Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục pháp luật ở đô thị qua thực tiễn thành phố hải dương...

Tài liệu Giáo dục pháp luật ở đô thị qua thực tiễn thành phố hải dương

.PDF
104
13
135

Mô tả:

Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Thu Thủy Giáo dục pháp luật ở đô thị qua thực tiễn thành phố Hải Dương Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội – 2010 Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Thu Thủy Giáo dục pháp luật ở đô thị qua thực tiễn thành phố Hải Dương Chuyên ngành : Lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn Hà nội - 2010 MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.2. 1.2.1. 1.2.1.1. 1.2.1.2. 1.2.1.3. 1.2.1.4. 1.2.2. 1.3. 1.3.1. 1.3.1.1. 1.3.1.2. 1.3.1.3. 1.3.1.4. 1.3.2. 1.3.2.1. 1.3.2.2. Sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng bằng hòa giải Khái niệm hòa giải ở cơ sở Đặc điểm hòa giải ở cơ sở Vai trò của hòa giải ở cơ sở và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở Vai trò của hòa giải ở cơ sở Hòa giải góp phần giải quyết ngay, kịp thời, có hiệu quả các vi phạm, xích mích, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của nhân dân cũng nhƣ của Nhà nƣớc Hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội Hòa giải góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở Nguyên tắc, phạm vi hòa giải ở cơ sở Nguyên tắc hòa giải ở cơ sở Phù hợp với đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải Khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tƣ của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng Kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt đƣợc kết quả hòa giải Phạm vi hòa giải ở cơ sở Những vụ, việc đƣợc tiến hành hòa giải Những vụ, việc không đƣợc hòa giải Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ THỰC TIỄN ÁP 8 8 10 15 21 21 21 22 22 23 23 25 25 25 26 27 28 30 30 32 36 DỤNG 2.1. 2.1.1. 2.1.1.1. 2.1.1.2. 2.1.2. 2.1.2.1. 2.1.2.2. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. Thực trạng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở Quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở Thời kỳ trước năm 1945 Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay Quản lý nhà nƣớc về công tác hòa giải Nội dung quản lý nhà nƣớc về công tác hòa giải Trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc về công tác hòa giải Thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở Tổ chức hòa giải ở cơ sở Bồi dƣỡng, tập huấn nghiệp vụ hòa giải Thể chế tài chính cho hoạt động hòa giải Những vƣớng mắc về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở Pháp luật chƣa đồng bộ, thiếu thống nhất Những vấn đề mới phát sinh về tổ chức hòa giải chƣa đƣợc giải quyết dứt điểm Đầu tƣ nguồn lực Chương 3: PHƢƠNG HUỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA 3.1 3.1.1. Những phƣơng hƣớng chủ yếu hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở phải đƣợc tiến hành trong sự phù hợp với các biện pháp thực thi chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 theo tinh thần Nghị Quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở phải đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở phải theo hƣớng phù hợp với việc kiện toàn các thiết chế xã hội tự nguyện trong điều kiện xây dựng và củng cố xã hội dân sự định hƣớng xã hội chủ nghĩa Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở phải đáp ứng đƣợc yêu cầu củng cố trật tự xã hội, giáo dục đạo đức kết hợp giáo dục pháp luật và những quy ƣớc tiến bộ của cộng đồng Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở phải hƣớng tới việc bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích, tăng cƣờng sự đồng thuận trong xã hội Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở Sớm ban hành Luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở Tiếp tục bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải Hoàn thiện các quy định về sự quản lý của Nhà nƣớc, sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác hòa giải ở cơ sở Nâng cao việc tuyên truyền pháp luật về vai trò của hòa giải trong đời sống xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở 36 36 36 39 47 47 49 55 55 65 66 67 67 68 69 72 GIẢI Ở CƠ SỞ 3.1.2. 3.1.3. 3.1.4. 3.1.5. 3.2. 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. 3.2.4. 1 72 72 72 74 75 76 77 77 83 84 86 3.2.5. Đổi mới công tác bồi dƣỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hòa giải cho tổ viên Tổ hòa giải KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 2 86 89 91 97 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo trong 25 năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực tiễn đổi mới đất nước đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng rằng: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đòi hỏi tất yếu phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là phương thức không chỉ để xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mà còn là phương thức phổ biến, chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả. Điều 2 Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức...". Quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đó cũng đồng thời là phương pháp chủ yếu bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà nước và đáp ứng những yêu cầu của xu thế hội nhập và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Như chúng ta đã biết, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, Pháp luật tự nó không đến được với đông đảo các thành viên trong xã hội, mà phải thông qua các hình thức phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích, giảng dạy..., nghĩa là thông qua giáo dục pháp luật. Ở thành phố Hải Dương trong những năm gần đây, công tác giáo dục pháp luật nói chung được các cấp uỷ Đảng và chính quyền quan tâm. Giáo dục pháp luật được xác định là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đã có nhiều biện pháp để triển khai công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn. Song thực tế cũng phải thấy rằng, hiện nay việc giáo dục pháp luật để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới ở tỉnh Hải Dương nói chung và thành phố Hải Dương nói riêng đang là vấn đề bức xúc. Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân đặc biệt là phẩm chất đạo đức và trình độ hiểu biết pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước, bởi vì họ vừa là chủ thể chấp hành pháp luật, vừa là chủ thể tổ chức triển khai đưa pháp luật vào cuộc sống. Từ chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính - những người tham gia công tác xây dựng pháp luật, triển khai thực hiện pháp luật và kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể thấy, công tác giáo dục pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các bộ luật, đạo luật luôn giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mọi hoạt động của công dân, tổ chức đều phải tuân theo các quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức là các “tế bào” cấu thành nên bộ máy nhà nước. Các cơ quan hành 1 chính nhà nước không thể hình thành, tồn tại và hoạt động nếu thiếu đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Về mặt lý thuyết, mỗi cán bộ, công chức đồng thời cũng là một công dân, cũng phải tuân thủ theo pháp luật. Tuy nhiên, cán bộ, công chức còn là những người trực tiếp thực thi pháp luật, là người đại diện cho cơ quan công quyền trước nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có đi vào cuộc sống và được thực hiện một cách hiệu quả hay không là do đội ngũ cán bộ, công chức hành chính quyết định. Thành phố Hải Dương vừa được Đảng và Nhà nước công nhận là đô thị loại 2, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Hải Dương. Thành phố có thành phần dân cư đa dạng, nhiều đầu mối cơ sở với những đặc điểm địa bàn khác nhau, đang trong giai đoạn đô thị hoá với nhiều dự án, công trình được triển khai. Chính vì vậy, hoạt động giáo dục pháp luật cần có bước đột phá, thực sự đổi mới về chất; cần phải có bước đi mạnh mẽ hơn, phải có trọng tâm, trọng điểm hơn trong kế hoạch tổng thể. Mặt khác, để góp phần thực hiện các mục tiêu, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tiếp theo của thành phố, cần có sự nghiên cứu, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục pháp luật của thành phố Hải Dương trong giai đoạn tiếp theo. Là công chức công tác tại phòng Tư pháp thành phố Hải Dương, trực tiếp tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân thành phố về quản lý nhà nước trong lĩnh vực Tư pháp nói chung, trong đó bao gồm hoạt động giáo dục pháp luật, học viên nhận thấy cần phải có những giải pháp cho công tác giáo dục pháp luật để đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài trong quản lý nhà nước là một nhiệm vụ thường xuyên và cấp thiết, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế. Với lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Giáo dục 2 pháp luật ở đô thị qua thực tiễn thành phố Hải Dương" làm luận văn Thạc sỹ của mình. Tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc thực hiện nhiệm vụ cấp thiết đó. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn: 2.1. Mục đích: Xây dựng luận cứ cho các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục pháp luật và quản lý nhà nước đối với hoạt động này trên địa bàn thành phố Hải Dương trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện tốt mục đích đề ra, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ một số vấn đề về lý luận giáo dục pháp luật và việc áp dụng ở đô thị; công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương; - Đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương giai đoạn 2003-2009; - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương trong giai đoạn mới. 3. Đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Công tác quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật và hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương; - Các đối tƣợng được thụ hưởng kết quả giáo dục pháp luật 3.2. Phạm vi nghiên cứu: 3 Thực trạng giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương trong khoảng thời gian từ 2003-2009. Đây chính là thời điểm thực hiện Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật 5 năm lần thứ 2 (2003-2007) và thực hiện Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật 5 năm lần thứ 3 của Chính phủ (2008-2012). 3.3. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận chung được sử dụng trong luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, mô hình hoá. 4. Tình hình nghiên cứu và những đóng góp của luận văn: 4.1. Tình hình nghiên cứu: Giáo dục pháp luật với tư cách là một phạm trù pháp lý là một dạng hoạt động của Nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng cường pháp chế, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan và các nhà khoa học từ trước đến nay đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài như: "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" Luận án tiến sỹ Luật của Trần Ngọc Đường. "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động ở Việt Nam" Luận án Phó tiến sỹ luật của Nguyễn Đình Lộc. Ở trong nước, việc nghiên cứu giáo dục pháp luật được nhiều tác giả đề cập đến những khía cạnh và mức độ khác nhau, thể hiện trong các công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các báo, tạp chí và giáo dục pháp luật đã là đề tài của nhiều luận án, luận văn luật học, các công trình nghiên cứu đó có thể kể đến như: 4 "Giáo dục pháp luật cho nhân dân" của tác giả Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí cộng sản, số 10, năm 1983); "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới" của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, năm 1985); "Giáo dục ý thức pháp luật" của Nguyễn Trọng Bích (Tạp chí xây dựng Đảng, số 4, năm 1989); Khoa Nhà nước và Pháp luật (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999), Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hoàng (2000), Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Đình Khiên (2002), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Tiếp theo, có thể kể đến: Lương Thanh Cường (2004), Nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ công chức, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; Nguyễn Văn Động (2003), Một số ý kiến về đổi mới nội, dung, phương pháp giảng dạy môn Lý luận nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học, số 12/2003; Nguyễn Văn Động (2005), Một số ý kiến về nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống hóa pháp luật ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9/2005; 5 Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội; Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy pháp luật hay các cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan nhà nước được công bố tên các báo, tạp chí,... Các công trình nghiên cứu này đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về ý thức pháp luật, giáo dục pháp luật và đưa ra những mô hình, giải pháp thực tiễn về giáo dục pháp luật cho những đối tượng khác nhau. Mỗi nhà khoa học có một cách khám phá, khai thác đề tài này ở những góc độ khác nhau. Nhìn chung các công trình nghiên cứu đó đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động giáo dục pháp luật; đồng thời góp phần bổ sung vào kho tài liệu quý báu cho các thế hệ tiếp theo tham khảo, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có công trình luận án, luận văn nào nghiên cứu cụ thể về hoạt động giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương với đặc điểm kinh tế - xã hội, với những đối tượng đặc thù tại cơ sở. Với tính cách là một đô thị thu nhỏ, trong giai đoạn hiện nay cần phải chú trọng đúng mức và cấp thiết của việc giáo dục pháp luật, coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng góp phần vào việc ổn định tình hình và phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị nói chung và thành phố Hải Dương nói riêng. 4.2. Những đóng góp của luận văn: Luận văn tiếp cận việc tìm hiểu, nghiên cứu về vai trò và thực trạng của hoạt động giáo dục pháp luật tại thành phố Hải Dương trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề ra một số kiến nghị và giải pháp cần thiết để tăng cường quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật. Kết quả nghiên cứu này có thể tham khảo vận dụng trong hoạt động giáo dục pháp luật trước hết đối với thành phố Hải Dương, sau nữa là đối với các đô thị trên phạm vi cả nước nói chung. 6 - Luận văn góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với pháp luật và công tác giáo dục pháp luật. - Luận văn đã hệ thống hoá tư liệu, tài liệu, văn bản pháp lý về công tác giáo dục pháp luật nói chung, về công tác giáo dục pháp luật của tỉnh Hải Dương cũng như của thành phố Hải Dương nói riêng. 5. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về giáo dục pháp luật và việc áp dụng ở đô thị; Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương giai đoạn 2003-2009; Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương trong giai đoạn mới. 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ VIỆC ÁP DỤNG Ở ĐÔ THỊ 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật 1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật Giáo dục pháp luật là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Khái niệm giáo dục pháp luật thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Với tư cách là một dạng giáo dục thì giáo dục pháp luật ở nước ta hình thành và thực hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức. Với tư cách là một khái niệm pháp lý - giáo dục pháp luật được hình thành trong khoa học pháp lý cũng như được tiến hành trong thực tế ở nước ta rất muộn so với nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy, quan niệm về giáo dục pháp luật ở nước ta vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí là trái chiều nhau là điều bình thường. Song để có một cách nhìn nhận đúng đắn khoa học về giáo dục pháp luật, trước hết cần xem xét một số các quan niệm cơ bản về giáo dục pháp luật sau đây: Quan niệm thứ nhất cho rằng giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này, khi giáo dục chính trị tư tưởng, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ đạt được sự tôn trọng pháp luật của công dân. Hay nói cách khác sự hình thành ý thức pháp luật là hệ quả tất yếu của sự giáo dục chính trị tư tưởng hay giáo dục đạo đức. Vì vậy, chỉ cần tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng hay đạo đức là mọi chủ thể trong xã hội đã có ý thức pháp luật, có sự tự giác, tôn trọng và tuân thủ pháp luật. 8 Quan niệm thứ hai: xem giáo dục pháp luật chỉ đơn thuần là hoạt động phổ biến, tuyên truyền giải thích pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, đài truyền hình và sách báo. Chỉ cần làm tốt công tác thông tin tuyên truyền pháp luật như vậy là có thể làm tốt công tác giáo dục pháp luật. Quan niệm thứ ba cho rằng: giáo dục pháp luật là lấy "trừng trị" để giáo dục người vi phạm và răn đe giáo dục người khác thông qua việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật như áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, xử phạt vi phạm hành chính hay áp dụng các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng giáo dục pháp luật cho mọi người mà không cần phải tuyên truyền hay giải thích pháp luật Quan niệm thứ tư: đồng nghĩa giáo dục pháp luật với dạy và học pháp luật ở các nhà trường, còn việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở ngoài xã hội thì không phải là giáo dục pháp luật. Tất cả những quan niệm trên mặc dù ở những góc độ khác nhau nhưng đều có sự nhìn nhận giáo dục pháp luật ở các khía cạnh và mức độ hợp lý nhất định. Song ở các quan niệm đó đều bộc lộ ít nhiều sự phiến diện hoặc đơn giản đến mức tầm thường hoá vai trò của giáo dục pháp luật; chưa thấy được đặc thù và giá trị vốn có của giáo dục pháp luật. Vì vậy các quan niệm đó đã hạ thấp vai trò, vị trí xã hội của giáo dục pháp luật. Mặt khác, trong thực tiễn các quan niệm trên đây đã không tạo ra khả năng hoặc thậm chí cản trở việc triển khai hoạt động có tổ chức cũng như quy mô việc thực hiện pháp luật; làm cho hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế không cao. Nhận định trên thể hiện trong quan niệm thứ nhất. Việc hình thành nên ý thức pháp luật của con người được xem như là sản phẩm của quá trình giáo dục chính trị tư tưởng hay giáo dục đạo đức. Nếu quan niệm như vậy thì vấn đề giáo dục pháp luật sẽ không được coi trọng đúng mức, vô hình chung đã xem nhẹ vai trò của công tác giáo dục pháp luật, do vậy không được đặt ra như một hoạt động độc lập. Chính quan niệm này trong thực tiễn đã gây ra một 9 hậu quả tai hại kéo dài trong nhiều năm ở nước ta dẫn đến không có nội dung, chương trình giáo dục pháp luật riêng biệt mà chương trình này được lồng ghép với chương trình giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức. Thực tế ở nước ta, sau hơn ba thập kỷ lập nước đến năm 1979, việc đào tạo cử nhân chuyên ngành luật mới được đặt ra và đến năm 1987 - 1988, việc giáo dục pháp luật mới chính thức được đưa vào chương trình giáo dục ở bậc phổ thông qua môn học Giáo dục công dân với ba phân môn: chính trị, đạo đức và pháp luật. Thực tế là trong một thời gian dài nêu trên, pháp luật không đến với người dân nên ý thức pháp luật trong xã hội thấp kém. Quan niệm thứ hai lại đơn giản hoá giáo dục pháp luật, cho rằng giáo dục pháp luật thực chất là những đợt tuyên truyền, cổ động không mang tính thường xuyên liên tục với nội dung, chương trình cụ thể mà theo "thời vụ", lồng ghép, gắn kết với việc tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật mỗi khi có văn bản pháp luật mới được ban hành. Ví dụ: khi sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi Bộ Luật dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự,... hay mỗi khi có đợt bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Quan niệm giáo dục pháp luật như vậy là phiến diện, thiếu đồng bộ và liên tục nên hiệu quả giáo dục không cao. Các quan niệm thứ ba, thứ tư cũng đều bộc lộ những khiếm khuyết nên trong thực tiễn đã không tạo ra khả năng triển khai hoạt động giáo dục pháp luật một cách rộng rãi. Sự nhận thức không đầy đủ về giáo dục pháp luật nên khó có thể khái quát được nội hàm của khái niệm này. Giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng được coi là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể và có ý nghĩa rất quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [12, tr.132]. Để mọi cán bộ, công chức nhà nước cũng như các tầng lớp nhân dân có kiến thức, hiểu biết pháp 10 luật, biết sống và làm việc theo pháp luật thì giáo dục pháp luật phải được đặt ra một cách nghiêm túc, khoa học và phải được giải quyết đúng đắn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để có quan niệm đúng đắn về giáo dục pháp luật, con đường duy nhất cần tiếp cận là những thành tựu của khoa học giáo dục học. Giáo dục là một hiện tượng xã hội và chỉ có trong xã hội loài người thể hiện nền văn minh nhân loại. Giáo dục luôn luôn là một nhu cầu của xã hội, nó có vai trò tác động trở lại xã hội. Vì thế mà các nhà nước của giai cấp cầm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình đều thông qua giáo dục. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo 2 nghĩa đó là nghĩa rộng và nghĩa hẹp Theo nghĩa rộng, giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều kiện khác quan (như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống,...) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ định và định hướng của nhân tố con người nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục). Theo nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ quan lên khách thể giáo dục nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình thành ý thức cá nhân con người. Song các nhà lý luận khoa học cho rằng khái niệm giáo dục pháp luật được tiếp cận từ nhiều góc độ rộng, hẹp khác nhau tùy theo việc nghiên cứu và vận dụng vào quá trình giáo dục pháp luật cụ thể. Thứ nhất, giáo dục pháp luật được coi là một bộ phận - một tiểu hệ thống của hệ thống giáo dục nói chung, là một hoạt động có tính độc lập tương đối và có mối quan hệ tương hỗ với các hệ thống con khác, như kinh tế, 11 chính trị, văn hóa, đạo đức,... Quan niệm này xuất phát từ nghĩa rộng nhất của thuật ngữ giáo dục, đồng nhất nó với quá trình xã hội hóa cá nhân. Nhân cách con người được hình thành và phát triển là do tác động của tổ hợp các nhân tố xã hội, như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, đạo đức,... trong quá trình con người tham gia vào các quan hệ xã hội. Quan niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa rộng có hai ý nghĩa quan trọng: Một là, thấy được quá trình xã hội hóa cá nhân nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng chịu sự tác động, chi phối của rất nhiều yếu tố xã hội. Chủ thể giáo dục có thể chủ động khai thác, phát huy các yếu tố tích cực và hạn chế ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực, có tính tự phát, làm hạn chế hoặc suy giảm hiệu quả của giáo dục pháp luật trong thực tiễn hiện nay. Hai là, không đồng nhất, không coi giáo dục pháp luật đã có trong giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức, dẫn đến hạ thấp vai trò của giáo dục pháp luật. Ví dụ, do quan niệm đạo đức là pháp luật tối đa, còn pháp luật chỉ là đạo đức tối thiểu nên không cần phải giáo dục pháp luật, mọi người dân phải có nghĩa vụ chấp hành pháp luật. Quan niệm như vậy rõ ràng là đã bó hẹp phạm vi của giáo dục pháp luật, coi giáo dục pháp luật chỉ còn là việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật của Nhà nước, là việc mọi công dân phải chấp hành pháp luật. Thứ hai, giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp là quá trình tác động (hoạt động) có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của nhà giáo dục (chủ thể giáo dục pháp luật) để chuyển tải, truyền đạt những nội dung (thông tin, tri thức về các bộ luật, đạo luật...), thông qua các phương pháp giáo dục khoa học và hình thức giáo dục phù hợp tới đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu, hiệu quả giáo dục nhất định. Từ sự phân tích trên, có thể kết luận: giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể giáo dục pháp luật, 12 tác động đến đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật . Trong lĩnh vực giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà nước ta xác định là một công việc trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước và của các cấp, các ngành. Công tác giáo dục pháp luật được xác định cụ thể là nhằm: - Phổ cập kiến thức cơ bản về pháp luật cho các đối tượng áp dụng pháp luật; phổ biến các quy định của pháp luật về các lĩnh vực liên quan đến đời sống của các tầng lớp nhân dân; thực hiện chương trình giáo dục pháp luật có nề nếp trong các nhà trường; - Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương, ngăn ngừa có hiệu quả sự vi phạm pháp luật; nâng cao dân trí pháp lý, văn hoá pháp luật; Trách nhiệm của Nhà nước được xác định là: xây dựng cơ chế phối hợp để công tác giáo dục pháp luật có hiệu quả, phát huy trách nhiệm của các ngành, các cấp, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn xã hội để đưa công tác giáo dục pháp luật vào nề nếp; phát huy tính chủ động, sáng tạo, cộng đồng trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị dân cư, gia đình và của mọi công dân trong công tác giáo dục pháp luật. Lịch sử cho thấy, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, Hồ Chủ tịch đã quan tâm đặc biệt đến giáo dục ý thức tiến bộ cho nhân dân. Người chỉ rõ rằng: Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn nhằm hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười 13 biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH. Như vậy, cái "khó" mà V.I Lê nin nêu ra trong việc giữ chính quyền không chỉ là ở chỗ đánh bại kẻ thù giai cấp đang âm mưu phá hoại mà còn là ở chỗ tạo ra nguồn lực to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật, ý thức mới của hàng chục triệu con người để đưa xã hội tiến lên nhờ kỷ luật và lao động tự giác của họ. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy yếu tố quyết định trong tính tất yếu xây dựng kinh tế và sự giác ngộ của nhân dân về văn hoá, pháp lý trong điều kiện phương Đông, nơi mà theo V.I Lênin, nhiệm vụ đấu tranh chống những tàn tích thời Trung cổ có ý nghĩa rất quan trọng. Do đó, việc nâng cao dân trí, trong đó có dân trí pháp luật là một công việc cấp bách của chính quyền mới. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà. Việc tìm đến pháp luật, hiểu biết pháp luật vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của công dân, chứ không chỉ là trách nhiệm từ phía Nhà nước phải tuyên tuyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân. Dân có hiểu biết pháp luật thì mới tự bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình, mới có thể đóng góp vào công cuộc cách mạng. 1.1.2. Mục đích, yêu cầu chung của giáo dục pháp luật Hoạt động của con người (hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn) bao giờ cũng có tính mục đích. Giáo dục pháp luật cũng là loại hình hoạt động xã hội mang tính mục đích chung, cùng với các hoạt động xã hội khác, làm cho hệ thống pháp luật được duy trì, ổn định, thống nhất trong toàn xã hội 14 nhằm xây dựng, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đảm bảo thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân. Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật có vai trò rất quan trọng, bởi lẽ, nếu không xác định đúng đắn, rõ ràng mục đích của giáo dục pháp luật thì không thể đưa ra các nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật tương ứng, phù hợp, dễ rơi vào tình trạng hình thức, giáo điều, kém hiệu quả. Nếu lấy định hướng của Ủy ban Quốc tế về Giáo dục thế kỉ XXI của UNESCO về mục đích của giáo dục nói chung là học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học cách sống, học để tự khẳng định mình làm cơ sở để xác định mục đích của giáo dục pháp luật thì có thể khái quát mục đích đó như sau: giáo dục pháp luật là để hiểu biết pháp luật, để làm theo các quy định của pháp luật, để vận dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc sống và để khẳng định phẩm chất, năng lực của con người trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mục đích của giáo dục pháp luật là hướng tìm kiếm cơ bản, chủ yếu và xuyên suốt, là cái cuối cùng phải đạt được của hoạt động giáo dục pháp luật. Đó chính là những thông tin, kiến thức, hiểu biết về pháp luật; thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật; và thói quen, lối sống, hành vi xử sự tích cực theo pháp luật của đối tượng được giáo dục pháp luật có thể tiếp thu, hấp thụ và hiện thực hóa sau khi kết thúc quá trình giáo dục pháp luật. Để đạt được mục đích của giáo dục pháp luật cần cụ thể hóa nó thành những mục tiêu. Khi xác định mục tiêu giáo dục pháp luật cho một đối tượng cụ thể, chủ thể giáo dục pháp luật phải căn cứ vào mục đích chung của giáo dục pháp luật để nêu ra các yêu cầu đạt được là gì. Theo chúng tôi, mục tiêu của giáo dục pháp luật nói chung là phải làm cho đối tượng được giáo dục có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật, thường xuyên cập nhật với những thay đổi, đổi mới của các qui phạm pháp luật thực định, có ý thức thường trực chấp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan