Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụn...

Tài liệu định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai

.PDF
84
238
104

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỮU BIÊN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỮU BIÊN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang Hà nội - 2015 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn H÷u Biªn 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chương 1: 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ 7 QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 1.1. Những khái niệm có liên quan 7 1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam 7 1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự 13 1.1.3. Khái niệm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 15 1.1.4. Khái niệm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi 16 phạm các quy định về sử dụng đất đai 1.2. Sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam đối với 19 tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1985 19 1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến nay 21 1.3. Quy định của luật hình sự về định tội danh và quyết định hình 23 phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 1.3.1. Quy định của luật hình sự về định tội danh đối với tội vi phạm 23 các quy định về sử dụng đất đai 1.3.2. Quy định của luật hình sự về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 4 35 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH 38 PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.1.1. Vài nét về địa chính trị, kinh tế thành phố Hà Nội 2.1.2. Một số kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 38 2.1.3. Những tồn tại, vướng mắc trong định tội danh và quyết định 49 2.1. 38 41 hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.1.4. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại, vướng mắc trong 56 định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2. Những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả tội danh và quyết định 60 hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 2.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội vi phạm các quy định 60 về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về định tội danh và 65 quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2.3. Kiến nghị đề xuất nâng cao trình độ, năng lực của những 67 người tiến hành tố tụng trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2.4. Những kiến nghị, đề xuất khác 70 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 5 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Thống kê số vụ án, bị can bị khởi tố về tội vi phạm các 41 bảng 2.1 quy định về sử dụng đất đai giai đoạn 2009 - 2014 2.2 Kết quả xét xử bị cáo vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội 6 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: "Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [11], và xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hiện nay, khi nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đất đai là một trong những hướng quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư, các hoạt động liên quan đến đất đai vô cùng sôi động, nhất là ở các thành phố lớn, khu vực ven đô… trong đó Thủ đô Hà Nội là một trong những địa phương có hoạt động đất đai và thị trường bất động sản sôi động nhất. Cùng với sự phát triển của những quan hệ xã hội liên quan đến đất đai, pháp luật về đất đai ngày càng cần phải hoàn thiện để đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến quản lý đất đai của các cơ quan chức năng và những người có thẩm quyền và các chế tài đối với những người có thẩm quyền vi phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Bộ luật hình sự năm 1999 ngay từ khi mới ra đời đã có quy định về xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai tại Điều 173. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự cho thấy trong phạm vi cả nước số vụ án được xét xử đối với các tội danh này rất ít, có nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử đối với loại tội này. Mặt 7 khác, có thể thấy rằng, định tội danh và quyết định hình phạt có vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử, góp phần đưa Bộ luật hình sự vào đời sống xã hội và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, đề hoàn thiện chính sách hình sự đối với các tội phạm về đất đai, nhằm cụ thể đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đất đai thì cần thiết phải nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đối với các tội phạm về đất đai cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này. Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: "Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tội phạm xâm phạm trật tự nói chung, tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai nói riêng luôn mang tính thời sự, cấp thiết xuất phát từ hoạt động quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, những công trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm xâm phạm trật tự nhiều, có thể ở góc độ luật hình sự hoặc góc độ tội phạm học. Cụ thể, các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình phạt do TS. Dương Tuyết Miên chủ biên, NXB Lao động xã hội, 2009; Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự của PGS.TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007; "Giáo trình tội phạm học" do GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999; Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam do TS. Lê Văn Đệ chủ biên, Nxb Công an 8 nhân dân, 2004; Sách chuyên khảo Cấu thành tội phạm: lý luận và thực tiễn của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp, 2004; Trách nhiệm hình sự và hình phạt của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân, 2004; Sách chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm hình sự - TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia, 2013; Sách chuyên khảo Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2007 v.v... Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo, các số chuyên đề. Đây là nguồn tài liệu phong phú nhất. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật có uy tín như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật… Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu tội phạm cụ thể hoặc nghiên cứu về định tội danh, quyết hình phạt đối với tội phạm nói chung trong đó có tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai; các bài viết đăng tải trên các website, các trang thông tin điện tử thể hiện quan điểm đa chiều của các tác giả về thực trạng của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai qua các vụ án cụ thể, điển hình, gây dư luận xã hội. Nhìn chung, có thể thấy rằng các công trình khoa học nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm nói chung là khá nhiều. Tuy nhiên, quá trình thu thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong Bộ luật hình sự Việt Nam. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai dưới 9 khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử tại địa phương, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản sau: - Lý luận cơ bản về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. - Thực tiễn về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội. Còn có gì vướng mắc khi áp dụng luật trong quá trình tố tụng không? - Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai như thế nào? - Giải pháp nào để tăng cường hiệu quả công tác về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. 4. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng hoàn thiện pháp luật thực định 10 và nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn được triển khai nghiên cứu trên đối tượng là hành vi phạm tội và người phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. - Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế định tội phạm và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân địa phương và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế nhằm đưa ra những kiến nghị, những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2009 đến 2014. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng 11 Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Các phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng trong thực tiễn đời sống xã hội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội và những kiến nghị, đề xuất. 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN 1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam Định tội danh là xác định tên của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự qua việc xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh tội phạm. Trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều phải tiến hành định tội danh. Định tội danh là bước đầu xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Đây chính là nền tảng, ảnh hưởng tới toàn bộ các hoạt động xác định trách nhiệm hình sự tiếp theo: định khung và quyết định hình phạt. Chỉ có thể xác định khung hình phạt và hình phạt khi đã xác định chính xác tội danh và nếu việc định tội danh sai sẽ kéo theo toàn bộ các kết quả của quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự trở thành sai lầm và không có giá trị pháp lý. Hiện nay về định tội danh còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau và chưa có những nghiên cứu chuyên sâu đảm bảo đúng cho việc định tội. Các học giả nước ngoài đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau về định tội danh, có thể chỉ ra hai học giả tiêu biểu đó là Viện sĩ Kuđriavtxev VN (Liên Xô cũ) và Học giả Sliapôtrnhikôv A.C. Trong khi Viện sĩ Kuđriavtxev VN cho rằng: Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý hình sự, sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với các cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định. Học giả Sliapôtrnhikôv A.C thì lại cho rằng: Định tội danh là một giai đoạn của hoạt động bảo vệ pháp luật do các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử thực hiện trên 13 cơ sở các quy phạm pháp luật hình sự và dựa vào các tình tiết thể hiện sự nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể để xác định dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng với hành vi đó. Khoa học luật hình sự Việt Nam cũng chưa có sự thống nhất chung về khái niệm định tội danh. Điển hình là trong "Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự", GS.TSKH. Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa có tình mô tả, chỉ dẫn hoạt động cũng như yêu cầu và ý nghĩa của việc định tội danh như sau: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tình logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [2]. TS. Lê Văn Đệ thông qua việc đưa ra nghiên cứu chế định nhiều tội phạm lại đưa ra định nghĩa: "Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp luật sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định" [14]. Ngoài ra, trong các tài liệu tham khảo và sách báo pháp lý khác, chúng ta còn gặp một số định khác về định tội danh có nội dung tương tự. Các học giả, nhà nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu định tội danh ở góc độ áp dụng pháp luật, xác định sự phù hợp giữa hành vi xảy ra trên thực tế và các quy định của Bộ luật hình sự. 14 Tuy nhiên dù khác nhau về các tiếp cận, phương pháp diễn đạt cũng như mục đích mà tác giả hướng tới song ở các định nghĩa về định tội danh đều thống nhất ở điểm: định tội danh là hoạt động đối chiếu, so sánh về mặt pháp luật nhằm xác định một tội phạm xảy ra trên thực tế có tên gọi là gì theo quy định của pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự là nguồn duy nhất để xác định một hành vi là tội phạm cũng như các loại tội phạm theo ý chí của Nhà nước. Bộ luật hình sự được kết cấu thành hai phần, trong đó Phần các tội phạm cụ thể được phân chia thành các chương có nhiệm vụ bảo vệ các khách thể thuộc cùng một nhóm. Mỗi chương có các điều luật cụ thể với tên gọi riêng, được ghi nhận ngay liền sau số thứ tự. Và đó chính là tội danh của tội phạm thỏa mãn cấu thành mà điều luật mô tả. Luật hình sự Việt Nam đặt tên cho các tội phạm thường dựa vào các đặc trưng, những điểm khác biệt của tội phạm đó so với các tội phạm khác thuộc cùng nhóm khách thể. Ví dụ: - Dựa vào đặc điểm của hành vi, tội danh là tên của hành vi khách quan: Tội gián điệp (Điều 80), Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội bức tử (Điều 100), Tội vu khống (Điều 122); Tội nhận hối lộ (Điều 203); - Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan và đối tượng tác động, tội danh là tên hành vi và đối tượng bị xâm hại: Tội giết người (Điều 93); Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)... - Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan, ý thức chủ quan và đối tượng tác động, tội danh là tên của loại lỗi, hành vi và đối tượng tác động: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác (Điều 104); Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội quảng cáo gian dối (Điều 168).... - Dựa vào loại lỗi, đối tượng tác động và hậu quả, tội danh là tên của loại lỗi và tính chất của thiệt hại: Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145); Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165)... 15 Mỗi tội danh, mỗi loại tội phạm đều có giới hạn hình phạt xác định tương đối (mức thấp nhất và cao nhất) để áp dụng cho các chủ thể đã thực hiện và chỉ những chủ thể đã thực hiện tội danh này mới có thể bị áp dụng các chế tài đã được quy định trong điều luật. Hệ thống các quy định của pháp luật hình sự có các nguyên tắc đảm bảo mỗi tội phạm cụ thể có một và chỉ một tội danh; không thể có một hành vi nguy hiểm cấu thành đồng thời cả hai chế tài áp dụng với chúng. Không có áp dụng tương tự trong luật hình sự, do đó việc định tội phải tuân thủ tuyết đối các quy định về nội dung của Bộ luật hình sự và chỉ Bộ luật hình sự mới là căn cứ pháp lý cho định tội danh. Tuy nhiên với tư cách là vấn đề cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động định tội danh còn phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục, thẩm quyền... Xét ở góc độ chung nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức phức tạp. Bộ luật hình sự Việt Nam phân chia tội phạm nói chung thành các tội riêng lẻ với những đặc trưng nhất định và có tên gọi khác nhau. Tương ứng với mỗi tội phạm đều có một điều luật riêng để điều chỉnh về loại tội phạm đó, tên của điều luật này chính là tội danh. Tại các điều luật đều thường có phần mô tả các hành động hoặc không hành động của chủ thể, các thiệt hại, đối tượng bị tác động, lỗi của người phạm tội. Đây chính là các yếu tố của cấu thành tội phạm, cho phép xác định những hành vi thỏa mãn các dấu hiệu này và một số các dấu hiệu được ghi nhận trong các điều luật thuộc Phần chung của Bộ luật hình sự (về năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi, lỗi, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự...) là tội phạm với tội danh là tên của điều luật. Hoạt động định tội danh phải nhận thức về tội phạm cụ thể và pháp luật hình sự để có kết luận về loại tội phạm thông qua việc xác định điều luật thuộc Phần các tội phạm cụ thể trực tiếp điều chỉnh tội phạm nên định tội danh là một quá trình nhận thức trải qua các giai đoạn khác nhau như xác định 16 một hành vi là tội phạm: căn cứ vào định nghĩa về tội phạm tại Điều 8 của Bộ luật hình sự, từ việc xem xét khái quát các sự kiện xảy ra để khẳng định hành vi có nguy hiểm cho xã hội là tội phạm theo định nghĩa này; xác định nhóm các quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh tội phạm, tức là xác định tội phạm được quy định tại chương nào của Bộ luật hình sự thông qua việc xác định nhóm khách thể bị tội phạm xâm hại. Xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh tội phạm: mỗi tội phạm bao giờ cũng có những đặc trưng nhất định và được luật hình sự ghi nhận là dấu hiệu bắt buộc, sự tổng hợp của các dấu hiệu này trong khoa học luật hình sự gọi là cấu thành tội phạm (cơ bản). Để khẳng định một hành vi phạm tội người định tội danh phải chứng minh được hành vi thực tế đã có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản và sự thể hiện này phải là sát hợp nhất, trừ một số trường hợp đặc biệt: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm. Việc phân chia các giai đoạn trong định tội danh chỉ có tính ước lệ, bởi thực tế các hoạt động này có diễn ra đồng thời, đan xen, bổ trợ cho nhau khó có thể phân tách chính xác. Người tiến hành định tội danh luôn phải nhận thức các tình tiết của vụ việc trong sự đối chiếu, so sánh với tất cả các quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến tội phạm đó: quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi, hậu quả, lỗi... Toàn bộ các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm cũng như các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự tạo thành hệ quy chiếu, khuôn mẫu, làm căn cứ xem xét hành vi thực tế có là tội phạm hay không phải được người tiến hành định tội danh nắm rõ. Định tội danh là sự nhận thức về một vụ việc trong hệ quy chiếu là pháp luật hình sự. Bất kỳ ai cũng có thể tiến hành định tội danh, gọi tên của hành vi theo tên Bộ luật hình sự đã quy định. Việc định tội danh này không có ý nghĩa pháp lý đe dọa gây ra những hậu quả bất lợi cho chủ thể đã thực hiện 17 tội phạm, nó còn được gọi là định tội danh không chính thức. Bộ luật hình sự là căn cứ pháp lý duy nhất của việc định tội danh. Trong giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của chủ thể trước Nhà nước, định tội danh là hoạt động bắt buộc của tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án qua các giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Để có thể khởi tố bị can, áp dụng bất kỳ hậu quả bất lợi nào do việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với chủ thể, các cơ quan có thẩm quyền phải nêu được tội danh mà kẻ phạm tội đã phạm phải, tức là chứng minh được rằng chủ thể đã thực hiện một tội phạm cụ thể mà Bộ luật hình sự quy định. Các cơ quan tiến hành tố tụng, trực tiếp giải quyết vụ án hình sự đều tiến hành định tội danh và thể hiện rõ trong: Quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng, bản án...kết quả định tội này đều có ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của người thực hiện tội phạm, có thể dẫn đến việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, định chỉ vụ án... Tội danh có thể được xác định thống nhất trong suốt quá trình giải quyết vụ án song cũng có thể thay đổi qua các giai đoạn. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền định tội danh pháp lý khẳng định trách nhiệm hình sự, thể hiện chính thức quan điểm của Nhà nước về hành vi phạm tội bằng một bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Nội dung này được quy định rõ trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự: "Không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án". Định tội danh là xác định tên gọi cho tội phạm, về nội dung chỉ căn cứ vào tình tiết vụ án và quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi định tội danh chính thức, việc định tội danh phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền: thẩm quyền theo cấp, theo lãnh thổ, về thủ tục đặc biệt trong một số trường hợp theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, việc khởi tố vụ án (thủ tục bắt buộc trước khi định tội danh) chỉ được đặt ra khi có yêu cầu của người 18 bị hại, trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toàn thì vụ án được đình chỉ... Định tội danh được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng. Tội danh là sự thể hiện có tình nền tảng và quan trong về trách nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm. Trên cơ sở tội danh đã xác định, các cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành định khung và quyết định hình phạt. Tội danh được xác định đúng là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt ở các bước tiếp theo (định khung hình phạt và quyết định hình phạt), nhờ đó vụ án được giải quyết chính xác, công bằng cũng như đạt được mục đích của hình phạt. Như vậy, có thể hiểu, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật, trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể với các quy định của pháp luật hình sự, các yếu tố cấu thành tội phạm, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác định được tên gọi của tội phạm, đặt nền tảng cho quá trình giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. 1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án [20, tr. 59]. Ở nước ta hiện nay, chưa có văn bản pháp lý hình sự nào xác định khái niệm về quyết định hình phạt. Khi nghiên cứu khoa học luật hình sự có thể nhận ra hai quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt, đa số các tác giả, khi nghiên cứu khoa học luật hình sự đều cho rằng: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội. Tuy nhiên, cũng có những tác giả cho rằng cần hiểu quyết định hình phạt theo nghĩa rộng 19 hơn, nghĩa là quyết định hình phạt bao gồm các hoạt động: xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc dưới khung đó [44, tr. 201-202]. Khi tìm hiểu, tham khảo các tài liệu nước ngoài cũng có thể thấy những quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt, có thể lấy ví dụ cụ thể như trong cuốn "Justice, crime and ethics" xuất bản năm 1991, tác giả đã nhận định: Quyết định hình phạt là quyết định biện pháp xử lý đối với người bị coi là tội phạm. Thông thường, hình phạt sẽ được áp dụng cho người phạm tội. Còn trong cuốn "Princippled Sentencing" xuất bản năm 2000, tác giả của cuốn sách lại chỉ rõ: Quyết định hình phạt là việc xác định chế tài đối với người phạm tội về tội phạm họ đã gây ra bao hàm cả việc tước tụ do của họ. Khi các dấu hiệu của tội phạm được xác định thì thông thường, việc quyết định hình phạt sẽ được thực hiện. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào xác định cụ thể khái niệm quyết định hình phạt, bản thân tác giả của luận văn đồng ý với quan điểm mà TS. Dương Tuyết Miên đưa ra: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tình chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự hoặc có thể là miễn hình phạt (trường hợp này, hoạt động quyết định hình phạt chấm dứt tại đây) hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phát là việc xác định hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định đối với bị cáo [20, tr. 63]. Vì những lý do sau: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan