ĐẠI IHỌC
QUỐUỐGIAHIANỘIỘIỘI
ĐẠ HỌC QUQ C GC G HÀ N N
ĐẠI HKHOỐC IA À HÀ
ỌC A LUẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌKHOA LUẬT TỰ NHIÊN
C KHOA HỌC
KHOA SƯ PHẠM
-------- --------------------------------- ----
------
NGUYỄN THTHỊIMIM LIÊN
NGUYỄN Ị K K LIÊN
HÀNH VIVI CẠH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
H
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HÀNH CẠN NH TRANH KHÔNG LÀNH MẠN
ĐềLIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU THEO LUẬT H HỮU
LIÊtN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU THEO LUẬT SỞSỞỮU
ài:
TRÍ TUỆ NĂMM 2005
TRÍ TUỆ NĂ 2005
GiáoLUẬNƣVĂNẫnHẠC SĨ LULUẬTỌC C
viêLUẬN g d T THẠC SĨ ẬT H HỌ
n h ớn VĂN
:
Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
HÀ NỘI - 2013
HÀ NỘI - 2013
Hµ néi - 2009
HỌC --------
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌCKQUỐA LUẬTÀ
NỘI HO C GIA H
TRƯỜNG ĐẠI--------KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA SƯ PHẠM
--------------------
NGUYỄN THỊ KIM LIÊN
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU THEO LUẬT SỞ HỮU
TRÍ TUỆ NĂM 2005
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HỌC
Giáo viên hƣớng dẫn
:
Sinh viên thực hiện
:Lớ
p
:
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH
Hµ néi - 2009
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ KIM LIÊN
MỤC
LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN
NHÃN HIỆU THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005 ..................... 13
1.1
Khái quát chung về bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu.................................................................................................................... 13
1.1.1 Khái niệm nhãn hiệu và điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu..................................................................................................... 13
1.1.2 Căn cứ phát sinh quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ...................... 20
1.1.3 Thời hạn bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu....................... 24
1.1.4 Phạm vi độc quyền sử dụng nhãn hiệu ............................................................. 26
1.2
Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn
hiệu.................................................................................................................... 28
1.2.1 Khái niệm và bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................... 29
1.2.2 Hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên
quan đến nhãn hiệu ........................................................................................... 33
1.2.3 Xác định phạm vi điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên
quan đến nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật Cạnh
tranh năm 2004 ................................................................................................. 37
1.2.4 Ý nghĩa của sự điều chỉnh pháp luật chống lại các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu. ...................................................... 43
Chƣơng 2: HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH
LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU VÀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI
PHẠM THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005................................ 47
2.1 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu......................... 47
2.1.1 Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn với nhãn hiệu ................... 47
2.1.1.1Khái niệm chỉ dẫn thương mại......................................................................... 47
2.1.1.2Các dạng hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhẫm lẫn với nhãn
hiệu.................................................................................................................... 60
2.1.1.3Các yếu tố gây nhầm lẫn với nhãn hiệu ........................................................... 67
2.1.2 Hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của
điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là
thành viên khi không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu..................... 69
2.1.3 Hành vi đăng kí, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng
hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu....................................................... 75
2.1.4 Phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi xâm phạm
quyền hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu........................................................ 85
2.2
Các biện pháp xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
nhãn hiệu........................................................................................................... 90
2.2.1 Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu
bằng biện pháp dân sự....................................................................................... 92
2.2.2 Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan nhãn hiệu bằng
biện pháp hành chính ........................................................................................ 97
2.2.3 Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu
bằng biện pháp hình sự ..................................................................................... 99
2.2.4 Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan nhãn hiệu bằng
biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ..................................... 100
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH
MẠNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO VỆ NHÃN HIỆU .............................................................. 102
3.1
Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu trong
bối cảnh hội nhập hiện nay ............................................................................. 102
3.2
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu ..................................................... 109
KẾT LUẬN ................................................................................................... 116
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
STT
Tên viết tắt
Nội dung
1
CDĐL
Chỉ dẫn địa lý
2
SHCN
Sở hữu công nghiệp
3
SHTT
Sở hữu trí tuệ
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
(World Intellectual Property
Organization)
4
WIPO
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh cạnh tranh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, vấn đề
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trở nên đặc biệt quan trọng và được xem là một
nguyên tắc cơ bản trong sự vận động của nền kinh tế thế giới. Tài sản trí tuệ
chiếm vị trí quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng của hầu hết các quốc gia
trên thế giới và Việt nam cũng không ngoại lệ. Từ khi trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức thương mại Thế giới WTO và là thành viên của công
ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ ngày 08/03/1949, Việt Nam có
nghĩa vụ phải thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết đó. Trong khi đó những
hiểu biết về luật sở hữu trí tuệ nói chung và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu nói riêng của chúng ta chưa đầy đủ. Chúng ta đang đứng trước
những cơ hội và thách thức rất lớn.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh luôn ra sức chạy đua
với nhau để tìm chỗ đứng, khẳng định vị thế trên thị trường. Cuộc cạnh tranh
khốc liệt đó tất yếu dẫn đến kết quả là sự thành công hay đổ vỡ của các doanh
nghiệp. Để tồn tại và phát triển các chủ thể kinh doanh thường bằng mọi cách tìm
ra những cách thức kinh doanh, tiếp thị nhằm quảng bá rộng rãi thương hiệu
và không ngừng mở rộng thị trường. Xuất phát từ giá trị thương mại to lớn của
nhãn hiệu, một số chủ thể kinh doanh không trung thực đã tìm mọi cách để
chiếm đoạt, sử dụng trái phép những thành quả đầu tư của đối thủ cạnh tranh
thông qua các hành vi dèm pha, hạ thấp uy tín của đối thủ cạnh tranh nhằm
gây cản trở đến hoạt động bình thường của họ. Những hành vi này vừa vi phạm
pháp luật cạnh tranh vừa vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ. Thực tế này đòi hỏi
sự nghiêm minh của pháp luật, muốn như vậy cần phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ để tạo
ra một
môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Vấn đề cạnh tranh liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp được quy
định trong Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 tại
khoản 2, khoản 3 Điều 10bis và Hiệp định về các khía cạnh thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ - Hiệp định TRIPS năm 1994 tại điều 8.2 và điều 40. Ở
Việt Nam, hành vi cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp lần đầu
tiên được quy định tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp.
Hiện nay, vấn đề cạnh tranh được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau như:
Luật cạnh tranh năm 2004, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm
2009), Luật chuyển giao công nghệ năm 2007, Nghị định 116/2005/NĐ-CP
ngày 15/9/2005 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
cạnh tranh Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật quy định tương đối
đầy đủ song hiệu lực thực thi chưa cao, chế tài còn nhẹ chưa đủ sức răn đe, do
đó các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể kinh doanh thiếu
trung thực vẫn diễn ra. Việc tìm hiểu các vấn đề pháp lý và thực tiễn về hành vi
hành cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo vệ nhãn hiệu - tài sản của
các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà còn tránh những
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển nói chung của nền kinh tế Việt Nam. Vì
các lí do trên đây mà tôi chọn đề tài: "Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
liên quan tới nhãn hiệu theo Luật sở hữu trí tuệ năm 2005" làm đối tượng
nghiên cứu trong luận văn của mình.
2.
Mục đích và phạm vi nghiên
cứu
Mục đích nghiên cứu: thứ nhất, tìm hiểu các quy định của pháp luật
hiện hành về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền Sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu; thứ hai, tìm hiểu thực trạng các hành vi vi
phạm diễn ra trên thực tế, qua đó tìm ra đâu là nguyên nhân và đâu là các vấn
đề còn tồn tại; thứ ba, trên cơ sở sự nghiên cứu mà đưa ra các kiến nghị nhằm bổ
khuyết cho hệ thống pháp luật hiện hành để hoàn thiện các quy định pháp luật sở
hữu trí tuệ về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, về cơ chế xử lý hành vi
góp phần giải quyết các vấn đề còn tồn tại và hạn chế tình trạnh cạnh tranh không lành
mạnh đang diễn ra trên thực tế hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp là một nội dụng rộng lớn và phức tạp. Nó liên
quan tới nhiều hệ thống văn bản pháp luật và chịu sự điều chỉnh của nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Luật Sở hữu trí tuê, Luật Cạnh tranh, Luật Hành
chính Vì vậy, cùng với mục đích được đặt ra ở trên mà tại Luận văn này tôi chỉ tập
trung nghiên cứu các vấn đề về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với
một đối tượng của quyền Sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu mà thôi, trên cơ sở
sự nghiên cứu mà đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi trong
lĩnh vực pháp luật hiện hành.
3.
Phƣơng pháp nghiên cứu
-
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp
Trong quá trình thực hiện, tôi sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá
tổng hợp để đưa ra các nhận định cá nhân về các quy định pháp luật hiện hành
liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và các quy
định về hành cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền Sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu nhằm góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật
Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
-
Phương pháp so sánh
Để có thể đánh giá được một cách khách quan nhất các quy định của pháp
luật về cạnh tranh không lành mạnh đối với nhãn hiệu, trong Luận văn này tôi đã sử
dụng cả phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp này được vận dụng rõ
nhất là trong việc so sánh các quy định của pháp luật hiện hành của nước ta với
các quy đinh tại các điều ước quốc tế cũng như pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới trong cùng lĩnh vực. Từ đó rút ra các điểm tương đồng, khác biệt
cũng như các mặt mạnh hay các yếu điểm của hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam nói chung và các quy định về cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu qua đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện.
4. Những đóng góp của luận văn
Luận văn mang lại một số kết quả nghiên cứu như sau:
-
Làm rõ hơn các quy định của pháp luật hiện hành về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đối với nhãn hiệu và đưa ra những đánh giá khách quan.
-
Phản ánh chân thực về những thiếu sót trong các quy định về cạnh
tranh không lành mạnh liên quan tới nhãn hiệu, thực trạng diễn ra các
vi phạm trên thực tế và thực trạng xử lý vi phạm cũng như hiệu quả của
cơ chế thực thi quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
-
Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật, tăng cường
hiệu quả thực thi cũng như việc xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
5. Cơ cấu của Luận văn:
Luận văn này có các phần: mở đầu, nội dung chính và kết luận. Trong
đó thì phần nội dung chính có cơ cấu như sau:
Chương I: Khái quát chung về nhãn hiệu và pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu theo Luật sở hữu trí tuệ năm
2005.
Chương II: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu và
các biện pháp xử lý vi phạm theo Luật sở hữu trí tuệ năm 2005.
Chương III. Thực trạng xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU THEO LUẬT
SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005
1.1
Khái quát chung về bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu
1.1.1 Khái niệm nhãn hiệu và điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một trong những đối tượng khá phổ biến của quyền sở
hữu công nghiệp trong cuộc sống hiện đại. Mặc dù nhãn hiệu không phải là
hàng hoá nhưng nó lại có ý nghĩa rất lớn trong thương mại. Chúng ta có thể
bắt gặp một nhãn hiệu ở bất kỳ nơi đâu thông qua truyền hình, hoạt động tiêu
dùng, trên đường về nhà, thậm chí bất kỳ nơi nào trong ngôi nhà của chúng ta.
Các sản phẩm mang nhãn hiệu Cola - cola, Omo, Trung Nguyên, P/S, v.v.
được chúng ta sử dụng khá thường xuyên trong sinh hoạt hằng ngày. Sự cạnh
tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường công nghiệp hoá hiện đại hoá đã cho phép
các nhà sản xuất đưa ra nhiều loại sản phẩm/ dịch vụ đa dạng về kiểu dáng,
chủng loại và chất lượng để người tiêu dùng lựa chọn. Cạnh tranh là một yếu
tố không thể thiếu trong kinh doanh, nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường cũng làm xuất hiện
những mặt trái của nó, một số chủ thể kinh doanh thiếu trung thực bằng cách
sử dụng nhãn hiệu có uy tín của đối thủ cạnh tranh hòng làm cho người tiêu
dùng bị nhầm lẫn khi mua sản phẩm nếu không chú ý kỹ: các sản phẩm Pin của
hãng SONY bị nhái lại nhãn hiệu thành SQNY, PUMA bị nhái thành PAMU,
NIKE bị nhái thành HIKE, hiện nay trên thị trường có đến
khoảng hơn mười loại thuốc nhái Panadol như: Pancidol, Panactol, Befadol
Therpamol, Therodol [11]. Các nhãn hiệu bị lợi dụng để nhái lại, làm giả thường
là các nhãn hiệu đã tạo được thương hiệu, chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng.
Điều này không những gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cho các doanh nghiệp
chân chính mà còn gây ra các vấn đề nghiêm trọng đối với sức khỏe cho người
tiêu dùng nếu đó là các sản phẩm về thuốc, dược phẩm, thực phẩm mà không đạt
chuẩn chất lượng.
Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia luôn coi trọng việc bảo hộ nhãn
hiệu chống lại các hành vi xâm phạm quyền và hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Cho đến nay đã có khá nhiều các điều ước quốc tế song phương và đa
phương điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu như: Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết
ngày 20.3.1883 tại Paris, Hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu,
Hiệp định TRIPs - Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ ( sau đây cụm từ "Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp" được gọi tắt là "Công ước Paris", cụm từ "Hiệp định TRIPs - Hiệp
định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ"
được gọi tắt là "Hiệp định TRIPs", cụm từ "Hệ thống Madrid về đăng ký quốc
tế nhãn hiệu" được gọi tắt là "Hệ thống Madrid"). Tại Công ước Paris chưa đưa
ra khái niệm nhãn hiệu mà chỉ quy định các điều khoản liên quan đến việc bảo
hộ các đối tượng SHCN, Hệ thống Madrid thì thiết lập hệ thống quốc tế về đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu. Trong các điều ước quốc tế thì chỉ có Hiệp định TRIPs đã
có quy định về khái niệm nhãn hiệu. Điều 15 Hiệp định TRIPs quy định như sau:
"Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng
hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các
từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố
hình học và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu
hiệu đó
phải có khả năng được đăng ký làm nhãn hiệu" [32].
Theo khái niệm này thì nhãn hiệu phải là một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu
hiệu. Hiệp định TRIPs quy định nhãn hiệu là "bất kỳ dấu hiệu nào" khiến nó trở
nên khái quát hơn, mềm dẻo và linh hoạt hơn. Các dấu hiệu đó có thể là dấu hiệu
nhìn thấy được, cũng có thể là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng được đăng ký là
nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hoá/ dịch vụ của
một doanh nghiệp này với hàng hoá/ dịch vụ của một doanh nghiệp khác.
Khái niệm nhãn hiệu tại Hiệp định TRIPs đã trở thành nguyên tắc chuẩn mực,
nó mang tính mềm dẻo, linh hoạt trong pháp luật quốc tế. Tại pháp luật của các
quốc gia, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội của mình mà đưa
ra khái niệm nhãn hiệu phù hợp.
Tại Châu Âu, xuất phát từ đặc điểm là một cộng đồng chung mà Luật về
nhãn hiệu đưa ra khái niệm "nhãn hiệu cộng đồng". Khái niệm "nhãn hiệu cộng
đồng" được quy định ở điều 2, 89/104/EEC3 như sau: Một nhãn hiệu cộng
đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày một cách rõ ràng và chi
tiết, đặc biệt là các từ, bao gồm tên riêng, các phác hoạ hình ảnh, chữ viết,
chữ số, hình dáng của hàng hoá hoặc của bao bì sản phẩm, với điều kiện là
những dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của chủ
thể kinh doanh này với hàng hoá, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác
[24].
Cũng giống như quy định tại Hiệp định TRIPs, việc sử dụng từ "bất kỳ
dấu hiệu nào" của Luật về nhãn hiệu của Châu Âu làm cho khái niệm nhãn
hiệu mềm dẻo và không giới hạn, trong đó khả năng phân biệt cũng được coi là
điều kiện cơ bản và bắt buộc nếu một dấu hiệu muốn được đăng ký là nhãn hiệu.
Tuy nhiên, khác với khái niệm được quy định trong Hiệp định TRIPs là không
mô tả cách thức trình bày của một nhãn hiệu, thì mục đích của điều
kiện này trong Luật về nhãn hiệu của Châu Âu là nhằm chỉ ra nhãn hiệu là
gì
hay được nhận thức như thế nào.
Theo Luật nhãn hiệu của Hoa Kỳ đoạn 1127 Lanham Act, nhãn hiệu
hàng hoá được giải thích như sau: "Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm
bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà:
(1) được sử dụng bởi một người, hoặc
(2) được một người có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương
mại và xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác định và phân biệt
hàng hoá của người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với hàng
hoá được sản xuất hoặc được bán bởi những người khác và chỉ ra
nguồn gốc của hàng hoá thậm chí cả khi không xác định được nguồn
gốc đó. [19,24].
Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ coi trọng việc sử dụng trước một nhãn hiệu của
chủ thể: "được sử dụng bởi một người, hoặc được một người có ý định chân
thành là sử dụng nó trong thương mại" và ghi nhận nguyên tắc " quyền ưu
tiên sử dụng" ( first to use)". Quy định trên kết hợp hai chức năng khác nhau
của nhãn hiệu: thứ nhất, chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá; thứ hai, phân biệt
hàng hoá của chủ thể này với hàng hoá của chủ thể khác. Mục 1052 đạo luật
Lanham quy định một nhãn hiệu sẽ được đăng ký vào Hệ thống đăng ký gốc nếu
nó có khả năng phân biệt hàng hoá của chủ thể này với hàng hoá của chủ thể
khác trừ khi nó bị ngăn cấm bởi các quy định của pháp luật: "Không có nhãn
hiệu nào mà hàng hoá của người nộp đơn có khả năng phân biệt với hàng hoá
của những người khác lại bị từ chối đăng ký vào hệ thống đăng bạ gốc, trừ"
[19]. Như vậy, theo tinh thần của điều luật này, bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt không rơi vào các trường hợp bị từ chối đều có thể được đăng ký là nhãn hiệu.
Cho đến nay, Việt Nam là một thành viên của nhiều thoả thuận quốc tế
về nhãn hiệu, trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ được quy
định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Nghị định,
Thông tư hướng dẫn, thậm chí bởi rất nhiều các quyết định của Cục SHTT.
Luật SHTT năm 2005 là một đạo luật chuyên ngành đầu tiên của Việt Nam về
quyền SHTT trên cơ sở pháp điển hoá các quy định của pháp luật về SHTT đã
được ban hành từ trước. Trong Luật SHTT của Việt Nam khái niệm nhãn hiệu
được quy định trong phần giải thích từ ngữ: "nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" [28]. Tuy
nhiên, không phải bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt cũng có thể trở
thành nhãn hiệu, điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ được quy định
tại điều 72 Luật SHTT như sau: "Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các
điều kiện sau đây:1- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ,
hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể
hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; 2- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ
của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác" [28].
Hiệp địnhTRIPs và Luật nhãn hiệu của Châu Âu có quy định mở hơn
đối với các dấu hiệu có thể làm nhãn hiệu là "bất kỳ dấu hiệu nào" có khả
năng phân biệt chứ không chỉ bó hẹp ở các dấu hiệu nhìn thấy được. So với các
khái niệm nhãn hiệu được quy định tại Hiệp địnhTRIPs và Luật nhãn hiệu của
Châu Âu thì khái niệm của Luật SHTT 2005 ít mềm dẻo linh hoạt hơn chỉ chấp
nhận các dấu hiệu nhìn thấy được bằng thị giác như chữc cái, số học: Bitis,
Songhong, Songlong, Pico, Bia 333 Điều này có nghĩa là các dấu hiệu như âm
thanh, mùi vị không thể được đăng ký là nhãn hiệu. Với tốc độ hội nhập kinh tế
hiện nay và trình độ dân trí ngày một phát triển, thiết nghĩ cần phải quy định
mở rộng hơn khái niệm về nhãn hiệu là "bất kỳ dấu hiệu
nào". Như vậy pháp luật sẽ trở nên mềm dẻo hơn, áp dụng linh hoạt hơn
trong mọi tình huống.
Trên thực tế, tại các nước phát triển có rất nhiều các dấu hiệu khác biệt
không nằm trong các dấu hiệu được liệt kê và vẫn được đăng ký. Mặc dù
không được quy định cụ thể nhưng dấu hiệu có thể bao gồm cả khẩu hiệu, âm
thanh, mùi vị Một nhãn hiệu thông thường được phân biệt bằng thị giác nhưng
cũng có thể được nhận thức bởi một hay vài giác quan khác như thính giác,
khứu giác, chẳng hạn như nhãn hiệu mùi. Mùi được coi là nhạy cảm nhất và
hiệu quả lâu dài nhất đối với các giác quan và nếu được sử dụng hiệu quả nó có
thể tác động đến tiềm thức cũng như trạng thái của con người. Nhãn hiệu mùi
cỏ tươi mới cắt cho bóng tenis đã được bảo hộ quyền SHCN tại Châu Âu, để
được bảo hộ họ lập luận rằng: mùi cỏ tươi mới cắt là một mùi có khả năng phân
biệt mà ai cũng nhận ra ngay lập tức nhờ sự trải nghiệm của mình và với nhiều
người, mùi hoặc hương của cỏ mới cắt gợi nhớ về mùa xuân, hoặc mùa hè, về
cánh đồng cỏ mới cắt, sân chơi hoặc những trải nghiệm thú vị tương tự. Tại
Anh, ngay sau khi có sự thay đổi về luật, một số đơn đã được nộp để đăng ký
cho nhãn hiệu mùi, nhãn hiệu âm thanh như: "mùi hoa hồng" cho các sản phẩm
lốp xe (Đơn số 20011416), "mùi bia" cho phi tiêu, nhãn hiệu âm thanh là tiếng
bíp bíp cho phương tiện truyền thanh, ánh sáng của một chương trình truyền
hình giải trí, hệ thống tín hiệu của chương trình phát thanh truyền hình[33].
Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ đã mở rộng bảo vệ các loại nhãn hiệu không dễ dàng được
nhận ra, chẳng hạn như hình dạng sản phẩm, mầu sắc, âm thanh, mùi thơm
Hoa kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận viêc đăng ký nhãn hiệu mùi vị - mùi thơm
tươi mát của nước hoa PLUMERIA dùng cho chỉ may và thêu ren vào năm
1990 [33]. Trên thực tế, các nhãn hiệu mùi vị, âm thanh không phải là nhãn hiệu
phổ biến và ít được các doanh nghiệp sử dụng bởi khả năng phân biệt thấp,
trong quá trình đăng
- Xem thêm -