Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở việt nam hiện nay

.PDF
170
144
81

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG THỊ THU THỦY HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ TRỰC TIẾP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2020 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG THỊ THU THỦY HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ TRỰC TIẾP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 62 38 01 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Hoàng Thị Thu Thủy MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10 1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước 10 1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước 21 1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu 29 1.4. Giả thuyết khoa học, câu hỏi nghiên cứu và định hướng nghiên cứu của luận án 32 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ TRỰC TIẾP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 36 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về dân chủ trực tiếp 36 2.2. Nội dung pháp luật về dân chủ trực tiếp 43 2.3. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp 63 2.4. Pháp luật về dân chủ trực tiếp của một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam 67 Chương 3: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ TRỰC TIẾP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 81 3.1. Quá trình phát triển pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam 81 3.2. Thực trạng pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam từ năm 2013 đến nay 96 3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam 116 Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ TRỰC TIẾP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 122 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay 122 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay 127 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ĐBQH : Đại biểu Quốc hội DCĐD : Dân chủ đại diện DCTT : Dân chủ trực tiếp HĐND : Hội đồng Nhân dân ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị MTTQ : Mặt trận Tổ quốc UBMTTQ : Ủy ban Mặt trận Tổ quốc UBND : Ủy ban Nhân dân UBTVQH : Uỷ ban Thường vụ Quốc hội UDHR : Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi thành lập (năm 1930) đến nay, trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững quan điểm dân chủ, lấy dân làm gốc, bảo vệ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [92] và “Nước cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [92]. Trong lịch sử hiện đại, ở các quốc gia trên thế giới, người dân thực hiện quyền lực của mình bằng hai phương thức cơ bản là dân chủ đại diện (hay dân chủ gián tiếp) thông qua các cơ quan đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp (DCTT) là việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực, thể hiện trực tiếp ý chí của mình với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua cá nhân hay tổ chức thay mặt mình. Đối với nước ta, DCTT đã được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, thể hiện qua quy định về quyền phúc quyết của Nhân dân với Hiến pháp. Kể từ đó, các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và Hiến pháp hiện hành năm 2013 đều có quy định về trưng cầu ý dân. Không chỉ vậy, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định tại Điều 6: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng DCTT, bằng dân chủ đại diện (DCĐD) thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Quy định mới nêu trên của Hiến pháp năm 2013 cho thấy, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt và quyết tâm thúc đẩy các hình thức thực thi DCTT của Nhân dân trong thời gian tới. Điều này nhằm đáp ứng những yêu cầu phát sinh trong quá trình xây dựng nhà nước 2 pháp quyền XHCN mà trong đó các hình thức thực thi DCTT cần được củng cố và áp dụng đồng thời với DCĐD, bổ sung cho DCĐD. Thực tế kể từ khi Đổi mới (năm 1986) ở nước ta, môi trường và các hoạt động mang tính chất DCTT ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức đa dạng. Cụ thể, các hoạt động phản biện, tư vấn, giám sát xã hội, lấy ý kiến Nhân dân về những chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, hoạt động bầu cử, ứng cử, bãi nhiệm các đại biểu cơ quan dân cử, việc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo ngày càng được thực hiện rộng rãi; các hoạt động tiếp xúc cử tri, chất vấn đại biểu cơ quan dân cử, đối thoại trực tiếp giữa người dân với các cơ quan nhà nước ngày càng được tổ chức thường xuyên. Điều đó cho thấy những hình thức DCTT đã bắt đầu thâm nhập sâu rộng vào các tầng lớp Nhân dân. Sự phát triển của các hình thức DCTT đã tạo điều kiện để người dân tham gia ngày càng tích cực và hiệu quả hơn vào hoạt động quản lý nhà nước, góp phần củng cố quyền lực của Nhân dân, kiểm soát quyền lực Nhà nước, hạn chế tình trạng quan liêu, lạm quyền, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, giữ gìn, củng cố uy tín, sự ổn định của chế độ chính trị. Tuy nhiên, những kết quả nêu trên vẫn còn hạn chế so với yêu cầu cấp thiết về mở rộng dân chủ nói chung, DCTT nói riêng trong tình hình mới ở nước ta. Trong thực tế, hầu hết các hoạt động DCTT ở nước ta vẫn còn mang tính hình thức. Một số hình thức DCTT đã phổ biến trên thế giới nhưng vẫn chưa được áp dụng đầy đủ ở nước ta. Hậu quả là vai trò và quyền tham gia quản lý xã hội của Nhân dân vẫn chưa được tôn trọng một cách thích đáng. Tình trạng quan liêu, lạm quyền, tham nhũng trong bộ máy nhà nước vẫn còn phổ biến, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Những tồn tại, bất cập về DCTT nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là do quan điểm lý luận và khuôn khổ pháp luật về vấn đề này ở nước ta còn lạc hậu, chưa theo kịp với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế. Ngoài ra, một số yếu tố khác như sự hạn chế về trình độ dân trí và các điều kiện thực thi, bảo đảm...cũng là những 3 trở ngại cho việc thực thi và mở rộng DCTT ở nước ta. Tất cả những vấn đề này cần được nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, thấu đáo để tìm ra những giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, hiện tại ở nước ta vẫn chưa có nhiều nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu về pháp luật DCTT. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với dân chủ hóa trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. Mở rộng DCTT là hướng tiếp cận rất quan trọng để đạt được mục tiêu đó ở nước ta hiện nay. Để mở rộng DCTT, việc hoàn thiện cơ chế pháp lý về vấn đề này là việc làm đầu tiên và quan trọng nhất. Vì thế, nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về DCTT hiện là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta. Trong bối cảnh trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, thực tiễn, đánh giá thực trạng pháp luật, trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về DCTT phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận án cần hoàn thành các nhiệm vụ sau đây: Một là, đánh giá tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu trong và ngoài nước liên quan đến DCTT và pháp luật về DCTT, từ đó xác định những nội dung luận án có thể kế thừa và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Hai là, hệ thống hoá và phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về DCTT ở Việt Nam, xác định phương pháp luận, 4 phương pháp nghiên cứu, giả thuyết khoa học và các câu hỏi nghiên cứu cần giải quyết trong luận án. Ba là, phân tích, đánh giá quá trình phát triển và thực trạng pháp luật Việt Nam về DCTT, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và xác định nguyên nhân để làm cơ sở cho việc đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Bốn là, đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về DCTT có tính toàn diện, khoa học và khả thi với hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn của nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề xoay quanh việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về DCTT ở Việt Nam bao gồm: Cơ sở lý luận, thực tiễn, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân cùng những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về DCTT. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung: luận án tập trung nghiên cứu khuôn khổ pháp lý về DCTT dưới gốc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, do DCTT là một phạm trù chính trị - pháp lý, ở Chương 2, luận án còn đề cập đến những vấn đề lý luận về DCTT, trong đó sử dụng những kiến thức và phương pháp của một số ngành khoa học xã hội khác ngoài luật học như triết học và chính trị học. - Về mặt không gian: luận án chỉ tập trung nghiên cứu khuôn khổ pháp lý về DCTT của Việt Nam. Quy định về DCTT trong pháp luật quốc tế và pháp luật của ở một số quốc gia khác cũng được đề cập nhưng chỉ ở mức độ khái quát, làm cơ sở tham chiếu đánh giá khuôn khổ pháp lý về DCTT của Việt Nam. - Về mặt thời gian: Trọng tâm nghiên cứu của luận án là pháp luật về DCTT ở Việt Nam từ năm 2013 đến nay. Điều này nhằm bảo đảm yêu cầu về tính chuyên sâu và nâng cao ý nghĩa thực tiễn của luận án, và xuất phát từ thực 5 tiễn là Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới có ý nghĩa quan trọng với việc thúc đẩy dân chủ trực tiếp ở nước ta. Tuy nhiên, để bảo đảm yêu cầu về tính hệ thống, luận án cũng dành một dung lượng nhất định để khảo sát, khái quát hoá khuôn khổ pháp luật Việt Nam về DCTT từ năm 1946 đến năm 2013. 4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận của luận án Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ nói chung, về nhà nước và pháp luật nói riêng, cũng như các chuẩn mực quốc tế về dân chủ và quyền con người. 4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Về phương pháp luận, luận án vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin làm cơ sở định hướng đánh giá một cách tổng thể sự phát sinh, phát triển cũng như tính chất, đặc điểm của hệ thống pháp luật về DCTT, đồng thời xác định các quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam. Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng, luận án còn sử dụng một số lý thuyết sau đây để phân tích, đánh giá và đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về DCTT ở Việt Nam gồm: - Lý thuyết chủ quyền Nhân dân do John Locke và Rousseau đề xướng và cổ vũ trong các thế kỷ XVII - XVIII. Theo lý thuyết này, trong một xã hội (quốc gia), nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực chính trị. Chủ quyền nhân dân là nguồn gốc hợp pháp của mọi quyền lực chính trị và pháp lý, được xác định dựa trên bản khế ước xã hội (social contract) thể hiện sự “đồng thuận” của người dân về việc thiết lập và uỷ thác quyền lực của mình cho chính quyền. Chủ quyền nhân dân được bảo vệ qua các định chế của dân chủ trực tiếp như bầu cử định kỳ tự do và phổ thông đầu phiếu, trưng cầu ý dân về hiến pháp và về các vấn đề quan trọng của đất nước và kiểm soát quyền lực nhà nước. Lý 6 thuyết này chủ yếu được sử dụng để đánh giá nền tảng lý luận và tính hợp lý của hệ thống pháp luật về DCTT ở Việt Nam. - Lý thuyết về dân chủ có sự tham gia (participatory democracy): Đây là lý thuyết do Pateman nêu ra trong cuốn Participation and Democratic Theory (Sự tham gia và Lý thuyết dân chủ) xuất bản bởi Đại học Cambridge (Cambridge University Press) vào năm 1970 [153], trong đó xem dân chủ trực tiếp như là một hình thức mở rộng sự tham gia của công chúng vào các hoạt động chính trị. Điều này đòi hỏi pháp luật phải thiết lập được các cấu trúc thể chế thích hợp để người dân có thể thực thi các hình thức dân chủ trực tiếp, đặc biệt là trưng cầu dân ý. Lý thuyết này chủ yếu được sử dụng để đánh giá tính toàn diện của hệ thống pháp luật về DCTT ở Việt Nam. Về phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng khung phân tích của chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết những câu hỏi nghiên cứu đặt ra, bao gồm: Phương pháp hệ thống, phương pháp lôgic, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp, cụ thể như sau: Phương pháp hệ thống được sử dụng trong Chương 1 để phân loại và đánh giá nội dung các công trình nghiên cứu về dân chủ, DCTT và pháp luật về DCTT ở trên thế giới và ở Việt Nam. Phương pháp logic được sử dụng xuyên suốt trong các chương. Theo đó, dựa trên tổng quan tình hình nghiên cứu ở Chương 1, tác giả xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ở các chương tiếp theo của luận án. Và trên cơ sở những vấn đề lý luận đã được phân tích làm rõ ở Chương 2, tác giả sử dụng để đánh giá thực trạng pháp luật về DCTT ở Chương 3 và từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp trong Chương 4. Phương pháp lịch sử chủ yếu được sử dụng trong đánh giá thực trạng pháp luật về DCTT ở Việt Nam (ở Chương 3). Phương pháp lịch sử đòi hỏi khi nghiên cứu pháp luật về DCTT phải đặt chúng trong bối cảnh lịch sử cụ thể. 7 C.Mác đã chỉ rõ rằng pháp luật không thể vượt ra khỏi điều kiện kinh tế - xã hội mà pháp luật đó tồn tại. Do vậy, pháp luật về DCTT chỉ được xem xét một cách khách quan, khoa học khi chúng được đặt trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. Điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong mỗi giai đoạn là một trong những cơ sở nền tảng để đánh giá thực trạng pháp luật về DCTT của giai đoạn đó. Phương pháp phân tích được sử dụng trong cả Chương 2, Chương 3 và Chương 4 của luận án để khảo sát và đưa ra những nhận định, đánh giá các vấn đề liên quan đến đề tài thể hiện qua những tài liệu sơ cấp và thứ cấp. Tài liệu sơ cấp bao gồm các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các vụ việc, các số liệu thống kê chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, văn bản pháp luật quốc tế, văn bản pháp luật của một số quốc gia, các văn kiện, báo cáo có liên quan đến đề tài của các tổ chức quốc tế. Tài liệu thứ cấp bao gồm các bài báo, tạp chí, kết luận phân tích đã được các tác giả khác thực hiện và công bố trong các sách chuyên khảo, tham khảo. Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ luận án để khái quát hoá, phân loại, xếp loại các tri thức, số liệu qua việc phân tích các tài liệu, từ đó giúp nghiên cứu sinh đưa ra các nhận xét, đánh giá tổng quan ở mỗi chương và trong phần Kết luận của luận án. Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong toàn bộ luận án, đặc biệt là ở các Chương 2 và Chương 3 để đối chiếu tìm ra sự tương đồng và khác biệt về quan điểm giữa các tác giả, cũng như để đánh giá sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác về DCTT. So sánh cũng nhằm làm rõ sự phát triển của pháp luật về DCTT ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử từ khi giành độc lập (1945) đến nay. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án là một trong những công trình khoa học có tính chuyên sâu, toàn diện và là công trình đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật học phân tích vấn đề DCTT từ góc độ của chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật ở Việt Nam. Những đóng góp mới của luận án thể hiện cụ thể như sau: 8 Thứ nhất, củng cố và bổ sung nền tảng lý luận pháp luật về DCTT ở Việt Nam. Luận án đã kế thừa các công trình nghiên cứu đã có trên lĩnh vực này nhưng có sự phân tích, đánh giá để xác định khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung và những yêu cầu đặt ra với việc hoàn thiện pháp luật về DCTT theo một cách thức toàn diện, hợp lý hơn. Ngoài ra, luận án đã góp phần bổ sung những tri thức lý luận hiện có về vấn đề này ở nước ta thông qua việc làm rõ các lý thuyết phổ biến trên thế giới có liên quan đến DCTT và tác động cũng như khả năng ứng dụng của các lý thuyết đó ở Việt Nam. Đây là những quan điểm khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về DCTT ở Việt Nam và cũng chính là những đóng góp về mặt lý luận của luận án. Thứ hai, thông qua việc nghiên cứu quá trình phát triển và những biểu hiện trong thực tế, luận án đã bổ sung những phân tích, đánh giá có tính hệ thống và cập nhật khuôn khổ pháp luật hiện hành về DCTT ở Việt Nam. Cụ thể, luận án đã khái quát hóa những nội dung cốt lõi của pháp luật về DCTT qua các giai đoạn phát triển, phân tích, so sánh chỉ ra những ưu điểm cũng như những bất cập, hạn chế, đồng thời xác định nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó. Thứ ba, luận án đã xây dựng các quan điểm, đề xuất và luận giải một hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật hiện hành về DCTT ở Việt Nam. Các quan điểm, giải pháp có sự kế thừa từ những nghiên cứu đã được công bố về vấn đề này ở Việt Nam, nhưng được phát triển ở mức độ toàn diện hơn, dựa trên những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn đáng tin cậy được xác định trong toàn bộ luận án. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 6.1. Về phương diện lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, củng cố cơ sở lý luận khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về DCTT ở Việt Nam, cụ thể là khẳng định sự cần thiết và khả năng giải quyết vấn đề từ góc độ lý luận pháp lý, đặc biệt là lý luận về lịch sử nhà nước và pháp luật. 9 6.2. Về phương diện thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho nhiều chủ thể khác nhau ở Việt Nam, bao gồm các cơ quan của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là ở cấp Trung ương, trong việc nhìn nhận, phân tích, đánh giá vấn đề và hoạch định, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện các chính sách, văn bản pháp luật có liên quan đến DCTT. Bên cạnh đó, luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở học thuật, các tổ chức xã hội và chính quyền địa phương trong việc giảng dạy, nghiên cứu và tổ chức thực thi pháp luật về DCTT. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án mà tác giả đã công bố, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 13 tiết. 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC Cùng với quá trình đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, yêu cầu phát huy dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống được đặt ra một cách cấp thiết ở Việt Nam. Bối cảnh đó thúc đẩy nhiều cơ sở học thuật và học giả trong nước nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về thực thi DCTT ở trên thế giới và ở Việt Nam. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố ở trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức như: Sách chuyên khảo, các bài báo khoa học, các kỷ yếu hội thảo khoa học, các luận án, luận văn trong các lĩnh vực chuyên ngành luật học, chính trị học,... Mặc dù vậy, so với nhiều vấn đề chính trị - pháp lý khác, có thể thấy số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến DCTT ở Việt Nam hiện vẫn chưa nhiều. Đặc biệt, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích một cách toàn diện và chuyên sâu vấn đề DCTT ở Việt Nam từ góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Xét tổng quát, có thể chia các công trình nghiên cứu về DCTT đã được công bố ở nước ta thành các nhóm sau: 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ trực tiếp Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu như sau: - Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo:“Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa“ [81]. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về dân chủ tư sản, dân chủ XHCN. Các tác giả xem dân chủ tư sản là thành quả của cuộc cách mạng tư sản, là kết quả nhà nước tư sản sử dụng phương pháp tự do chủ nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản, chỉ ra những đặc trưng cơ bản của dân 11 chủ tư sản. Về dân chủ XHCN, các tác giả xác định đó là nền dân chủ gắn với bản chất chế độ nhà nước XHCN; là hình thức chính quyền mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, thừa nhận các quyền tự do bình đẳng của công dân. Theo các tác giả, trong tương quan quyền lực với Nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình thức thực hiện chủ yếu quyền lực Nhân dân. - Đỗ Trung Hiếu: “Một số suy nghĩa về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” [54]. Trong cuốn sách này, tác giả tập trung phân tích các yêu cầu và những đặc thù của nền dân chủ ở Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. - Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân: “Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền” [105]. Cuốn sách phân tích những hình thức thực hiện chức năng phản biện xã hội của các tổ chức xã hội dân sự, đặc biệt là của Mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp đối với các cấp chính quyền và cả cấp ủy đảng ở nước ta nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Theo các tác giả, để thực hiện dân chủ thực sự, tránh hình thức, các cơ quan lãnh đạo, quản lý cần tạo điều kiện để Nhân dân thực hiện vai trò phản biện xã hội mà thực chất là thực hiện quy trình “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân quyết định và dân thụ hưởng”. - Viện Chính sách công và Viện Nhà nước và pháp luật: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam” [125]. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của các tác giả trong nước về DCTT, dân chủ ở cơ sở ở nước ta trong sự so sánh, đối chiếu với một số nước trên thế giới. Cuốn sách bao gồm các bài viết liên quan đến những vấn đề lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện DCTT, dân chủ cơ sở trên thế giới và của Việt Nam, đồng thời đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm DCTT và dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong thời gian tới. 12 - Trần Hậu Thành: “Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ” [103]. Bài viết định nghĩa dân chủ là quyền lực thuộc về Nhân dân, đặc trưng của dân chủ vô sản là làm cho đa số quần chúng lao động bị áp bức và bóc lột trước đây thực sự tham gia công việc quản lý nhà nước, làm cho họ có thể thực sự hưởng thụ những thành quả tiến bộ của nhân loại. Theo tác giả, dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội; giữa dân chủ và pháp luật có mối quan hệ gắn kết, không thể có dân chủ tách ra khỏi pháp luật và cũng không thể có pháp luật mà không có dân chủ. Tác giả cũng cho rằng quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ là quan hệ biện chứng: muốn có nhà nước pháp quyền với đầy đủ ý nghĩa của nó thì phải xây dựng được nhà nước thật sự dân chủ. Nhà nước pháp quyền XHCN và chính quyền dân chủ Nhân dân phải gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ là cơ chế hữu hiệu của nền dân chủ XHCN trong điều kiện nhà nước pháp quyền. - Vũ Công Giao, Cầm Thị Lai:“Dân chủ trực tiếp trên thế giới và dân chủ trực tiếp ở nước ta“ [39]. Tác giả phân tích bốn hình thức DCTT phổ biến trên thế giới hiện nay gồm trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn, phân tích những ưu nhược điểm của DCTT. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích khái quát thực trạng tình hình thực hiện DCTT trên thế giới qua bốn hình thức đã nêu. Tác giả cũng làm rõ các hình thức DCTT ở Việt Nam hiện nay qua các bản Hiến pháp, từ đó chỉ ra những mặt thuận lợi, thách thức đặt ra trong quá trình thực hiện DCTT ở Việt Nam. - Lương Minh Tuân: “Kinh nghiệm của Thụy Sĩ về dân chủ trực tiếp” [117]. Tác giả phân tích mô hình, cách thức thực hiện DCTT ở Thụy Sĩ. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích các cơ chế pháp lý chủ yếu của Thụy Sĩ để người dân thực hiện DCTT, bao gồm trưng cầu ý dân bắt buộc, trưng cầu ý dân không bắt buộc, Nhân dân đưa ra sáng kiến, và trưng cầu ý dân ở cấp bang và cấp địa phương. Tác giả cũng đã phân tích, làm rõ các công cụ của DCTT tác 13 động như thế nào đến hệ thống chính trị ở Thụy Sỹ đồng thời chỉ ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Bên cạnh những công trình đã nêu trên, trong nhóm này còn có một số công trình nghiên cứu cụ thể các hình thức DCTT như: trưng cầu dân ý, bầu cử và bãi miễn, sáng quyền Nhân dân, dân chủ cơ sở. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau: - Sách chuyên khảo: “Trưng cầu ý dân: Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trương Thị Hồng Hà [46]. Tác giả nêu lên những vấn đề lý luận và kinh nghiệm các nước trên thế giới về trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, tác giả mới dừng ở mức khái quát về trưng cầu ý dân, từ khái niệm, vị trí, vai trò của trưng cầu ý dân; phân biệt giữa trưng cầu ý dân với việc lấy ý kiến Nhân dân và điều tra xã hội học; nêu lên ý nghĩa của chế định trưng cầu ý dân trong hệ thống cơ chế DCTT ở Việt Nam, khẳng định yêu cầu phải hoàn thiện thể chế DCTT ở Việt Nam, và việc xây dựng Luật Trưng cầu ý dân là một khâu đột phá, khái quát chế định trưng cầu ý dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu ra những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân, thủ tục tiến hành trưng cầu ý dân và khảo cứu thực tiễn trưng cầu ý dân ở một số quốc gia trên thế giới (Pháp, Thụy Sỹ, Mỹ, Ý, Đức). - Đặng Minh Tuấn: “Lý luận và thực tiễn về trưng cầu ý dân trên thế giới và ở Việt Nam” [119]. Theo tác giả, trưng cầu ý dân là một phương thức thực hiện DCTT, thể hiện ý chí, nguyện vọng của người dân đối với các vấn đề quan trọng của đất nước trong từng thời điểm lịch sử cụ thể. Đây là một hình thức dân chủ tiến bộ đã được thực hiện cách đây hàng nghìn năm, trong đó người dân trực tiếp quyết định một số công việc của nhà nước. Thông qua hình thức dân chủ này, người dân được trực tiếp tham gia quản lý nhà nước, hay nói cách khác là được tham gia vào việc hoạch định các chính sách, quyết sách lớn của đất nước. Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều quốc gia đã và đang sử dụng hình thức này như là một phương thức hữu hiệu trong hoạt động quản lý, điều hành đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả trình bày khái quát những vấn đề lý luận 14 và pháp luật cơ bản về trưng cầu ý dân như: khái niệm, vai trò, nội dung, trưng cầu ý dân. Sau đó tập trung trình bày thực tiễn về trưng cầu ý dân ở một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan... và ở Việt Nam. Tác giả cũng đề xuất, kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay. - Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Nhiêm: “Chế độ Bầu cử ở nước ta, những vấn đề lý luận và thực tiễn” [79]. Luận án đề cập cơ sở lý luận về chế độ bầu cử trong xã hội dân chủ nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời phân tích sự phát triển của chế độ bầu cử ở nước ta từ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc dân đại hội năm 1946 đến nay, làm rõ những thành tựu và những vấn đề còn tồn tại và ảnh hưởng của những thành tựu đó trong việc xây dựng, củng cố chính quyền Nhân dân ở nước ta. Tác giả cũng phân tích tính tất yếu khách quan tác động đến nhu cầu hoàn thiện và đổi mới chế độ bầu cử đối với việc phát huy dân chủ, nhất là DCĐD và nêu ra quan điểm và giải pháp hoàn thiện chế độ bầu cử trong điều kiện phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước ta. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Nhã Phương: “Hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam” [84]. Tác giả phân tích sự hình thành và phát triển của pháp luật trưng cầu ý dân ở Việt Nam từ trước đến nay, trong đó đặc biệt là quy định về trưng cầu ý dân theo các Hiến pháp. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân chủ và trưng cầu dân ý. Luận văn nêu ra các quan điểm và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay. - Luận án tiến sĩ của tác giả Phan Văn Ngọc: “Đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta hiện nay” [77]. Luận án đã luận giải và làm sáng tỏ các nguyên lý về bầu cử; tiếp cận quyền bầu cử từ chủ quyền Nhân dân, quyền con người, quyền DCTT; làm rõ khái niệm, nội dung, đặc trưng của chế độ bầu cử đại biểu Quốc 15 hội ở nước ta. Trên cơ sở đó hình thành khái niệm, chỉ ra đặc điểm, nội dung, phương thức và vai trò đặc biệt quan trọng của đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay. Về phương diện thực tiễn, luận án nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội gắn với đặc điểm lịch sử đất nước trong từng giai đoạn, nhất là trong giai đoạn đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Luận án đã chỉ ra và phân tích được những hạn chế, bất cập của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hiện hành trước những biến đổi trên nhiều mặt của đời sống chính trị - xã hội sau hơn ba mươi năm đổi mới đất nước và trước những yêu cầu đặt ra trong quá trình thi hành Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, những đòi hỏi từ tiễn, luận án chỉ ra được những tiền đề khách quan và định hướng đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH ở nước ta hiện nay. - Đề án “Dân chủ và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” của Trung tâm Dân chủ và Pháp luật, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [113]. Thông qua 3 chương, đề án đã làm nổi bật được các nội dung lớn: Một là, những vấn đề lý luận về dân chủ và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hai là, thực trạng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2005-2010. Ba là, quan điểm và giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Ngoài các công trình nêu trên, còn có thể kể thêm các công trình khác như: Nguyễn Mạnh Bình, Dân chủ và giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước [7]. Đồng Hữu Mạo, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước [71]. Nguyễn Văn Hậu, Tiếp tục xây dựng dân chủ trực tiếp nhằm thực hiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng [47]. Nguyễn Thị Dung, Dân chủ trực tiếp - Quan niệm và phương thức thực hiện [26]… Những
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan