủ 12 tuổi trở lên là chưa hợp lí và không phù hợp với pháp luật quốc tế. Thứ hai, quy định đối tượng áp dụng giữa các biện pháp còn có sự chồng lấn, không đồng bộ, vướng mắc trong việc áp dụng. Thứ ba, đối tượng có thể bị áp dụng các biện pháp khác nhau, dựa trên tiêu chí "nơi cư trú", không căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm là không hợp lí và bất bình đẳng. Thứ tư, một số khái niệm liên quan đến đối tượng áp dụng "trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, tính chất thường xuyên, không có nơi cư trú nhất định.." không mang tính pháp lí, phi định lượng, chưa rõ ràng, mang tính định tính, khó xác định trong thực tế cuộc sống và dễ gây nên việc áp dụng tùy tiện. Thứ năm, quy định Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính về đối tượng bị áp dụng các biện pháp còn quá khái quát, chưa rõ ràng, cụ thể nên có hướng mở rộng đối tượng ở nghị định chưa đúng tinh thần pháp lệnh. Cuối cùng, quy định về đối tượng là người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đối với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đối với biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh; đối tượng chỉ đơn thuần là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên cũng cần phải xem xét. 2.1.3. Thẩm quyền xem xét áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác Việc quy định về chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác khá rộng, việc quy định từng loại chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khác nhau là phù hợp với các loại đối tượng. Tuy vậy, cũng cần xem xét một số vấn đề còn hạn chế, chưa phù hợp về thẩm quyền áp dụng các biện pháp này. Trước hết, việc giao cho chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp- cá nhân đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có quyền ra phán quyết quyết định áp dụng biện pháp tước, hạn chế quyền tự do của công dân thiếu một cơ chế công khai, dân chủ, bình đẳng Hai là, việc Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp xem xét ra quyết định còn mang tính hình thức. Chủ tịch Ủy ban nhân dân không tiến hành xem xét áp dụng biện pháp với từng đối tượng một cách trực tiếp mà trên cơ sở hồ sơ và biên bản cuộc họp và ý kiến của Hội đồng tư vấn. Ba là, để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định về sự tham gia của Hội đồng tư vấn giúp chủ tịch Ủy ban nhân dân trong việc ra quyết định, tuy nhiên quy định về vai trò, nhiệm vụ của hội đồng tư vấn chưa rõ ràng, cụ thể. Thẩm quyền quy định có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, tuy nhiên chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức; chưa quy định cơ quan đầu mối, chịu trách nhiệm chính trong việc áp dụng các biện pháp, lẫn lộn trách nhiệm cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội. 2.1.4 Thủ tục áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác Thủ tục xem xét áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác hiện nay vẫn còn những bất cập nhất định, chưa thật sự đảm bảo tính công khai, minh bạch, chưa đảm bảo dân chủ và 9 thiếu vắng một số cơ chế đảm bảo quyền con người trong việc áp dụng những biện pháp giáo dục, chữa bệnh tập trung nghiêm khắc, hạn chế quyền tự do của đối tượng bị áp dụng, thiếu cơ chế giám sát, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền. Quy định về thủ tục vẫn chưa đảm bảo tính dân chủ, quyền công dân và pháp luật quốc tế. Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính không có quyền tham gia, phát biểu ý kiến; cũng không có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật với đối tượng là người chưa thành niên, người giám hộ, luật sư. Đây chính là một trong các điểm hạn chế lớn của thủ tục áp dụng các biện pháp xử lí hành chính. Thủ tục áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác đã quy định một cách khá chi tiết, cụ thể nhưng ta thấy quy định hiện hành còn khá rườm rà, phức tạp mà lại không hiệu quả, không dân chủ, chưa đảm bảo tính kịp thời, linh hoạt, tiết kiệm. Về vấn đề thời hiệu, thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lí hành chính khác cũng chưa phù hợp. 2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác ở Việt Nam 2.2.1. Thực tiễn về việc áp dụng pháp luật các biện pháp xử lí hành chính khác Trên cơ sở phân tích số liệu báo cáo của một số địa phương và các ngành, nhận thấy tình hình vi phạm pháp luật và việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính với các đối tượng vi phạm ngày một gia tăng: Từ năm 2002 đến năm 2009, công an các cấp địa phương đã lập hồ sơ, tham mưu cho Hội đồng tư vấn, chính quyền địa phương các cấp ra quyết định áp dụng các biện pháp xử lí hành chính: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn 158.450 đối tượng; đưa vào trường giáo dưỡng 17.781 đối tượng; đưa vào cơ sở giáo dục 33.109 đối tượng. Số đối tượng chưa thi hành là 6.259 đối tượng do bỏ trốn, được miễn, hoãn. Cũng theo báo cáo của Ủy ban pháp luật của Quốc hội ngày 18/9/2007 cả nước có 4 trường Giáo dưỡng, từ năm 2002 đến nay tổ chức được 256 lớp với 12.353 lượt học sinh; các cơ sở giáo dục hiện nay bộ công an quản lí 7 cơ sở giáo dục với 4.556 cho trại viên, 84 cơ sở chữa bệnh tiếp nhận cai nghiện phục hồi cho 82.621 lượt người nghiện ma túy, chữa trị cho khoảng 17.133 lượt gái mại dâm. 2.2.2. Thực tiễn tổ chức và thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác Một trong những điểm bất cập trong việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính là chế độ sinh hoạt, học tập, khám chữa bệnh nhìn chung còn thấp, chưa đảm bảo ý nghĩa nhân văn của biện pháp này, chưa thể hiện đầy đủ tinh thần các quy định các công ước quốc tế, đảm bảo đầy đủ nhu cầu thỏa đáng để từ đó có thể giáo dục, cảm hóa họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra, về cơ sở vật chất cũng còn nhiều thiếu thốn, không đảm bảo nhu cầu cho việc quản lí, giáo dục đối tượng. Không chỉ vậy, quy định về đội ngũ nhân sự, đội ngũ cán bộ giáo dục trong các cơ sở chưa thể hiện rõ đảm bảo yêu cầu tối thiểu của cơ sở giáo dục tập trung là phải có nhà giáo dục, giảng viên dạy nghề, nhân viên tư vấn, nhân viên công tác xã hội, chuyên gia tâm thần và trị liệu tâm lí, thiếu cán bộ chuyên môn được đào tạo; trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ở các cơ sở hạn chế, chủ yếu đào tạo ở trình độ sơ cấp, trung học. Bên cạnh những bất cập của tình hình tổ chức thực tiễn việc áp dụng các biện pháp giáo dục tập trung, việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn cũng còn những tồn tại, hạn chế. Cách thức tổ chức, quản lí giáo dục đối tượng tại xã, phường, thị trấn còn mang tính hình thức, nghèo nàn, chưa có hình thức giáo dục thích hợp với trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật. Chính quyền một số xã chưa thực sự quan tâm, còn coi đây là trách nhiệm của ngành công an, dẫn đến buông lỏng, thực tế chỉ giáo dục lần đầu sau đó không thường xuyên liên lạc, giám sát; sự phối 10 hợp giữa các cơ quan, đoàn thể ở địa phương chưa cao. 2.2.3. Những tồn tại, bất cập và nguyên nhân Thứ nhất, việc vận dụng các quy định về đối tượng áp dụng các biện pháp của người có thẩm quyền trên thực tế chưa đảm bảo. Thứ hai, về thực tiễn xem xét áp dụng các biện pháp của các chủ thể có thẩm quyền. Việc xem xét áp dụng các biện pháp của người đứng đầu cơ quan hành chính còn mang tính hình thức, hội đồng tư vấn chưa đảm bảo quá trình xem xét dân chủ, công khai và cụ thể từng đối tượng. Thứ ba, về chế độ sinh hoạt, ăn uống, học tập, khám chữa bệnh của trại viên, học sinh trong các cơ sở giáo dục còn thấp chưa đảm bảo tiêu chuẩn mức sống đầy đủ và điều kiện cần thiết cho việc lao động, học nghề… Thứ tư, đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính khác không tiến bộ nhiều, tỷ lệ tái phạm cao xuất phát từ nguyên nhân là pháp luật quy định thời gian áp dụng các biện pháp này ngắn nên chưa thể hiện được tính răn đe, giáo dục cao, đồng thời cũng chưa quy định các biện pháp tiếp theo hoặc các giải pháp có tính khả thi áp dụng sau khi những đối tượng này đã chấp hành xong quyết định trở về địa phương. Kết luận chƣơng 2 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về các biện pháp xử lí hành chính khác đã tạo ra cơ sở pháp lí vững chắc góp phần vào việc ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo vệ và củng cố trật tự an toàn xã hội, việc tổ chức thực hiện trên thực tế cũng đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh những mặt ưu điểm, hệ thống pháp luật về xử lí hành chính còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định trên thực tế đạt hiệu quả chưa cao, chưa đảm bảo tính minh bạch, dân chủ, đảm bảo quyền con người và phù hợp các chuẩn mực quốc tế cần phải nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện để đảm bảo việc xử lí đạt hiệu quả, triệt để, công minh. Chương 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH KHÁC 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính khác và phƣơng hƣớng hoàn thiện 3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các biện pháp xử lí hành chính khác Thứ nhất, pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác có vai trò to lớn, là cơ sở pháp lí quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật, góp phần vào việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Thứ hai, chúng ta thấy các quy định về các biện pháp xử lí hành chính khác trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tự do cơ bản của công dân, quyền con người. Nhưng trên thực tế, pháp luật hiện hành về xử lí hành chính, một số quy định không phù hợp các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, một số quy định chưa đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đảm bảo tính dân chủ. Thứ ba, Việt Nam đang tiến những bước tiến trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế trên tất cả mọi lĩnh vực. Pháp luật, trong đó có pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính cũng cần đảm bảo tính tương thích với các chuẩn mực quốc tế, phù hợp với các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền con người như Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, 11 Công ước quốc tế về quyền trẻ em…Yêu cầu này cùng là đòi hỏi cần thiết phải nhanh chóng hoàn thiện, sửa đổi các quy định chưa phù hợp của pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính để đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế. 3.1.2. Phương hướng hoàn thiện Việc hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác cần quán triệt các phương hướng và quan điểm chỉ đạo cụ thể sau: Một là, hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính trước hết phải bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp, quan điểm của Đảng về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hai là, việc hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính nhằm góp phần nâng cao hơn nữa công tác quản lí, giáo dục cảm hóa các đối tượng vi phạm thành công dân có ích, đấu tranh phòng chống có hiệu quả vi phạm pháp luật và xử lí nghiêm minh, triệt để, kịp thời, đúng pháp luật các đối tượng vi phạm giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lí hành chính nhà nước. Ba là, hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính nhằm định hướng tăng cường bảo đảm quyền cơ bản của công dân, quyền con người, đề cao tính dân chủ, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân có liên quan trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lí hành chính. Đồng thời đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, xử lý nghiêm minh, triệt để nhanh chóng, đúng pháp luật, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế, xã hội. Bốn là, hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính theo hướng áp dụng các nội dung cải cách tư pháp, nghiên cứu thủ chuyển sang tòa án xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính theo lộ trình từng bước thực hiện trình tự, thủ tục tư pháp trong xử lí hành chính bảo đảm tính minh bạch, công khai, công bằng và bảo đảm quyền cơ bản của công dân. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính khác 3.2.1. Xây dựng luật riêng về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác Việc quy định cả nội dung xử phạt hành chính và các biện pháp xử lí hành chính khác trong cùng một văn bản luật là bộc lộ những bất cập nhất định về việc xác định phạm vi điều chỉnh của một văn bản pháp lý vì xử phạt vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính khác có sự khác biệt về đặc điểm chủ thể bị áp dụng, nội dung và cả mục đích áp dụng. 3.2.2. Về hệ thống các biện pháp xử lý hành chính khác Hệ thống chế tài xử lý vi phạm hành chính nước ta được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 với những lần sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008 bao gồm các hình thức xử phạt và các biện pháp xử lý hành chính khác. Các biện pháp xử lý hành chính khác lúc đầu được quy định là năm biện pháp bao gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh và quản chế hành chính. Tại lần sửa đổi bổ sung năm 2007 đã bỏ biện pháp quản chế hành chính. Trong tương lai hướng hoàn thiện của hệ thống các biện pháp xử lí hành chính khác, chúng tôi đề nghị bỏ biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh và chỉ còn lưu giữ ba biện pháp là: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục. 3.2.3. Về đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác Việc hoàn thiện pháp luật về đối tượng áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác xin được kiến nghị một số nội dung sau: Thứ nhất, về độ tuổi áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác, cần nâng độ tuổi tối thiểu 12 bị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính là 14 tuổi. Vì cho dù thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng độ tuổi 12 là quá nhỏ để nhận sự trừng phạt, kiểm điểm của người lớn, cần quy định độ tuổi phù hợp đã phát triển khá đầy đủ về tâm, sinh lí để có thể nhận thức và tiếp nhận sự giáo dục. Thứ hai, về cơ sở áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác nhau pháp luật cần quy định áp dụng trên cơ sở mức độ, tích chất của hành vi vi phạm mà không thể dựa trên yếu tố "nơi cư trú" nhằm đảm bảo công bằng, quyền tự do, quyền lợi hợp pháp của công dân. Thứ ba, các quy định pháp luật cần xây dựng khái niệm rõ ràng, có quy định giải thích thế nào là "nơi cư trú nhất định","trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ"; để việc xử lí chính xác cần định lượng rõ, thế nào được gọi là "vặt", "nhỏ", thường xuyên là mấy lần trở lên. Thứ tư, pháp luật về đối tượng áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác cần xác định cụ thể, rõ ràng, minh bạch về đối tượng áp dụng, tránh quy định một cách chung chung dẫn tới sự mở rộng các văn bản cấp dưới, gây tùy tiện, khó khăn cho việc áp dụng. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu quy định cụ thể đối tượng, hành vi vi phạm và phải đảm bảo tính đồng bộ giữa đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác nhau, tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo, khó khăn trong việc áp dụng. 3.2.4. Về thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác Theo chúng tôi, cần xem xét sửa đổi hoàn thiện theo phương án sau: Nên chuyển thẩm quyền xem xét áp dụng từ chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp sang Tòa án nhân dân, theo đó việc điều tra, xác minh, lập hồ sơ đối với đối tượng đề nghị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính sẽ vẫn do các cơ quan hành chính (cơ quan công an, chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp) thực hiện, sau đó việc xem xét, quyết định do tòa án thực hiện theo trình tự tố tụng chặt chẽ, minh bạch. Việc chuyển sang cho Tòa án nhân dân quyết định áp dụng biện pháp này (thực chất là xét xử) thay cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có nhiều ưu điểm, đó là: Việc quyết định về áp dụng các biện pháp hành chính khác này đảm bảo tính công khai, minh bạch, đảm bảo dân chủ, công bằng, theo một trình tự thủ tục được quy định chặt chẽ, có sự kiểm sát của Việt kiểm sát, đảm bảo được quyền bào chữa của người bị áp dụng. 3.2.5. Về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác Kiến nghị cần quy định về cuộc họp của hội đồng tư vấn theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, người bị xem xét áp dụng, cha mẹ người đó hoặc người giám hộ hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi của đối tượng tham gia có quyền phát biểu trình bày ý kiến cá nhân, họ cũng có quyền mời luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lí tham dự cuộc họp của Hội đồng tư vấn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ý kiến của họ phải được ghi vào biên bản cuộc họp kèm theo báo cáo trình lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Có như thế mới đảm bảo khách quan và dân chủ. Quy định này sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tương thích pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, khi chuyển các biện pháp xử lý hành chính khác sang cho Tòa án áp dụng cần phải tính đến một số yếu tố đó là: không thể áp dụng các thể tục xét xử hình sự, dân sự, hành chính để giải quyết mà cần phải ban hành các thủ tục mới. Điều này đặt ra là phải ban hành văn bản pháp luật (văn bản pháp luật về thủ tục giải quyết tại Tòa án). Một giải pháp quan trọng góp phần đảm bảo tính khách quan, chính xác và đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền là phải có sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, xây dựng cơ chế giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân trong việc quyết định áp dụng biện pháp và trong cả quá trình chấp hành các biện pháp xử lí hành chính khác. 3.3. Các kiến nghị đối với việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác ở Việt Nam 13 Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến giải thích pháp luật, tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ nhân sự có trách nhiệm trong việc áp dụng và tổ chức thực hiện các biện pháp xử lí hành chính khác. Thứ ba, nâng cao chế độ trách nhiệm và cơ chế phối hợp các cơ quan, đoàn thể, các cấp các ngành và gia đình, cộng đồng trong việc thực hiện các biện pháp xử lí hành chính khác. Thứ tư, bảo đảm các nguồn lực: kinh phí, điều kiện về cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết cho việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác. Thứ năm, hoàn thiện các quy định về chế độ khen thưởng và xử lí vi phạm đối với người thực thi công vụ. Thứ sáu, cần đề ra phương án tổ chức tốt công tác tái hòa nhập cộng đồng cho các trại viên, học sinh sau khi chấp hành xong quyết định trở về với cộng đồng nhằm xóa đi mặc cảm tội lỗi, lạc quan, giúp đỡ họ nhanh chóng hòa nhập. Thứ bảy, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác. Kết luận chƣơng 3 Việc hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác trong giai đoạn hiện nay được xem là một yêu cầu mang tính tất yếu khách quan, bắt nguồn từ đòi hỏi cấp thiết của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ và quyền con người, chủ động hội nhập quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác phải được tiến hành đồng bộ các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp về tổ chức thực hiện. Việc tiến hành một cách có hiệu quả, đồng bộ và khoa học các giải pháp này có ý nghĩa to lớn góp phần giải quyết kịp thời những tệ nạn, nhức nhối trong đời sống xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự và còn góp phần tích cực vào công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, bảo đảm quyền và lợi ích của công dân và toàn xã hội. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu thực trạng quy định và thực tiễn tổ chức thực hiện của các biện pháp xử lí hành chính khác, có thể nhận thấy các biện pháp xử lí hành chính khác có tầm quan trọng đặc biệt trong việc đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, văn hóa, đồng thời đã góp phần quan trọng trong việc giáo dục, cảm hóa nhiều đối tượng trở thành công dân có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Sự tồn tại của các biện pháp xử lí hành chính là cần thiết và có tác dụng thiết thực to lớn. Tiếp thu những ý kiến, phương hướng, giải pháp hoàn thiện đưa khung pháp lí về xử lí hành chính lên tầm cao mới, đảm bảo phù hợp hơn nữa với những cam kết quốc tế. Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng, vai trò to lớn của các biện pháp xử lí hành chính khác, luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lí luận cơ bản về nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính này, tìm ra những đặc điểm chung và đặc trưng riêng, vai trò của các biện pháp xử lí hành chính khác, từ đó xây dựng khá hoàn chỉnh khái niệm về các biện pháp xử lí hành chính khác. Đồng thời luận văn xác định các yêu cầu cụ thể cho việc quy định và áp dụng các biện pháp này trên thực tế đạt hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở đó, luận văn đi vào đánh giá, phân tích thực trạng quy định pháp luật, tìm ra những điểm hạn chế, bất cập trong pháp luật hiện hành về đối tượng áp dụng, thẩm quyền cũng như thủ tục áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác và đề xuất những giải pháp xác đáng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác 14 nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế, phòng chống vi phạm pháp luật, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích công dân, quyền con người, đảm bảo dân chủ và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế. References 1. Nguyễn Ngọc Bích (2003), Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành chính với người chưa thành niên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 2. Nguyễn Trọng Bình (2002), Hoàn thiện quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, Luận văn thạc sĩ Luật học 3. Bộ Công an (2002), Báo cáo tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 trong lực lượng Công an nhân dân, Hà Nội. 4. Bộ Tư pháp (1994), Báo cáo 5 năm thi hành Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội. 5. Bộ Tư pháp (2002), Dự thảo ngày 12/ 7 Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện 08 năm Pháp lệnh Xử lí vi phạm hành chính năm 2002 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Hà Nội. 6. Bộ Tư Pháp (2005), Báo cáo số 3225/ BTP/PLHS-HC ngày 01/01 tổng kết tình hình thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội. 7. Bộ Tư pháp (2007), Báo cáo đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội. 8. Bộ Tư pháp (2008), Định hướng xây dựng Luật xử lý vi phạm hành chính, Kỷ yếu Hội thảo, Dự án VIE/02/015, tổ chức tại Quảng Ninh ngày 08-09/5. 9. Bộ Tư pháp (2009), Các biện pháp xử lí hành chính khác và việc bảo đảm quyền con người, tháng 12/2009, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 10. Bộ Tư pháp (2010), Tờ trình Chính phủ về Dự án Luật xử lý vi phạm hành chính, (Dự thảo) ngày 12/7, Hà Nội. 11. Bộ Tư pháp (2011), Tờ trình Chính phủ về Dự án Luật xử lý vi phạm hành chính, (Dự thảo), ngày 15/3, Hà Nội. 12. Chính phủ (2003), Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27/6 quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Hà Nội. 13. Chính phủ (2003), Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 14/11 quy định chi tiết thi hành 15 một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2008, Hà Nội. 14. Chính phủ (2003), Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24/11 quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, Hà Nội. 15. Chính phủ (2003), Nghị định số 163/2003/NĐ-CP ngày 19/12 quy định chi tiết thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 16. Chính phủ (2004), Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sơ chữa bệnh, Hà Nội. 17. Chính phủ (2005), Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, Hà Nội. 18. Chính phủ (2010), Báo cáo đánh giá về các biện pháp xử lý hành chính khác và kiến nghị hoàn thiện trong luật xử lý vi phạm hành chính, (Dự thảo), Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, Dự án 00058492 UNDP, Hà Nội. 19. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 20. Đảng cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/02 của Bộ Chính trị về chiến lược hoàn thiện pháp luật đến năm 2020, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Bùi Thị Đào (2006), "Xây dựng Bộ luật xử lý vi phạm hành chính - những vấn đề cần lưu tâm", Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Khoa Hành chính - Nhà nước, Hà Nội. 23. Nguyễn Thị Hà (2010), Các biện pháp xử lí hành chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học. 24. Trần Thị Hiền (2010), "Pháp luật về các biện pháp xử lí hành chính khác cần gia tăng tính minh bạch", Dân chủ và pháp luật, (11). 25. Trần Thị Hiền (2011), "Hoàn thiện pháp luật về hình thức, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính", Hội thảo khoa học: Hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính tại Việt Nam, 16 tổ chức tại Đà Nẵng ngày 1 - 2/10, Đà Nẵng. 26. Trần Thanh Hương (2005), "Quyền Công dân, quyền con người và chỗ đứng của các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác của pháp luật về vi phạm hành chính", Dân chủ và pháp luật, (11). 27. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 28. Hoàng Thị Kim Quế (2008), "Về các biện pháp xử lí hành chính khác: Thực tiễn và giải pháp", Khoa học, (Kinh tế - Luật), (24). 29. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 30. Quốc hội (2010), Dự thảo Luật xử lí vi phạm hành chính, Hà Nội. 31. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội. 32. Lê Ngọc Thạch (2006), "Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo Pháp luật Việt Nam", Dân chủ và pháp luật, (1). 33. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Trương Khánh Toàn (2008), "Áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác đối với người chưa thành niên, hướng quy định tại Luật xử lí vi phạm hành chính", Dân chủ và pháp luật, (6). 35. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Lí luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hành chính, Nxb Công an nhân dân. Hà Nội. 38. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1995), Pháp lệnh Xử lí vi phạm hành chính, Hà Nội. 39. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Xử lí vi phạm hành chính, Hà Nội. 40. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2008), Pháp lệnh Xử lí vi phạm hành chính (Sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 17 41. Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18 VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan