Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đời sống của phi tần triều nguyễn (1802–1858) (2018)...

Tài liệu đời sống của phi tần triều nguyễn (1802–1858) (2018)

.PDF
66
251
103

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ĐỖ THỊ PHƢƠNG ĐỜI SỐNG CỦA PHI TẦN TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1858) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam HÀ NỘI – 2018 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ĐỖ THỊ PHƢƠNG ĐỜI SỐNG CỦA PHI TẦN TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1858) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học Th.S Nguyễn Văn Nam HÀ NỘI – 2018 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô khoa Lịch Sử, trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 đã cung cấp kiến thức cho em trong suốt những năm tháng em học tập tại trường. Đặc biệt là thầy Nguyễn Văn Nam đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và nhắc nhở em cố gắng hoàn thành thật tốt bài khóa luận tốt nghiệp này. Cảm ơn thầy Trần Anh Đức đã giúp đỡ em sửa bản khóa luận sơ khảo khi còn rất nhiều thiếu sót, để em hoàn thành đề tài khóa luận của mình. Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè của em đã tạo mọi điều kiện hỗ trợ, luôn khích lệ, thúc giục, động viên để em chuyên tâm cố gắng hoàn thành bài khóa luận của mình. Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2018 Sinh viên Đỗ Thị Phƣơng LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan những nội dung mà em trình bày trong khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân em dưới sự hướng dẫn của thầy giáo Thạc sĩ Nguyễn Văn Nam. Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Em xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong khóa luận này. Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2018 Sinh viên Đỗ Thị Phƣơng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu................................................ 4 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu................................................. 5 6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu ...................................................... 6 7. Bố cục nghiên cứu....................................................................................... 7 NỘI DUNG..................................................... Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 1: NGUỒN GỐC XUẤT THÂN, CÁCH THỨC TUYỂN PHI VÀ ĐỊA VỊ CỦA PHI TẦN TRIỀU NGUYỄN (1802-1858)....................... 8 1.1. Nguồn gốc xuất thân .................................................................................. 8 1.1.1. Thân thế quyền quý ................................................................................. 8 1.1.2. Thân thế bình dân.................................................................................. 13 1.2. Cách thức tuyển phi ................................................................................. 14 1.2.1. Do các quan tiến dâng .......................................................................... 14 1.2.2. Do vua tự chọn lựa ................................................................................ 16 1.3. Địa vị phi tần ............................................................................................ 18 1.3.1. Bậc cao nhất.......................................................................................... 18 1.3.2. Bậc thứ 2 trở xuống............................................................................... 20 CHƢƠNG 2. SINH HOẠT CỦA PHI TẦN TRIỀU NGUYỄN (18021858)................................................................................................................ 24 2.1. Sinh hoạt thường nhật .............................................................................. 24 2.1.1. Nơi ở ...................................................................................................... 24 2.1.2. Trang phục ............................................................................................ 26 2.1.3. Chuyện phòng the .................................................................................. 28 2.2. Sinh hoạt trong các dịp lễ tết .................................................................... 30 2.2.1. Tết Nguyên Đán và Tết Đoan Ngọ ........................................................ 30 2.2.2. Lễ Sách Phong Hoàng Quý Phi và Phi Tần .......................................... 32 2.3. Mâu thuẫn phi tần..................................................................................... 34 2.3.1. Mâu thuẫn do địa vị, quyền lợi ............................................................. 34 2.3.2. Mâu thuẫn do không được vua sủng ái ................................................. 35 2.4. Ban thưởng và trừng phạt phi tần............................................................. 38 2.4.1. Ban thưởng phi tần ................................................................................ 38 2.4.2. Trừng phạt phi tần ................................................................................ 40 2.5. Nhận xét đời sống phi tần trong Tử Cấm Thành triều Nguyễn (18021858)...............................................................................................................42 KẾT LUẬN .................................................................................................... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 49 PHỤ LỤC MỘT SỐ PHI TẦN TIÊU BIỂU DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1858) 1. Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu 2. Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Mỗi triều đại phong kiến dù phương Đông hay phương Tây đều tổn tại cùng những biến cố, thăng trầm của lịch sử. Bên cạnh những vấn đề chính trị, những chính sách đối ngoại đối nội là các vấn đề nội tại mà ẩn chứa trong đó còn đầy rẫy những câu chuyện phức tạp hơn: chuyện hậu cung. Là một đất nước với hàng nghìn năm chế độ phong kiến thống trị, trải qua biết bao nhiêu triều đại từ sau khi Ngô Quyền đập tan quân Nam Hán, đến năm 1945 vua Bảo Đại thoái vị trao ấn kiếm, kết thúc sự tồn tại của chế độ phong kiến ở Việt Nam, những câu chuyện hậu cung đằng sau những công việc chính sự của triều đình luôn là những vấn đề phức tạp và làm “đau đầu” các vị vua nước ta. Triều Nguyễn là triệu đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, vấn đề hậu cung có thể nói đến đây là hồi kết cô đọng và nhiều điều thú vị, mới mẻ. Nhà Nguyễn từ khi mới thành lập năm 1802 tồn tại được 143 năm, trải qua 13 đời vua là: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại. Mỗi ông vua lại có rất nhiều cung phi, mĩ nữ hầu hạ. Người có được địa vị cao hơn, người được sủng ái nhiều hơn,… và bởi thế cho nên câu chuyện hậu cung cùng những mâu thuẫn “đàn bà” luôn thực sự rắc rối và khó giải quyết. Đời sống của các phi tần, hoàng hậu trong cung ngoài những mâu thuẫn là điểm nổi bật thì còn rất nhiều điểm thú vị, ví như cách ăn mặc, sinh hoạt, chuyện phòng the,… song các nghiên cứu trước thường chưa thực sự đi sâu vào những sinh hoạt cụ thể từ cách ăn mặc đến công việc của họ, chỉ dùng đôi dòng để nhắc đến chân dung, sinh hoạt và vai trò của cung tần. Vì vậy, thông qua nguồn tài liệu sưu tầm được, tác giả mong muốn đóng góp một cách nhìn nhận chân thực, khách quan về đời sống sinh hoạt cùng những câu chuyện chốn hậu cung của các phi tần triều Nguyễn (từ năm 1802 đến năm 1858). 1 Với tất cả những lí do trên, người viết đã lựa chọn vấn đề “Đời sống của phi tần triều Nguyễn (1802–1858) làm đề tài khóa luận của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đời sống của các phi tần trong Tử Cấm Thành là một đề tài khá quen thuộc và được nhắc đến rất nhiều như những câu chuyện vô cùng hấp dẫn và lôi cuốn, thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử. Trước hết, Đại Nam Thực Lục là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn, ghi chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định (1925) do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn từ năm 1821. Tác phẩm gồm 2 phần tiền biên và chính biên. Phần chính biên ghi chép các sự kiện lịch sử từ khi Nguyễn Ánh làm chúa (1778) đến đời Đồng Khánh (1887), và sau này được viết thêm đến đời vua Khải Định (1925). Tác phẩm Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ do Viện sử học biên soạn vào giữa thế kỉ XIX, là cuốn sách thuộc thể loại hội điển, ghi chép về những điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tổ chức và hoạt động của Việt Nam dưới triều Nguyễn. Quốc sử quán triều Nguyễn trong tác phẩm Đại Nam Liệt Truyện ghi chép rất cụ thể về các bà hoàng hậu, phi tần, các hoàng tử, công chúa và các quan lại, tướng sĩ có công với triều đình. Bộ sách này gồm có 4 tập, mỗi tập đều ghi chép về các đời hoàng hậu, hoàng tử, công chúa và các quan lại, các tập 1,2,3 đều giành ra những quyển đầu để ghi chép về các bà hoàng hậu triều Nguyễn từ thời tiên tổ Tác phẩm Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu (1908) do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn ghi chép theo kiểu biên niên về cuộc đời mỗi vị vua Nguyễn từ đời Thế Tổ Gia Long. Sách là một kho kiến thức cung cấp khá đầy đủ về chặng đường các vua trị vì, với những sự kiện lịch sử xác thực gắn với các mốc thời gian cụ thể 2 Bộ gia phả: Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả của Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc do nhà xuất bản Thuận Hóa – Huế xuất bản năm 1995 là quyển gia phả ghi chép về dòng họ Nguyễn Phúc từ đầu thế kỉ X đến giữa thế kỉ XX với một niềm biết ơn và tự hào về những công lao oanh liệt của tổ tiên từ lúc thịnh cho đến luc suy, bao gồm đầy đủ các lĩnh vực từ thân thế, sự nghiệp cho đến các vấn đề ngoại giao, chính trị hay vợ con, anh em. Về các phi tần, gia phả cũng ghi rất rõ ràng các bà phi, bà tần của các đời vua; những bà nào tìm hiểu được nhiều thì ghi đủ cả tên tuổi, gốc gác, cho đến chức vụ, sinh nở,…; có những bà vì hình ảnh và ảnh hưởng trong cung quá mờ nhạt, nên nhiều bà không được ghi chép nhiều trong gia phả bởi không thể thu thập được thông tin gì. Ngoài ra, đời sống phi tần triều Nguyễn cũng được đề cập khá nhiều trong các cuốn Kể chuyện các vương phi, công chúa, nữ cung triều Nguyễn do tôn Thất Bình biên soạn, xuất bản tại NXB Đà Nẵng (1996); các tác phẩm Chuyện các bà trong cung Nguyễn (NXB Thuận Hóa – Huế năm 1996), Chuyện nội cung các vua (NXB Thuận Hóa – Huế năm 1999), Chuyện nội cung chín đời chúa (NXB Thuận Hóa – Huế năm 1999) do Nguyễn Đắc Xuân biên soạn; Truyện kể về các vương phi hoàng hậu nhà Nguyễn do Thi Long biên soạn (xuất bản tại Đà Nẵng năm 2010); Phạm Minh Thảo biên soạn cuốn Chuyện các bà hoàng trong lịch sử Việt Nam (NXB Thanh Niên); cuốn sách Những phương thuốc bí truyền làm đẹp cung phi do Lương Tú Vân và Lương Tú Mẫn biên soạn, Lưỡng Kim Thành với tác phẩm Chuyện các bà hoàng bà chúa triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa), Trần Thùy Mai với tác phẩm Chuyện tình trong cung Nguyễn (NXB Thuận Hóa),… trong các tác phẩm này đời sống của các phi tần được miêu tả khá chi tiết, cụ thể, song đó chỉ là những tác phẩm mang yếu tố lịch sử có phần dựng chuyện cho hấp dẫn, không phải là các tác phẩm lịch sử chính cống. 3 Như vậy, đời sống phi tần triều Nguyễn là một mảng đề tài hấp dẫn, thú vị, được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu tuy nhiên các tác phẩm hầu như không đi tìm hiểu chuyên sâu về vấn đề này, thường gộp với việc tìm hiểu các vấn đề khác khiến đề tài chưa được đem ra nghiên cứu kĩ. Các thông sử, chính sử cũng không ghi chép riêng về các bà phi tần mà chỉ nói đôi dòng về tiểu sử hoặc đề cập sơ sài cùng với các chủ đề, nhân vật khác. Do đó, trên cơ sở kế thừa của những nhà nghiên cứu đi trước, tác giả đi sâu tìm hiểu, phân tính, đánh giá về đời sống phi tần của triều Nguyễn giai đoạn từ năm 1802 đến năm 1858. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu về hậu cung nhà Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1858, đề tài cung cấp kiến thức về đời sống phi tần triều Nguyễn trong chặng đường từ thời vua Gia Long lên ngôi cho đến năm 1858 ở các phương diện từ thân thế, địa vị cho đến nếp sống sinh hoạt của các phi tần trong nội cung triều Nguyễn, qua đó nhằm mục đích giúp người đọc thấy được những đặc điểm nổi bật của phi tần triều Nguyễn trong giai đoạn này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục tiêu trên, đề tài tập trung vào một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Tìm hiểu về thân thế, tiểu sử của các phi tần để làm rõ địa vị các bà khi làm vợ vua - Tìm hiểu về nếp sống thường nhật cũng như sinh hoạt trong các dịp lễ tết của các phi tần để thấy được đời sống của các bà vợ vua trong trốn nội cung đầy rắc rối. Thông qua đó nhận xét, đánh giá, rút ra những đặc điểm về đời sống của các phi tần triều Nguyễn (18021858) 3.3. Phạm vi nghiên cứu 4 - Về mặt không gian, tác giả nghiên cứu chung về đời sống các phi tần dưới triều đại nhà Nguyễn, do vậy không gian không bó hẹp ở địa phương nào. Tuy nhiên hầu như các bà vợ vua đều có quê ở miền Nam - Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ 1802 khi vua Gia Long lên ngôi cho đến năm 1858 Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1 Nguồn tƣ liệu Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các bộ thông sử, chính sử và các công trình nghiên cứu chuyên khảo có liên quan. Các bộ thông sử gồm có: Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ của Nội Các triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục của Quốc sử Quán triều Nguyễn, Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu cuả Quốc sử Quán triều Nguyễn, Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả của Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc,… Những bộ sử này được sử dụng làm cơ sở cho việc nghiên cứu đối chiếu với các loại tài liệu khác, xác minh độ chính xác của tài liệu. Tác giả sử dụng làm nguồn tư liệu chính để hoàn thành bài khóa luận của mình. Để bổ sung nguồn tư liệu nghiên cứu, tác giả còn sử dụng thêm một số tác phẩm khác như: Kể chuyện các vương phi, công chúa, nữ cung triều Nguyễn do tôn Thất Bình biên soạn; các tác phẩm: Chuyện các bà trong cung Nguyễn, Chuyện nội cung các vua, Chuyện nội cung chín đời chúa do Nguyễn Đắc Xuân biên soạn; Truyện kể về các vương phi hoàng hậu nhà Nguyễn do Thi Long biên soạn, Phạm Minh Thảo với tác phẩm Chuyện các bà hoàng trong lịch sử Việt Nam, tác phẩm Chuyện các bà hoàng bà chúa triều Nguyễn của Lưỡng Kim Thành,… cùng một số tác phẩm khác. 5 Mỗi nguồn tài liệu đều cung cấp những khía cạnh khác nhau của đề tài nghiên cứu, tuy nhiên các tài liệu này lại chưa nghiên cứu về đời sống phi tần một cách toàn diện, chi tiết về đời sống phi tần triều Nguyễn. 4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp luận và phương pháp logic để tìm hiểu về đời sống phi tần triều Nguyễn từ 1802 đến 1858. Phương pháp lịch sử giúp khôi phục lại một cách tương đối hệ thống, toàn diện về đời sống phi tần triều Nguyễn từ 1802 đến 1858. Trên cơ sở những dữ liệu đã khôi phục, phương pháp logic giúp khái quát, nhận xét, đánh giá về đời sống phi tần Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như phân tích, so sánh, thống kê, khái quát để làm sáng tỏ vấn đề đồng thời cũng để nhận xét và kết luận vấn đề. 5. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về đời sống phi tần trong Tử Cấm Thành nhà Nguyễn vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn - Về mặt lí luận, đề tài nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trong chốn hậu cung, trình bày được thân thế, địa vị, sinh hoạt từ đó rút ra đặc điểm đời sống phi tần nhà Nguyễn giai đoạn 1802 đến 1858 - Về mặt thực tiễn, trên cơ sở tìm hiểu về thân thế, địa vị, sinh hoạt, ban thưởng – trừng phạt phi tần và đưa ra những nhận xét về đời sống phi tần với những nguồn tư liệu và cách đánh giá khách quan. Vì vậy đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo thêm để nghiên cứu giảng dạy về lịch sử Việt Nam cận đại nói chung và lịch sử triều Nguyễn nói riêng. 6 6. Bố cục nghiên cứu Ngoài mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được kết cấu làm 3 chương: - Chƣơng 1: Nguồn gốc xuất thân, cách thức tuyển phi và địa vị của phi tần triều Nguyễn (1802-1858) - Chƣơng 2: Sinh hoạt của phi tần triều Nguyễn (1802-1858) 7 CHƢƠNG 1: NGUỒN GỐC XUẤT THÂN, CÁCH THỨC TUYỂN PHI VÀ ĐỊA VỊ CỦA PHI TẦN TRIỀU NGUYỄN (1802-1858) 1.1. Nguồn gốc xuất thân 1.1.1. Thân thế quyền quý Phi tần mang danh phận thứ thiếp đứng dưới người vợ chính là Hoàng hậu hay Vương phi, họ có trách nhiệm trông nom, cất đặt và thừa hành các công việc nội cung. Phi tần trong xã hội phong kiến là một tập đoàn người đặc biệt, là một tập thể những người đàn bà là vợ của một người đàn ông quyền lực nhất thiên hạ, được sự sủng ái của đế vương, giữ sự cân bằng quyền lực giữa các thế lực trong triều và mối hòa hiếu giữa các nước láng giềng, có ảnh hưởng lớn đến cục diện chính trị của đất nước. Phi tần mang nhiều danh phận với địa vị cao thấp khác nhau ở từng quốc gia và triều đại. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của giáo điều Nho giáo với những tư tưởng như “tam thê tứ thiếp”, “tam nữ viết gian” (ba chữ “nữ” kết thành một chữ “gian” để bêu rếu người phụ nữ), tư tưởng “trọng nam” khiến xã hội có thứ bậc và tôn ti trật tự rất rõ ràng, nghiễm nhiên người phụ nữ phải phụ thuộc vào người đàn ông. Điều đó lí giải tại sao mỗi vị vua của mỗi triều đại phong kiến Việt Nam ngoài nắm trong tay binh quyền pháp trị thì đều có xung quanh mình rất nhiều vợ. Các bà ấy là Hoàng hậu và các phi tần. So với các vị vua Trung Quốc với số lượng phi tần thê thiếp cung nữ có tới cả nghìn người, các vị vua triều Nguyễn thì ít hơn, nhưng nhìn chung từ thời vua Gia Long đến vua Tự Đức số phi tần cũng rất nhiều. Ngoài các bà chính thất thì tam cung lục viện của vua còn có cả hàng trăm phi tần khác là khuê nữ của quan lại triều đình tiến dâng, do các quan tự nguyện dâng con gái – những xuất thân hết sức quyền quý, và vì vậy, không muốn tổn thương hòa khí, ổn đinh chính trị nội quốc nên các vua vẫn chấp nhận việc nạp phi. 8 Vua Gia Long là một điển hình sâu sắc, là vị vua có nhiều vợ đứng thứ 3 trong lịch sử nhà Nguyễn. Vua chính thức có 21 bà vợ trong đó có 3 người được sử sách nhắc đến nhiều nhất là: Một là Đệ nhất phi (Quế phi) tên là Tống Thị Lan (sau được truy tôn là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu), hai là Đệ nhị phi (Minh phi) tên gọi Trần Thị Đang (sau được truy tôn là Thuận Thiên Cao Hoàng hậu), ba là Đệ tam phi (Đức phi hay Thần phi) tên là Lê Thị Ngọc Bình. Hầu hết đều là khuê nữ của các quan lại tiến cung, kết quả là hậu cung vua Gia Long ngày càng “chật chội” và gây rắc rối về sau cho vua: Theo ghi chép, vua chỉ cần lơ đễnh một bà vợ, ngay lập tức lập tức bà ta sẽ “kể tội” với phụ thân, và ông “nhạc phụ” này, nếu không nguyền rủa sự già yếu của vua thì nhất định sẽ “tìm cách gieo rắc một cách khéo léo” với triều thần và gây nên những lời bàn tán khiến vua trở thành trò cười trong mắt bàn dân thiên hạ. Điều này được nhắc đến trong tâm sự của vua Gia Long về chốn hậu cung với J.B. Chaigneau (một triều thần gốc người Pháp) “ Thì ra ông không biết, vua nói tiếp, rằng các phi, tần hầu hết đều là con gái các quan sao?” [13; tr.3940] Thân thế quyền quý của vợ vua Gia Long phải kể đến Đệ nhất phi Tống Thị Lan là nữ tử của Qui Quốc Công Tống Phúc Khuông giữ chức Thái Bảo tước Quận Công, vị quan có nhiều công lớn trong việc phò vua và xây dựng cờ đồ họ Nguyễn. Đại Nam Liệt Truyện ghi lại về gốc quan lại nhà ông Tống Phúc Khuông: “Tiên tổ là người ở quý huyện tỉnh Thanh Hóa, lúc trước theo Thái Tổ vào trấn miền Nam, nhận tịch ở phủ Thừa Thiên. Cha là Thành, làm quan triều Thế Tông, làm đến Nội thủy Chưởng cơ kiêm Cung bộ, Chưởng sử sự, tặng Chưởng doanh, Quận công, tên thụy là Đôn Trực. […]. Năm Canh Tý (1780) Thế Tổ lên ngôi Vương, bàn công những người giúp đỡ, cho ông làm Ngoại tả Chưởng doanh kiêm Chưởng sử sự […]. Năm Gia Long thứ 3, tặng là Suy trung trực vận công thần, đặc tiến khai phủ, Phụ quốc thượng 9 tướng quân, Thượng trụ quốc thái bảo, Quốc công, tên thụy là Trung Ý, đưa về táng ở Long Hồ […] Họ Tống, khi ban đầu dựng nước là họ có danh vọng, đời đời làm quan sang, tới đến đời ông là Trung hưng dực đới công thần, thanh danh Phước lộc ở nhà, cùng với nước cùng vui, không những là có tiếng thích lý, cũng rực rỡ về mặt công nghiệp nữa. Con là Phước lương từng làm đến quan Chưởng Phủ, phong là hầu, có truyện chép riêng” [16; tr.96-97] Đệ nhị phi Trần Thị Đang cũng xuất thân danh giá ngang tầm, bà là con gái thứ của Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt (1746 - 1810) và Thọ Quốc phu nhân Lê thị. Gia tộc bà vốn gốc Thanh Hóa, tiên tổ là Trần Phúc Tư buổi đầu năm 1558 theo chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp, định cư ở huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên. Đại Nam liệt truyện cũng cho hay “ Thế tổ yên ủi hỏi han kĩ lắm, bổ cho ông vào viện Hàn Lâm, rồi chuyển làm Lễ bộ tham tri. Năm Canh Thân, sung làm chức bảo phó cho Hoàng tử. Năm Gia Long thứ 1 (1802) triệu về Kinh. Khi thiên hạ đã định, việc bàn lễ xét văn, chế tác buổi đầu, ông cùng với Lễ bộ là Đặng Đức Siêu biên chép từng điều tâu lên để thi hành, rồi bổ làm Lễ bộ hữu tham tri” [16; tr.98] Đệ tam phi Lê Thị Ngọc Bình không ai khác chính là con gái vua Lê Hiển Tông, câu ca dao “con vua mà lấy hai chồng làm vua” chính là nói đến công chúa Ngọc Bình. Trước khi lấy vua Gia Long, bà đã là Hoàng hậu nhà Tây Sơn với tư cách là chính thất của Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản. Vua Minh Mạng là vị vua có nhiều phi tần và đông con nhất trong số 13 vua triều Nguyễn. Ông có tới hàng trăm bà phi. Vợ ông phần lớn là con gái miền Nam, rất nhiều bà là con nhà quyền quý, khuê nữ của các quan lại, danh tướng. Bà Hồ Thị Hoa là Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, người vợ đầu tiên của vua Minh Mạng, bà cũng xuất thân là con của Phúc Quốc Công Hồ Văn Bôi. Ông Hồ Văn Bôi người ở Bình An trấn Biên Hòa. Năm Gia Long thứ 1 thăng 10 làm Vệ úy Tả nhất Thị trung, mùa đông năm ấy thăng làm Khâm sai Thuộc nội chưởng cơ. Năm thứ 7 (Minh Mạng), tặng là Nghiêm uy Tướng quân Thượng hộ quân Thống chế [16; tr.100]. Cũng theo Đại Nam liệt truyện thì vào năm 1806, vua Gia Long và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu muốn tuyển con gái trong hàng các công thần để đưa vào cung hầu Hoàng tử Đảm, bà Hồ Thị Hoa là người được chọn. Vương phi được sủng ái nhất là Hiền phi Ngô Thị Chính. Bà Ngô Thị Chánh là trưởng nữ của Chưởng cơ Ngô Văn Sở, nguyên là tướng của nhà Tây Sơn, sau về theo Nguyễn Ánh, lập được nhiều chiến công nên rất được Nguyễn Ánh tin dùng Gia phi Phạm Thị Tuyết người làng Tuy Viễn, tỉnh Bình Định, cũng là con của ông Phạm Văn Chẩn (được truy phong Quang Lộc Tự Thiếu Khanh). Thục tần Nguyễn Thị Bửu, người Bình Chương, Gia định; cũng xuất thân là con quan tư không Nguyễn Khắc Thiệu. Bà Hòa tấn Nguyễn Thị Khuê còn húy là Bích Chi, người Phú Lộc, Gia Định, là con gái của Chưởng Cơ Nguyễn Văn Thanh trấn thủ tỉnh Quảng ên,... Ngoài các bà trên, vua Minh Mạng còn rất nhiều vợ với xuất thân vô cùng danh giá khác. Vua Thiệu Trị là vị vua thứ ba của triều Nguyễn, con của vua Minh Mạng. Ông có nhiều vợ, các bà hầu hết cũng xuất phát từ những “lầu son”, “gác tía” hết sức danh gia vọng tộc. Hoàng hậu của vua Thiệu Trị là Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu Phạm Thị Hằng, người làng Tân Hòa – Gia Định, con ngài Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng. Ông Phạm Đăng Hưng tên tự là Hiệt Củ, là một quan thần trung thành với vua Thiệu Trị, buổi đầu trung hưng, ông được (vua Gia Long) bổ làm phủ lễ sinh, sung vài viện Cống sĩ, lại thiên làm Tham luận vệ Phấn vũ . Năm Kỷ Mùi thăng lại bộ tham tri. Năm thứ 5 (Thiệu Trị) ông được giữ chức Lại bộ Lễ thượng thư. Khi ông ốm sắp mất, “Thánh Tổ đau thương lắm, cho 11 nhiều gấm lụa và tiền, sai quan sửa việc tang; tặng là Vinh lộc đại phu, Trụ Quốc, hiệp biện đại học sĩ, thụy là trung nhã” [16; tr.101,103-104] Lệnh phi Nguyễn Thị Nhiệm, người An Giang, con của Kinh môn Quận công Nguyễn Văn Nhân. Ông Nguyễn Văn Nhân người quê Vĩnh ên, An Giang. Năm Đinh Tỵ, ông lĩnh chức Tào vận theo Tôn Thất Hội giữ Gia Định. Năm Kỷ Mùi ông giữ chức Chưởng cơ. Gia Long năm thứ nhất, được thăng Chưởng chấn vũ quân, tước Quận công. Từ khi Gia Long lên ngôi, ông nhiều lần dâng sớ với các điều rất có lợi cho dân, vua Gia Long khen rất nhiều. Năm 1808 ông được phong chức Tổng trấn Gia Định. [16; tr.136-137] Hay như Lương phi Vũ Thị Viên, người huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên), con gái của Phó vệ úy Vũ Hữu Linh; bà Đoan tần Trương Thị Hận người Tống Sơn, con gái của Vệ úy Minh Đức Hầu Trương Văn Minh; Đức tần Nguyễn Thị Huyền, là người gốc tỉnh Thừa Thiên, con của Khoái Châu quận công Nguyễn Đức Xuyên,… Dưới thời vua Tự Đức không có hoàng hậu mà chỉ có chức cao nhất là Hoàng Quý Phi . Lệ Thiên Anh hoàng hậu Vũ Thị Duyên, là con của Thái Tử Thái Bảo, Đông Các Đại Học Sĩ, kiêm quản Quốc Tử Giám sự vụ Vũ Xuân Cẩn. Ngoài ra ông còn một số bà vợ khác, điển hình như Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm, thứ nữ của Hải An Kinh lược Đại thần kiêm Định An Tổng đốc Nguyễn Đình Tân; Học phi Nguyễn Thị Hương người gốc tỉnh Vĩnh Long, cha là Nghiêm Oai tướng quân Nguyễn Văn Tuấn, xuất thân danh giá; Lễ tần Nguyễn Nhược Thị Bích, nguyên là Lục giai Tiệp dư, khi mất được Thái hoàng thái hậu Từ Dụ truy tặng hiệu Lễ tần, bà là con gái của Nguyễn Nhược Sơn, quan Bố chính tỉnh Thanh Hóa nổi tiếng về tài văn chương và học thức trong triều đại nhà Nguyễn. Những điều kể trên là minh chứng cho thấy các bà hoàng phi của các đời vua Nguyễn từ thời Gia Long cho đến Tự Đức hầu hết đều xuất thân với thân thế quyền quý, danh giá, là nữ tử của các quan thần, danh tướng thân cận 12 với vua. Dù muốn hay không vua cũng sẽ nạp thêm họ làm phi bỡi lẽ nó sẽ làm hạn chế những vấn đề trong nội bộ triều chính, mặt khác lại thấy được lòng trung thành của các quan thần được cung tiến con lên vua. 1.1.2. Thân thế bình dân Các phi tần từ thời Gia Long đến Tự Đức không hẳn tất cả ai cũng vào cung với xuất thân quyền quý, có những bà vợ vua tiến cung với thân thế hết sức bình thường, dân dã; theo tác giả đó có lẽ một phần là bởi sự để ý của nhà vua với người con gái có nhan sắc, phẩm hạnh này. Sách Truyện kể về các vương phi hoàng hậu của Thi Long viết “Ngoài các bà Phi, Tần và các bà vợ chính thức hoặc vợ hai, vợ ba…của Vua, hầu hết họ là con các quan đại thần trong triều tiến cung để hầu hạ Vua, còn lại thì phần lớn chiếm 90% các người đàn bà khác trong cung là những người con gái dân dã bị các quan lại địa phương theo lệnh của triều đình tuyển vào để phục dịch mọi công việc trong cung cấm. Họa hoằn lắm mới có một vài người được Vua chiếu cố nhờ nhan sắc của mình.” [7; tr.123-124]. Như vậy có thể thấy được, “một vài người được Vua chiếu cố” trở thành vợ vua với xuất thân vốn dĩ rất bình dị thôn quê, cũng vì bị ép đi phục dịch nội cung mà vô tình lại trở thành vợ vua. Và đó là những trường hợp rất “họa hoằn” như sử sách nói. Dưới thời Gia Long đến Tự Đức có lẽ cũng có một hai trường hợp đặc biệt này. Song tìm hiểu trong một số tài liệu, quan trọng nhất là Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cũng không ghi chép được nhiều về lai lịch xuất thân của tất cả các bà, ngoại trừ một số phi tần có địa vị cao vì cha của mình có chức tước cao trong triều, còn lại đại đa số là không biết được lai lịch xuất thân của các phi tần khác. Vì vậy việc tìm hiểu về lai lịch xuất thân có bình dân hay không của các bà cũng khá khó khăn. Tác giả đưa ra một số trường hợp dưới các đời vua triều Nguyễn không trong phạm vi nghiên cứu để làm dẫn chứng. Thời vua Khải Định có bà Từ 13 Cung xuất thân trong gia đình bình dân. Bà tên húy là Hoàng Thị Cúc, cha là ông Hoàng Trọng Tích, từng đỗ tú tài và làm tri huyện Hòa Đa (Bình Định), song ông Tích mất từ khi bà Cúc còn rất nhỏ; anh trai của bà là ông Hoàng Trọng Khanh lại ham mê cờ bạc, sinh ra nợ nần, bà bị anh trai bán cho những nơi quyền quý, cuối cùng vào cung làm hầu gái cho trưởng nữ của vua Đồng Khánh. Tại đây bà đã tiếp xúc với ông Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo, sau này chính là vua Khải Định. Lúc đó, ông đã có vợ chính là bà Trương Như Thị Tịnh, song hai người không có con. Năm 1913 bà Cúc có mang với ông Phụng Hóa Công. Cuối năm 1913 bà hạ sinh Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy tức vua Bảo Đại sau này. Năm 1916 ông Phụng Hóa Công lên ngôi vua, bà được phong làm Huệ Phi. Sau này vua Bảo Đại kế vị, bà trở thành Hoàng Thái Hậu cuối cùng của Việt Nam. Như vậy ở trường hợp bà Từ Cung, một xuất thân rất bình dân và thậm trí còn có phần éo le, song bà Từ Cung từ một cung nữ bỗng trở thành Hoàng hậu. [29] Sách Chuyện các bà trong cung Nguyễn cho hay, có lần vua Thành Thái cải trang thành một thư sinh rất mực nho nhã lên Kim Long chơi, dạo xuống bến đò. Bỗng thấy cô lái đò xinh đẹp “khoảng chừng hai mươi, đang khép nép trong chiếc áo vá vai, với đôi má ửng hồng rất có duyên” và thế là sau một cuộc trò chuyện trêu đùa qua lại, cô gái lái đò dung dị dân dã đã là vợ vua. Ngài cầm chèo đưa đò xuôi về kinh thành, đậu ở bến Phu Văn Lâu [13; tr.76-77] Sự việc vợ vua xuất thân từ thân tế bình dân không nhiều, đa phần chỉ trong những trường hợp hết sức ngẫu nhiên như của vua Thành Thái, còn đại đa số vợ vua là các nữ tử khuê các của các quan lại trong triều, hoặc không cũng là những con nhà Nho có học, đức tính thục, thận, hiền, trinh; nết na xinh đẹp. 1.2. Cách thức tuyển phi 1.2.1. Do các quan tiến dâng 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan