BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NGỌC ANH
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGUYỄN NGỌC ANH
HÒA GIẢI TẠI CỘNG ĐỒNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ: NGHIÊN CỨU SO SÁNH
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
KHÓA 30
TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 9 - NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HÒA GIẢI TẠI CỘNG ĐỒNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ: NGHIÊN CỨU SO SÁNH
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Hoàng Thị Tuệ Phương
Học viên: Nguyễn Ngọc Anh
Lớp Cao học Luật khóa 30
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Hòa giải tại cộng đồng trong luật hình sự: Nghiên
cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học do bản
thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Ts. Hoàng Thị Tuệ Phương.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Trong quá
trình nghiên cứu, luận văn có kế thừa các quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà
nghiên cứu đã từng thực hiện về vấn đề tư pháp người chưa thành niên, và những thông
tin này khi được sử dụng đến đều được thể hiện một cách trung thực, có trích dẫn
nguồn đầy đủ trong luận văn.
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2022
Tác giả luận văn
NGUYỄN NGỌC ANH
BẢNG CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989
ICCPR
CRC
Người chưa thành niên
NCTN
Luật Trẻ em, Người chưa thành niên và Gia đình của họ
năm 1989 (Children, Young Persons and Their Families Act
1989)
CYPFA 1989
Hội nghị nhóm gia đình (Family Group Conference)
FGC
Luật Tòa án người chưa thành niên (Jugendgerichtsgesetz)
JGG
Bộ luật Hình
(Strafgesetzbuch)
sự
Cộng
hòa
Liên
bang
Luật tố tụng Hình sự Đức (Strafprozessordnung)
Đức
StGB
StPO
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP HÒA GIẢI TẠI CỘNG ĐỒNG ÁP
DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI................................. 8
1.1 Khái niệm ............................................................................................................. 8
1.1.1 Khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” ......................................... 8
1.1.2 Khái niệm “biện pháp hòa giải tại cộng đồng” ....................................... 17
1.1.3 Khái niệm “biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với người
chưa thành phạm tội” ................................................................................................... 20
1.2 Mô hình tư pháp người chưa thành niên ........................................................ 23
1.2.1 Mô hình tư pháp người chưa thành niên ở New Zealand .................... 24
1.2.2 Mô hình tư pháp người chưa thành niên ở Cộng hòa Liên bang Đức 27
1.2.3 Mô hình tư pháp người chưa thành niên ở Việt Nam ........................... 29
1.2.4 So sánh và kết luận ................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NEW ZEALAND,
CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC VÀ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP HÒA GIẢI
TẠI CỘNG ĐỒNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI................................................................................................................................. 37
2.1 Quy định của pháp luật hình sự New Zealand về biện pháp hòa giải tại
cộng đồng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ................................... 37
2.2 Quy định của pháp luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức về biện pháp hòa
giải tại cộng đồng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ...................... 44
2.3 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp hòa giải tại cộng
đồng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ............................................ 51
2.4 So sánh và kết luận ............................................................................................ 57
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP HÒA GIẢI TẠI CỘNG ĐỒNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI............................................................. 66
3.1 Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội……………………………………………………………………………………...66
3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về biện pháp hòa giải tại cộng đồng đối với người chưa thành niên
phạm tội ......................................................................................................................... 72
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 75
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 (ICCPR)1 vào năm 1982 và Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989
(CRC)2 vào năm 1990; do đó có trách nhiệm tôn trọng, đảm bảo các quyền dân sự,
chính trị của con người nói chung và đảm bảo trẻ em3 được hưởng tất cả các quyền mà
công ước đã quy định. Tại khoản 4 Điều 14 ICCPR ghi nhận: “Tố tụng áp dụng đối với
NCTN phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của
họ”. Từ chuẩn mực chung này, CRC đã quy định thêm các chuẩn mực riêng dành cho
người chưa thành niên (NCTN) phạm tội, nhất là ghi nhận “những nhu cầu đặc biệt
của trẻ em” và sự quan trọng của việc xử lý NCTN phạm pháp một cách linh hoạt.
Theo đó, “trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan
phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi Tòa án, các nhà chức trách hành chính
hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”4
và “việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em (…) chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp
dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”.5 Khác với tư pháp hình sự đối với người đã
thành niên, các biện pháp xử lý hình đối với NCTN phạm tội đề cập trong các Công
1
Tên tiếng Anh: International Covenant on Civil and Political Rights (viết tắt: ICCPR) là một công ước quốc tế
do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 3 năm
1976, nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người.
Tên tiếng Anh: Committee on the Right of the Child (viết tắt: CRC) là một công ước quốc tế do Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989 và có hiệu lực từ ngày 02 tháng 09 năm 1990, quy định
2
các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em.
CRC tại Điều 1 có ghi nhận: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dước 18 tuổi, trừ trường
hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật
3
quốc tế liên quan đến NCTN như: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với
NCTN (United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày
29/11/1985; Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở NCTN (United Nations Guidelines for
the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14/12/1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em
(Child) là người dưới 18 tuổi, NCTN (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến
24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, NCTN và thanh niên.
4
Khoản 3 Điều 1 CRC.
5
Điểm b Điều 37 CRC.
2
ước quốc tế trên đều hướng đến mục tiêu thúc đẩy sự phục hồi nhân cách hơn là việc
xử lý hành vi phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Bởi những hành vi, xử sự của NCTN
trái với các chuẩn mực và giá trị của xã hội là một phần rất thường xuyên của quá trình
trưởng thành của họ và có khuynh hướng mất đi một cách tự phát ở hầu hết các cá nhân
khi họ trưởng thành.6
Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt
là BLHS 2015) tại Chương XII đã có những quy định rất tiến bộ về cách thức xử lý đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện sự phù hợp với những cam kết quốc tế mà
nước ta là thành viên. Đặc biệt, lần đầu tiên tại Điều 94 BLHS 2015 đã quy định về
biện pháp hòa giải tại cộng động với tư cách là một biện pháp giám sát, giáo dục hoàn
toàn mới áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Quy định này một mặt thể hiện
chính sách nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, mặt khác giúp người dưới 18
tuổi phạm tội có cơ hội sửa chữa những sai lầm, giúp đỡ họ phát triển lành mạnh, trở
thành công dân có ích cho xã hội. Song, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội, trong mối
tương quan so sánh với pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới vẫn còn tồn
tại nhiều bất cập, chưa thể được thực hiện một cách hiệu quả trong thực tế để bảo đảm
quyền con người của NCTN phạm tội ở Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hòa giải tại cộng đồng trong luật
hình sự: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp
nhằm nghiên cứu một cách toàn diện về biện pháp hòa giải tại cộng đồng trong luật
hình sự áp dụng đối với NCTN phạm tội, trong mối tương quan so sánh với pháp luật
hình sự của một số quốc gia trên thế giới nhằm hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật
hình sự nước ta theo hướng ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền con người của NCTN
phạm tội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Các biện pháp xử lý đối với NCTN phạm tội được nghiên cứu, bình luận trong hệ
thống giáo trình, sách dành cho các cơ sở đào tạo luật học như Giáo trình Luật hình sự
6
Hướng dẫn Riyadh, mục 1.5.e.
3
Việt Nam – Phần chung của Trường đại học luật Hà Nội7, Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung) của Khoa luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội8, Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam – Phần chung của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh9…Về bình luận khoa học và sách thì có một số công trình tiêu biểu như Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự của tác giả Đinh Văn Quế10, Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 của tác giả Nguyễn Đức Mai11, Bình
luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) của nhóm tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa – Phan Anh Tuấn12…
Nghiên cứu vấn đề tư pháp hình sự đối với NCTN còn có một số bài viết đăng
trên các tạp chí khác nhau như: “Thực thi Công ước Quyền trẻ em ở Việt Nam: Tuổi
chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với NCTN phạm tội” của tác giả Phạm Thị
Thanh Nga đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18 năm 2014; “Quy định đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và một số vấn đề đặt ra”
của tác giả Nguyễn Thanh Vũ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 16 năm 2016;
“Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những quy định mới
của Bộ luật Hình sự năm 2015 và một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thị Phương
Hoa đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11 năm 2016; “ Một số ý kiến về quy
định án tích của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” của
tác giả Nguyễn Thị Vân đăng trên Tạp chí Khoa học kiểm sát số 2 năm 2017; “Tìm
hiểu đường lối xử lý đối với NCTN phạm tội trên thế giới nói chung và tại Canada nói
riêng” của tác giả Nguyễn Đức Anh đăng trên Khoa học kiểm sát số 5 năm 2017; “Cơ
chế bảo đảm của quyền của người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội.
8
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
9
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB
Hồng Đức, TP.HCM.
10
Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, NXB Lao động, Hà Nội.
11
Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm
2009.
12
Nguyễn Thị Phương Hoa – Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Hồng Đức, TP.HCM.
4
Nam hiện nay” của hai tác giả Hoàng Minh Đức, Nguyễn Đình Văn đăng trên Tạp chí
Nghề luật số 2 năm 2019; Các luận văn: “Bảo đảm quyền con người của NCTN phạm
tội bằng các quy định về hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ Luật
học của Lê Vũ Huy; Luận văn “Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” của tác giả Trần Hồng Nhung13, Luận văn
“Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội trong Bộ luật
hình sự 2015” của tác giả Trần Ngọc Lan Trang14, “Các biện pháp thay thế cho hình
phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội – Nghiên cứu so sánh pháp luật New Zealand và
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Hoàn15…
Nhìn chung, các bài viết trên các quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp
thay thế cho hình phạt nói chung áp dụng đối với NCTN phạm tội mà chưa đề cập
nhiều đến quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp hòa giải tại cộng
đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội trong mối tương quan so sánh với luật hình sự
của một số quốc gia trên thế giới. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của luật hình sự
của một số quốc gia trên thế giới và pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp hòa giải
tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội cũng như thực tiễn áp dụng các quy
định đó trong việc đảm bảo quyền con người của NCTN là yêu cầu cần thiết, mang ý
nghĩa khoa học và thực tiễn cao để tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định
của pháp luật, bảo đảm tính nhân văn của pháp luật hình sự trong quá trình giao lưu và
hội nhập quốc tế.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài, tác giả tập trung vào việc so sánh các
quy định của pháp luật luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới (cụ thể là New
Zealand và Cộng hòa Liên bang Đức) và pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp hòa
giải tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội. Trên cơ sở đó, tác giả sẽ đưa ra
Trần Hồng Nhung (2017), Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
13
14
Trần Ngọc Lan Trang (2017), Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội trong Bộ
luật hình sự 2015, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM.
15
Nguyễn Văn Hoàn (2018), Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội – Nghiên cứu
so sánh pháp luật New Zealand và Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM.
5
những đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp
dụng đối với NCTN phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Biện pháp hòa giải tại cộng đồng với tư cách là một hình
thức xử lý của tư pháp phục hồi nên có thể được áp dụng đối với cả NCTN và người đã
thành niên phạm tội. Song, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội.
Theo đó, để đạt được mục đích nghiên cứu trên và đảm bảo tính khoa học, luận văn
này có những giới hạn về phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:
Về không gian: Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật New Zealand,
Cộng hòa Liên bang Đức về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN
phạm tội trong mối tương quan so sánh với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quy định của Luật Trẻ em, NCTN và Gia đình
của họ năm 1989 ở New Zealand (Children, Young Persons and Their Families Act
1989 – CYPFA 1989, Luật Tòa án NCTN – Jugendgerichtsgesetz (JGG) ngày 04 tháng
8 năm 1953 ở Cộng hòa Liên bang Đức (được sửa đổi ngày 11 tháng 12 năm 1974 và
được cải cách một phần vào năm 1990) và BLHS Việt Nam năm 1985, 1999 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2009) và 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) cùng những văn
bản hướng dẫn có liên quan.
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về trách
nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội, quy định về biện pháp hòa giải tại cộng đồng
áp dụng đối với NCTN phạm tội từ góc độ pháp luật của New Zealand, Cộng hòa Liên
bang Đức và Việt Nam. Trên cơ sở đó nghiên cứu so sánh, phân tích, đánh giá nhằm
rút ra một số kinh nghiệm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về biện
pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu
gồm phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, kết hợp lý
luận với thực tiễn để đưa ra những đánh giá một cách có hệ thống về biện pháp hòa giải
tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội. Mỗi mục, mỗi chương có thể sử dụng
những phương pháp khác nhau hoặc kết hợp các phương pháp nhằm làm rõ những vấn
đề lý luận và pháp lý trọng tâm của từng mục, từng chương đó, cụ thể:
6
Tại Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh để làm
rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tổi từ góc độ quy
định pháp luật của New Zealand, Cộng hòa Liên bang Đức và Việt Nam.
Tại Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp liệt kê, phân tích, tổng hợp, so sánh
để làm rõ những quy định của pháp luật New Zealand, Cộng hòa Liên bang Đức trong
mối tương quan với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp hòa giải tại
cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội; từ đó đánh giá và rút ra một số kinh
nghiệm cho Việt Nam.
Và tại Chương 3, phương pháp được sử dụng nổi bật nhất là phương pháp phân
tích, hệ thống, kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến biện pháp hòa giải tại
cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết:
Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự New Zeland, Cộng hòa
Liên bang Đức về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội
trong mối tương quan so sánh với quy định của luật hình sự Việt Nam về vấn đề này để
tìm ra những bất cập, hạn chế trong quy định của luật hình sự Việt Nam và đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và thống nhất áp dụng quy định pháp
luật về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với NCTN phạm tội ở Việt Nam.
Luận văn ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Phụ lục, Danh mục từ viết tắt và
Danh mục tài liệu tham khảo, Phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm “người chưa thành niên phạm tội”
1.1.2 Khái niệm “biện pháp hòa giải tại cộng đồng”
1.1.3 Khái niệm “biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội”
1.2 Mô hình tư pháp người chưa thành niên
1.2.1 Mô hình tư pháp người chưa thành niên ở New Zealand
1.2.2 Mô hình tư pháp người chưa thành niên ở Cộng hòa Liên bang Đức
7
1.2.3 Mô hình tư pháp người chưa thành niên ở Việt Nam
1.2.4 So sánh và kết luận
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự New Zealand, Cộng hòa liên
bang Đức và Việt Nam về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội
2.1. Quy định của pháp luật New Zealand về biện pháp hòa giải tại cộng đồng
áp dụng dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
2.2. Quy định của pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức về biện pháp hòa giải tại
cộng đồng áp dụng dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
2.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp hòa giải tại cộng đồng áp
dụng dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
2.4. So sánh và kết luận
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về biện
pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về biện
pháp hòa giải tại cộng đồng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về biện pháp hòa giải tại cộng đồng đối với người chưa thành niên phạm tội
8
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP HÒA GIẢI TẠI CỘNG ĐỒNG ÁP DỤNG ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm “người chưa thành niên phạm tội”
Trong khoa học luật hình sự, khái niệm về “NCTN phạm tội” được xem là nền
tảng lý luận cho việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục nói chung, biện pháp
hòa giải tại cộng đồng nói riêng áp dụng đối với đối tượng này.
Theo đó, NCTN được quan niệm là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng
như tâm – sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế, thiếu
những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao. Họ có xu hướng
muốn khẳng định, được đánh giá, được tôn trọng, dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên
nhẫn, nhiều hoài bão, thiếu tính thực tế, dễ bị kích động, bị lôi kéo vào những hoạt
động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn thương, nhưng lại dễ thay đổi thích nghi, dễ uốn
nắn…Trong các đặc điểm tâm lý của NCTN, có thể thấy có hai khuynh hướng nổi bật
liên quan đến tội phạm và khả năng giáo dục, cải tạo của họ. Đó là họ dễ bị người khác
dụ dỗ, kích động, thúc đẩy vào việc thực hiện tội phạm nhưng do ý thức phạm tội của
họ chưa cao và chưa chắc chắn nên cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục họ thành người
có ích cho xã hội.16
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý đặc thù nêu trên và phụ thuộc vào trình độ phát
triển, tình hình kinh tế - xã hội mà mỗi quốc gia trên thế giới sẽ có quy định khác nhau
để xác định độ tuổi của NCTN trong khái niệm “NCTN phạm tội” khác nhau, phù hợp
với chính sách pháp luật áp dụng với đối tượng này ở quốc gia mình.
Ở New Zealand, “NCTN phạm tội” được hiểu là người từ đủ 10 tuổi đến dưới 18
tuổi thực hiện hành vi mà pháp luật hình sự quy định là tội phạm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật Tội phạm năm 1961 ở New Zealand
(Crimes Act 1961), không ai bị kết án về hành vi phạm tội đã được thực hiện khi họ
16
Trần Ngọc Lan Trang (2017), tlđd (14), tr. 10.
9
dưới 10 tuổi.17 Theo đó, New Zealand chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
từ đủ 10 tuổi trở lên. Hệ thống tư pháp NCTN ở quốc gia này được áp dụng để xử lý
“trẻ em” từ 10 đến 13 tuổi và “thanh thiếu niên” trong độ tuổi từ 14 đến 17 tuổi.18
Người từ đủ 17 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ bị xử lý bởi hệ thống tư pháp dành cho NCTN
khi họ phạm tội “ít nghiêm trọng”, trường hợp phạm tội với mức độ từ “nghiêm trọng”
trở lên, người từ đủ 17 tuổi sẽ bị xử lý bởi hệ thống tư pháp hình sự dành cho người
trưởng thành. Nếu như một người phạm tội sau khi đã đủ 18 tuổi, họ sẽ bị xử lý như
một người trưởng thành bởi cảnh sát và hệ thống tư pháp hình sự dành cho người
trưởng thành với mọi loại tội phạm.19
Người từ đủ 10 tuổi đến 13 tuổi sẽ được xử lý theo hệ thống chăm sóc và bảo vệ,
có thể được xử lý qua Hội nghị nhóm gia đình và Tòa án gia đình, ngoại trừ trường hợp
nghi ngờ phạm tội hoặc giúp đỡ người phạm tội giết người hoặc ngộ sát và trường hợp
người đủ 12 tuổi hoặc 13 tuổi bị cáo buộc phạm tội nghiêm trọng với hình phạt tù tối
đa là 14 năm hoặc đã phạm tội trước đó và hình phạt tối đa cho lần vi phạm cuối cùng
là trên 10 năm nhưng chưa đến 14 năm tù sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự trước hệ
thống tư pháp hình sự dành cho NCTN.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 17 tuổi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
bất cứ hành vi phạm tội nào, ngoại trừ các tội phạm nghiêm trọng như giết người, ngộ
sát, gây hỏa hoạn và trong trường hợp người đủ 17 tuổi phạm tội từ “nghiêm trọng” trở
lên sẽ được xử lý bởi hệ thống tư pháp hình sự dành cho người trưởng thành; hầu hết
các hành vi phạm tội của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 17 tuổi đều sẽ được xử lý bởi hệ
thống tư pháp hình sự NCTN.20
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, “NCTN phạm tội” được hiểu là người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi (trong một số trường hợp có thể mở rộng cho người từ đủ 18 tuổi đến
dưới 21 tuổi) thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự Đức – Strafgesetzbuch (StGB) năm
1871 quy định là tội phạm.
17
“How the youth justice system works”, http://youthlaw.co.nz/rights/the-youth-justice-system, truy cập ngày
13/05/2020.
18
19
20
Khoản 1 Điều 2 CYPFA 1989 .
Tlđd (17), truy cập ngày 13/05/2020.
Tlđd (17), truy cập ngày 13/05/2020.
10
Tại Điều 19 StGB có quy định: “Người không có năng lực lỗi là người mà khi
thực hiện hành vi chưa đủ 14 tuổi”.21 Theo quy định này, tuổi chịu trách nhiệm hình sự
ở Đức là 14 tuổi, điều đó có nghĩa là, các thủ tục tố tụng hình sự đối với trẻ em22 bị
nghiêm cấm và không một người nào dưới 14 tuổi có thể bị kết án về một tội phạm, trẻ
em trong luật hình sự luôn được xem là hành động vô tội và công tố viên không có
quyền buộc tội đối với họ.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Tòa án NCTN –
Jugendgerichtsgesetz (JGG) năm 1953 (được sửa đổi năm 1974 và được cải cách một
phần vào năm 1990), JGG được áp dụng đối với NCTN tham gia thực hiện các hành vi
vi phạm sẽ bị trừng phạt theo quy định của luật chung. Tại khoản 2 Điều 2 JGG cũng
quy định, NCTN được hiểu là bất kỳ ai tại thời điểm thực hiện hành vi đã đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 18 tuổi, một số trường hợp được mở rộng cho “thanh thiếu niên” là
người đã đủ 18 tuổi nhưng chưa đủ 21 tuổi tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm nếu
họ đáp ứng được một số điều kiện nhất định.
Theo đó, một số điều khoản của JGG vẫn sẽ được áp dụng đối với
Heranwachsende (thanh thiếu niên) – người đã đủ 18 tuổi nhưng chưa đủ 21 tuổi tại
thời điểm thực hiện hành vi vi phạm – nếu họ đáp ứng được một (hoặc cả hai) điều
kiện được quy định tại khoản 1 Điều 105 của JGG. Tại khoản 1 Điều 105 JGG quy
định, trong trường hợp thanh thiếu niên thực hiện một hành vi vi phạm bị trừng phạt
theo quy định của luật chung thì thẩm phán có thể áp dụng các quy định từ Điều 4 đến
Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 10, Điều 11, Điều 13 đến Điều 32 của JGG23 đối với họ
nếu đánh giá tổng thể về nhân cách của người thực hiện hành vi (có tính đến điều kiện
môi trường sống) chứng tỏ rằng tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm, thanh thiếu
niên đó vẫn tương đương với một NCTN về sự phát triển đạo đức và trí tuệ; hoặc về
loại, hoàn cảnh và động cơ của hành vi được thực hiện đã chỉ ra rằng đó là hành vi vi
phạm điển hình của NCTN. Điều kiện thứ nhất quy định tại khoản 1 Điều 105 JGG
khẳng định sự chậm phát triển trong nhân cách của thanh thiếu niên; trong khi điều
21
Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 26.
22
Ở Đức, trẻ em được hiểu là nam hoặc nữ dưới 14 tuổi.
23
Xem them Phụ lục 4 – Trích dẫn một số điều khoản của Luật Tòa án người chưa thành niên (JGG).
11
kiện thứ hai bao gồm những tội phạm mà theo quan điểm khách quan, là những hành vi
vi phạm điển hình của NCTN.
Cách quy định về hai điều kiện để áp dụng JGG đối với Heranwachsende rất rộng
và khó xác định. Do đó, Bundesgerichtshof (BGH) – Tòa án tư pháp liên bang – đã
đưa ra một số đặc điểm để xác định trường hợp nào Heranwachsende được xem là có
“tính cách chưa thành niên điển hình” hoặc “hành vi phạm tội liên quan đến hành vi vi
phạm điển hình của NCTN”.
Đối với điều kiện đầu tiên, BGH cho rằng các đặc điểm như nghiện ma túy, rối
loạn phát triển tâm lý xã hội ở thời thơ ấu và tuổi trẻ, rối loạn trong mối quan hệ giữa
con cái với cha mẹ, không được lớn lên cùng với cha mẹ, những khiếm khuyết về học
vấn hoặc trình độ chuyên môn, bỏ học, rời khỏi nhà cha mẹ từ sớm,…có thể cho thấy
sự chậm phát triển trong nhân cách của Heranwachsende. Tuy nhiên, để khẳng định sự
chậm phát triển trong nhân cách của Heranwachsende, vẫn cần phải có một ý kiến
chuyên môn về tâm lý.
Đối với điều kiện thứ hai, BGH cho rằng một tội phạm được xem là “hành vi vi
phạm điển hình” của NCTN nếu hành vi được thực hiện (về mặt khách quan) và động
cơ của người phạm tội (về mặt chủ quan) có thể được xem là “chưa thành niên điển
hình”. Theo đó, mỗi tội phạm đề có thể đủ điều kiện để được xem là “hành vi vi phạm
điển hình của NCTN”, yếu tố duy nhất để đánh giá là hành vi đó được thực hiện
thường xuyên hơn bởi những NCTN và thể hiện những đặc điểm điển hình của những
hành vi vi phạm phổ biển mà NCTN thực hiện. Theo BGH, yếu tố “hành vi vi phạm
điển hình của NCTN” được xác định nếu tội phạm được thực hiện mang những đặc
điểm điển hình như sự bất cần của tuổi trẻ, thiếu cân nhắc, hấp tấp, chưa trưởng thành
về mặt xã hội hoặc sự nghiệp dư của người phạm tội.24
Ở Việt Nam, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sử dụng thuật ngữ
“người dưới 18 tuổi phạm tội” thay cho thuật ngữ “NCTN phạm tội” trong BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) trước đây.25 Song, tuy cách gọi khác nhau nhưng
24
Katja Kristina Wiese (2007), Juvenile Justice: A comparision between the laws of New Zealand and Germany,
A thesis submitted in fulfillment of the requirements for the Degree of Master of Laws in the University of
Canterbury, tr. 276, 277.
25
Điều 68 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
12
thuật ngữ “NCTN phạm tội” và “người dưới 18 tuổi phạm tội” trong pháp luật hình sự
Việt Nam được hiểu là một.
Tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự có quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
Đồng thời, Điều 90 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng quy định
về việc áp dụng BLHS đối với người dưới 18 tổi phạm tội như sau: “Người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy
định của Chương này”.
Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định rõ các tội
danh cụ thể thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung
một số tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng nhưng có tính chất, mức độ nguy hiểm,
xảy ra phổ biến mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự
để xử lý nghiêm khắc.
Căn cứ vào những quy định trên, luật hình sự Việt Nam quy định độ tuổi bắt đầu
chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi trở lên, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi loại tội phạm và xác định người dưới 18 tuổi chịu trách
nhiệm hình sự theo những quy định đặc biệt tại Chương XII BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017).
Theo đó, “NCTN phạm tội” trong hệ thống tư pháp hình sự NCTN ở Việt Nam
được hiểu là người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm.
13
Từ kết quả nghiên cứu khái niệm “NCTN phạm tội” dưới góc độ quy định pháp
luật của New Zealand, Cộng hòa Liên bang Đức và Việt Nam, tác giả rút ra được một
số so sánh và kết luận như sau:
Thứ nhất là về những điểm tương đồng:
Một là, ở New Zealand, Cộng hòa Liên bang Đức và Việt Nam đều thống nhất
xác định độ tuổi tối đa của NCTN trong khái niệm “NCTN phạm tội” là người dưới 18
tuổi. Cách thức xác định độ tuổi tối đa của NCTN như trên phù hợp với quan điểm của
luật pháp quốc tế về NCTN phạm tội. Theo đó, tại Điều 1 CRC 1989 có quy định “trẻ
em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”26 và tại điểm c Quy tắc 2.2 Quy
tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc – Quy tắc Bắc Kinh (BR) 198527 cũng định
nghĩa “Người chưa thành niên phạm tội là trẻ em hay thanh thiếu niên bị cáo buộc,
hay bị kết luận là đã phạm tội”.
Hai là, việc xác định khái niệm “NCTN phạm tội” ở New Zealand, Cộng hòa
Liên bang Đức và Việt Nam ngoài dựa trên cơ sở độ tuổi còn phụ thuộc vào những đặc
điểm tâm – sinh lý đặc thù của đối tượng này.28 Theo đó, ở các quốc gia nói trên đều
26
27
Tlđd (4), truy cập ngày 15/9/2022.
Có sẵn tại địa chỉ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Quy-tac-tieu-chuan-toi-thieu-ve-hoat-
dong-tu-phap-doi-voi-nguoi-vi-thanh-nien-1985-275842.aspx, truy cập ngày 15/9/2022.
28
Ở Việt Nam, việc thừa nhận những đặc điểm tâm – sinh lý đặc thù của NCTN được thể hiện trước nhất ở quy
định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 91 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Theo đó, “việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức
của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”
(khoản 1) và “việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và
phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và
yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm” (khoản 3). Bởi độ tuổi, khả năng nhận thức, đặc điểm nhân thân là những
yếu tố quan trọng cấu thành nên đặc điểm tâm – sinh lý của mỗi NCTN nên việc BLHS có quy định khi xử lý và
truy cứu TNHS đối với NCTN cần cân nhắc đến những yếu tố này đã thể hiện sự công nhận của pháp luật hình sự
Việt Nam với những đặc điểm tâm – sinh lý đặc thù của NCTN phạm tội.
Ngoài ra, trên cơ sở cân nhắc những đặc điểm tâm – sinh lý đặc thù của lứa tuổi chưa thành niên với yêu cầu
phòng chống tội phạm, BLHS Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những quy định ưu ái hơn
cho NCTN so với người đã thành niên phạm tội (như không áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
NCTN (khoản 5 Điều 91); trong tổng hợp hình phạt, hình phạt tối đa áp dụng với NCTN phạm tội không được
vượt quá 18 năm tù (khoản 1 Điều 103);…) nhằm giáo dục, cải tạo và tạo cơ hội cho NCTN tích cực tự sửa chữa
lỗi lầm, nhanh chóng được hòa nhập trở lại đời sống cộng đồng để phát triển hoàn thiện nhân cách.
14
thống nhất xác định NCTN là những người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện và đang
trong quá trình hoàn thiện về thể chất, trí tuệ lẫn tinh thần nên là đối tượng cần được
bảo vệ và đối xử đặc biệt trong hệ thống tư pháp hình sự. Việc công nhận những đặc
điểm tâm – sinh lý đặc thù này ở NCTN sẽ giúp cho các quốc gia có các chính sách
pháp lý phù hợp, không chỉ giúp cho NCTN phạm tội nhận thức được hậu quả từ hành
vi phạm tội, đạt được hiệu quả cải tạo, giáo dục, sớm hòa nhập cộng đồng và phòng
ngừa tái phạm ở NCTN mà còn hạn chế những tác động tiêu cực của các hoạt động tố
tụng hình sự đến quá trình phát triển và trưởng thành của họ.
Thứ hai là về những điểm khác biệt:
Một là, khác với New Zealand và Việt Nam, ở Cộng Hòa Liên Bang Đức còn có
quy định mở rộng cho “thanh thiếu niên” là người đã đủ 18 tuổi nhưng chưa đủ 21 tuổi
tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm cũng được xác định là “NCTN phạm tội” để áp
dụng các quy định của JGG nếu họ đáp ứng được một (hoặc cả hai) điều kiện được quy
định tại khoản 1 Điều 105 của JGG gồm thứ nhất, tại thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi vi phạm, có đủ cơ sở để xác định rằng thanh thiếu niên đó vẫn tương
đương một NCTN về cả sự phát triển đạo đức và trí tuệ hoặc thứ hai, về loại, hoàn
cảnh và động cơ của hành vi được thực hiện đã chỉ ra rằng đó là hanh vi vi phạm điển
hình của NCTN.
Liên quan đến vấn đề này, một trong các nguyên tắc trong chính sách pháp luật
hình sự đối với NCTN phạm tội theo quy định tại Quy tắc số 4 của Quy tắc Bắc Kinh
năm 1985 là “Trong những hệ thống pháp luật công nhận khái niệm tuổi chịu trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên thì không được quy định quá thấp tuổi bắt
đầu phải chịu trách nhiệm hình sự, mà cần lưu ý đến thực tế của độ trưởng thành về trí
tuệ, tinh thần và tình cảm của người phải chịu trách nhiệm hình sự”.29 Việc quy định
nguyên tắc này xuất phát từ việc có sự khác nhau lớn trong việc quy định tuổi tối thiểu
chịu trách nhiệm hình sự do điều kiện lịch sử và văn hóa. Cách tiếp cận hiện đại là xét
xem liệu một đứa trẻ có cách hành xử có đúng với những yếu tố tâm lý và đạo đức cấu
thành trách nhiệm hình sự hay không; hay nói cách khác, liệu một đứa trẻ – với nhận
thức và hiểu biết của cá nhân mình – có phải chịu trách nhiệm trước những hành vi
29
Tlđd (27), truy cập ngày 19/6/2022.
- Xem thêm -